1. Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo
Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo
Phật trở thành lễ hội truyền thống của dân tộc. Vì thế, nhân dân ta,
người theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, cứ đến ngày rằm tháng Bảy
hàng năm, đều có tục lệ lên chùa, sắm sửa chút lễ vật, dâng tấm lòng
thành của mình cầu mong cho những người đã khuất, thoát khỏi cảnh tam
đồ, siêu sinh Lạc quốc; người còn sống nương theo sự hành xử hiếu hạnh
này mà cởi trói phiền não, thân tâm an lạc, vạn sự an lành:
“Rằm tháng Giêng ai siêng thì quảy,
Rằm tháng Bảy người quảy khắp nơi”.
Rõ ràng, cội rễ của lễ Vu lan, suy cho cùng, nó phải được xuất phát
từ cái tình người, từ “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.
Chính Đức Phật cũng từng chỉ dạy: “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh
từng là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em trong vòng sống tương tục, mãi
hoài”. Đạo lý của dân tộc Việt Nam
là “Thương người như thể thương thân”. Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì
khi ca dao Việt Nam ghi nhận về sự sinh hoạt 12 tháng của dân tộc ta, đã
dành một tháng Bảy (âm lịch) để nói về công hạnh lễ Vu lan và ảnh hưởng
của ngày lễ này đối với truyền thống tín ngưỡng văn hóa của dân tộc như
là đạo lý sống của người dân Việt. Đây là thái độ sống biết rõ cội rễ
của con người trong ý nghĩa tồn tại và phát triển, đều phải được xuất
phát từ tâm hiếu, mang thực tính yêu thương, đầy bao dung, tha thứ, vô
ngã, vị tha trong dòng sống tương tục này. Thế nên, ta mới biết mình
thương thân như thế nào thì thương thân người khác như thế ấy. Tại đây,
mọi giá trị yêu thương “thật” của con người mới được hiển lộ qua thái
độ, quan điểm sống của mọi cá nhân hiện hữu, trong cuộc sống vốn luôn
biến động không ngừng.
2. Do lễ Vu lan được nhân dân ta nhìn nhận là ngày lễ hội văn
hóa tình người, nên nó được truyền thông gắn liền sự kết nối yêu thương
giữa tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhiều đời, vô thỉ vô chung với con cháu
đời này, đời sau; giữa quá khứ, hiện tại và tiếp nối tương lai của người
còn và kẻ mất trong dòng sống tương tục. Đúng như văn chương dân gian
truyền tụng:
“Cha già là Phật Thích Ca,
Mẹ già như thể Phật bà Quan Âm
Nhớ ngày Xá tội vong nhân
Lên chùa lễ Phật đền ơn sinh thành”.
Vì vậy, ngày lễ Vu lan còn có ý nghĩa nhân văn thiêng liêng với tên
gọi là ngày Xá tội vong nhân. Vào ngày này, bất luận là ai, người ta
cũng hướng tâm cầu nguyện cho mọi người quá vãng được siêu sinh, thoát
khỏi cảnh giới tam đồ địa ngục. Theo triết lý Duyên khởi, thì ngày này
càng có ý nghĩa hơn, khi người ta càng thực hành và thể hiện tâm hiếu
hạnh đối với cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộc, bằng hữu và những người
xung quanh mình trong thái độ sống tri ân và biết ân. Thông qua các giá
trị huyền sử của sự tích Vu lan, được bắt nguồn từ việc báo hiếu của
Tôn giả Mục Kiền Liên, câu chuyện muốn cảnh thức người nào tạo tội ác
thì sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu thống khổ cũng giống
như người bị treo ngược. Thế nên, mỗi lần nghĩ đến công ơn sinh thành
cha mẹ, hoặc những người đã từng cứu độ mình, khi mùa Vu lan đến là họ
lên chùa nguyện cầu Tam bảo, cùng với chư Tăng khấn nguyện cho các vị
tiền nhân, cha mẹ ông bà, người thân quá vãng ra khỏi địa ngục, thoát
cảnh bị treo ngược:
“Nhờ phép Phật sinh Tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch,
oán thù rửa không
Nhờ Đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới, thập phương…
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ cùng vào nghe kinh…”.
(Nguyễn Du - Văn tế thập loại cô hồn)
Đối với cha mẹ hiện tiền, thân bằng quyến thuộc, ngoài việc phụng
dưỡng vật chất, báo đáp ân sinh thành dưỡng dục, mọi người còn phải biết
hướng dẫn cha mẹ và người khác hướng tâm đến Tam bảo, thực thi hạnh
lành trong ý nghĩa kết nối yêu thương và hiểu biết, khoan dung và độ
lượng từ điểm nhìn của giá trị hạnh phúc tình người. Đây là giá trị thứ
hai mọi người cần tâm niệm.
3. Giá trị thứ ba, mọi người cần nhận thức rõ là ngày Vu lan
cũng là ngày kết thúc ba tháng an cư kiết hạ, được mệnh danh là ngày
Tăng tự tứ. Tự tứ là dịch nghĩa chữ Phạn Pravàrana, phiên âm là
Bát-hòa-la, dịch nghĩa là tùy ý. Nghĩa là mỗi Tỳ kheo sau ba tháng an
cư, trau dồi giới đức phải tự mình phát lồ sám hối; hoặc nhờ các vị đồng
phạm hạnh nếu thấy, nếu nghe, hoặc nghi ta phạm lỗi thì sẵn lòng chỉ
bảo, để ta nương theo đó mà sám hối sửa đổi những sai lầm. Đây là việc
làm hết sức cao quý trong ngày tự tứ của chư Tăng. Điểm đáng nói là
trong ngày lễ này, các Tỳ kheo tự thân cầu người khác chỉ lỗi cho mình
và mình phải đối trước Tăng mà thưa “Thưa Đại đức, hôm nay chúng Tăng tự
tứ, tôi cũng tự tứ. Tôi có điều gì sai phạm mà Đại đức thấy, nghe, hoặc
nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếu tôi thấy phạm thì xin như
pháp sám hối. Tôi không phàn nàn, không thắc mắc, và tôi không oán trách
gì Đại đức hết”. Như vậy, đây chính là ý nghĩa mong cầu giải thoát,
mong cầu được thanh tịnh sau tự mình phát lộ và sẵn sàng sửa đổi lỗi
lầm, tội lỗi.
