Hiếu là một đề tài khá quan trọng trong những thảo luận Phật giáo.
Trong nhiều kinh sách Phật giáo, ta có thể tìm thấy những lời dạy liên
quan đến chủ đề này. Và khi đọc vào những kinh sách đề cập đến hiếu
hạnh, hay về những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái, từ cả hai nguồn
Nam và Bắc truyền, ta có thể thấy hiếu được trình bày dưới những góc độ
khác nhau.
Đã từ lâu, vấn đề vai trò của tôn giáo
trong việc kiến tạo và bảo vệ nền hòa bình thế giới đã thu hút sự quan
tâm không chỉ của giới chính khách mà hầu như của tất cả những ai đang
ưu tư đến sự an ninh của toàn cầu. Kể từ Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình
thế giới được tổ chức lần đầu tiên tại Kyoto, Nhật Bản vào tháng
10-1970
Thiền Tông chủ trương “Dĩ tâm truyền tâm” (2) và dùng toạ thiền để “kiến tánh” ,
trực giác chân lí. Phật Thích Ca vốn đã có chủ trương này nhưng không
phát huy được ở Ấn Độ mà phải đợi đến khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII khi
tổ sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ đem tâm ấn truyền sang đất Trung Hoa
thì đạo Thiền mới phát triển rực rỡ. Vị tổ sư ấy là Bồ Đề Đạt Ma, được
tính là tổ sư đầu tiên của Thiền Tông Trung Hoa, gọi là Sơ Tổ.
Bài thơ này ví von cũng rất hay. Chữ Tâm
心 trong chữ Hán được mô tả có ba chấm như ba ngôi sao (Tam điểm như
tinh tượng), còn móc câu nằm ngang như ánh trăng nghiêng (Hoành câu tợ
nguyệt tà). Phi mao tùng thử đắc, tố Phật dã do tha: Mang lông đội sừng
tức làm thân trâu, ngựa… là do tâm này, mà Phật cũng từ nó.
Tất cả mọi người tu, ai
cũng có ước
nguyện được sanh về cõi Cực Lạc hoặc nhập Niết Bàn vô sanh không còn
luân hồi
sanh tử. Nhưng tu thế nào mới gần và được Niết Bàn? Tu thế nào xa và
không được
Niết Bàn? Bài kệ sau đây của một tôn giả đệ tử Phật nói về việc gần và
xa Niết
Bàn:
Tự lực và tha lực là hai
khái niệm đối đãi được hình thành từ nhận thức của con người về sự hiện
hữu độc lập của mỗi một cá thể trong thế giới thời-không. Đây là loại
nhận thức xuất hiện rất sớm trong mỗi người, ít nhất là từ khi con người
bắt đầu nhận biết về thế giới chung quanh.
Bài tham luận này ghi lại từ đầu quá trình phản đối và
đấu tranh để cuối cùng việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni đã được phục hoạt ở
Tích lan vào năm 1998 sau gần một ngàn năm. Bài này cũng mô tả những
động lực thúc đẩy Ni-đoàn dần dần được quần chúng ở Tích lan chấp nhận
đến nỗi là ở một vài vùng nông thôn
Theo
các sử gia, các nhà nhân chủng
học và khảo cổ học, cách đây khoảng 5000 năm, tại những nền văn minh tối
cổ, một
số thủ lãnh đã thống nhất được các bộ tộc và hình thành những vương quốc
hùng mạnh.
Sự
mô tả về địa ngục trong Phật Giáo hoàn toàn khác đối
với những tôn giáo khác, ngoại trừ một vài nét giống với Ấn giáo. Trước
hết chúng ta cần hiểu về cái chết. Một nguyên tắc chung có thể đo
lường được đó là định luật bảo toàn năng lượng (The law of conservation
of energy), cho chúng ta thấy được làm thế nào vật chất và năng lượng
là có thể chuyển biến nhưng không mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang
dạng khác.
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật
giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh
chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm
những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
Các tin đã đăng: