“Cõi âm” và Khả
Năng Ngoại Cảm
Nguyễn Đức
Cần
Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm
đi
tìm mộ và hài cốt chiến binh tử trận và tiếp xúc được với người “cõi
âm”.
Vậy, theo quan điểm Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Phật
giáo
quan niệm rằng: thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh
vào
một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác
thì
“ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách
nay
hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? “Cõi âm” mà các
nhà
ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo.
Việc các nhà ngoại
cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi
âm”
được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng.
Thực ra,
khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước
trên
thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh
vực của
đời sống, trong đó có cả quân sự. Và các nhà khoa học Việt Nam, từ
khoảng 15
năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng
đặc
biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực
này là
các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện
Khoa học
Hình sự Bộ Công an Việt Nam, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và
Bộ
môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Trước hết, Phật giáo
không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới
quan
của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới,
trong đó
có thế giới Ta Bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và
Vô
sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A
tu
la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là
quan
niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người
sống
(cõi dương).
Đối với các bậc chân
sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là
chuyện
bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền
định mà
thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại
cảm
hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực
thấy
rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất
cả các
dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người
cùng các
chúng sanh khác). Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố
về
thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ
thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay
lạm
dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành
giả
Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối
với
giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung
tâm
Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định:
“Việc
‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra
là
hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”.
Sau khi chết, thần
thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái
sanh.
Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49
ngày,
ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức
vào
cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của
thân
trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần
thức
hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử
nghiệp
bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các
“oan
hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh.
Ngoài các thân trung
ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những
chúng
sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác:
“Thế
giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”.
Chúng
sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo.
Những
đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc
“những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này.
Như vậy, “cõi âm” mà
các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn
thân
trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng
nói rõ
là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những
người
tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được
địa
ngục mà thôi.
Hiện nay, các nhà
ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng. Khuynh hướng thứ nhất
là
các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy
và
hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng
khả
năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà
không
cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt
này
chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã
theo
nghiệp tái sanh.
Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên
năng
lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay
trạng
thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều
chỉnh
nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ
không có
gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm
khoáng
sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh
(ngành y
khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai
thác
và ứng dụng. Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc
với
người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ
hoặc
những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô
cùng cần
thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người
“cõi
âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm
không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng
sanh
mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc
được
với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết.
Ở đây, trường hợp
đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất
đắc
kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn
các
luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của
thân
trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo
luận
sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara
Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian
nếu
nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả
Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109).
Kế thừa quan điểm
này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ
giác
chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải
dịch)
khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và
ít
nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống
tới
trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế
giới
trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có
cái
chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của
ám sát,
tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn,
hoặc ở
mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể
tiến
đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do
trên, có
những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh.
Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình
dáng,
tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong
trường hợp
này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái
chết”,
“bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp
thủ
kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra
một
dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải
oan
bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai
thị
cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế
là
ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ
hồi
tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng.
Như vậy, thế giới
“cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân
duyên
đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người.
“Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân
trọng,
quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những
tâm
tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí
vận
quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương
thái
theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm.
Ngày nay, các nhà
khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường
sinh
học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu
“vật
chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không,
không tức
thị sắc” (Bát nhã Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A
lại
da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức
học,
chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ
giác
này.