Và như thế, ngày Tự tứ có ý nghĩa mong cầu giải thoát hệ lụy khổ đau,
do người khác chỉ ra từ các lỗi mình đã tạo. Nó cũng khẳng định sức
mạnh niềm tin của mỗi vị Tăng trên bước đường tu học giải thoát. Một
mặt, nó thiết lập lòng tự tín đối với chính tự thân mỗi hành giả, tin
mình đã thăng tiến đạo hạnh, tin mình thành tựu công đức giải thoát sau
ba tháng tịnh tu tam nghiệp. Mặt khác, nó cũng làm cho hành giả khởi lên
niềm tin giải thoát đối với các vị đồng phạm hạnh là những người thanh
tịnh, thăng chứng đạo hạnh, có tâm vị tha, tâm bao dung, độ lượng để chỉ
bảo cho mình các lỗi lầm còn mắc phải. Nhờ vậy, tự thân mỗi hành giả,
sau ba tháng an cư giới đức được thanh tịnh, định nghiệp tăng trưởng,
trí tuệ khai mở. Trên hết là đại chúng hòa hợp, thanh tịnh; Chánh pháp
được trường tồn.
4. Cũng trong ngày lễ tự tứ này, mà chúng Tăng, mỗi người thụ
giới an cư mãn hạ được nhận thêm một tuổi đạo, nên ngày này còn được gọi
là ngày Tăng thọ tuế. Theo luật Phật chế, hàng xuất gia tính tuổi theo
hạ lạp. Nghĩa là, năm nào vị Tỳ kheo đó có an cư kiết hạ trọn vẹn mới
được Tăng già công nhận một tuổi hạ. Do đó, ngày này cũng có ý nghĩa
quan trọng đối với chư Tăng. Bởi vì, nó minh định, khẳng định cho sự
thành tựu đạo nghiệp của người xuất gia học đạo, tu đạo và chứng đạo
trong lộ trình hướng tâm cầu giải thoát. Ngày Tăng thọ tuế cũng là ngày
Tết của chư Tăng, ngày chư Tăng được tính thêm tuổi đạo, có giá trị khác
hẳn với tuổi đời. Tuổi đời thì được tính theo thời gian năm tháng của
năm; còn tuổi hạ thì được Giáo hội Tăng già công nhận do sự kết tinh
những công đức tu tập, sự tinh chuyên tu trì giới định tuệ trong ba
tháng an cư mà chứng đắc, mà sở ngộ của mỗi hành giả. Nhờ công đức này
mà hội chúng được an lạc, giáo pháp từ đó được xương minh. Đây chính là
giá trị giải thoát thứ tư chúng ta hướng tâm nghĩ đến.
5. Cuối cùng, giá trị giải thoát mà chúng tôi muốn nói nữa,
ngày Vu lan cũng là được gọi là ngày Phật hoan hỷ. Suy cho cùng, các đệ
tử của Thế Tôn đã thực thi lời Phật dạy, giữ đúng truyền thống luật Phật
chế, trau dồi thân tâm ba tháng, tịnh tu tam nghiệp, thành tựu mục đích
tối thượng mà Phật mong mỏi. Hơn nữa, ngày này là ngày kết tinh mọi
thành tựu, mọi giá trị giải thoát đã nói trên. Sau ba tháng kiết hạ,
chúng Tăng nhờ vậy mà thành tựu công đức thù thắng. Chư Phật mười phương
vô cùng hoan hỷ. Không ai khác hơn, Tăng bảo là một trong ba ngôi Tam
bảo, thay Phật truyền bá Chánh pháp ở giữa thế gian này. Giới tại gia
cũng nhân ba tháng này mà nương vào chư Tăng tu học, hộ trì Tam bảo mà
thành tựu thiện pháp, bao nhiêu nghiệp chướng được tiêu trừ, thân tâm
được an lạc. Trên hết, mọi người đến với nhau bằng cả tâm hiếu, hạnh
Phật để kết nối sự yêu thương, xóa tan hận thù, và chung sống với nhau
bằng sự hòa bình, bình đẳng, hạnh phúc thật sự.
Với tất cả ý nghĩa giải thoát như thế, lễ Vu lan thật sự đi vào tâm
thức đời sống văn hóa tâm linh con người. Nó không chỉ kết nối mọi gia
đình bà con huyết thống ở một đời trong một gia đình, một họ tộc mà còn
thắt chặt với nhau bằng cái tình đồng bào, tình nhân loại thông qua mọi
thời gian và mọi không gian. Giá trị lớn nhất của lễ Vu lan là xây dựng
được một thái độ sống, một nếp sống giải thoát tất cả các khổ đau hệ
lụy; trên hết là hướng tâm đến việc thiết lập hạnh phúc và an lạc khởi
đầu bằng “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.
Thích Phước Đạt (GNO)