A- Dẫn
nhập
Trải qua nửa
thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân
biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn. Những đệ tử được Thế Tôn hóa độ, do
căn cơ trình độ, tuổi tác, giới tính bất đồng, vì thế được chia thành 7 nhóm và
được gọi là 7 chúng đệ tử của Phật.
Trong đó, hai
nhóm đầu là Ưu bà tắc và Ưu bà di thuộc hàng đệ tử tại gia; năm nhóm sau là Sa
di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỷ kheo và Tỷ kheo ni thuộc hàng đệ tử xuất gia.
Trong bài này, chúng tôi sẽ tuần tự trình bày những giới pháp mà mỗi chúng đệ
tử phải lãnh thọ, hành trì trên lộ trình tiến đến giải thoát.
B- Nội dung
I. Tam quy Ngũ giới
Hai thành phần
cư sĩ tại gia là Ưu bà tắc và Ưu bà di. Ưu bà tắc (Upàsaka) được dịch ý là Cận
sự nam, nghĩa là người nam cư sĩ thân cận chùa chiền, phụng sự Tam bảo; ngoài
ra còn gọi là Thanh tín sĩ, nghĩa là trang nam tử có niềm tin Tam bảo trong
sáng. Hạng thứ hai là Ưu bà di (Upàsikà), được dịch ý là Cận sự nữ, Thanh tín
nữ, nghĩa là người nữ đã thọ ba quy y, giữ gìn năm giới, thực hành thiện pháp, thân
cận phụng sự Tam bảo
Theo lịch sử
Phật giáo thì hai thương gia Ðề Vị (Trapusa) và Ba Lợi (Bhallika) là hai đệ tử
Ưu bà tắc đầu tiên của Phật, người mẹ và vợ trước khi xuất gia của tôn giả Da
Xá (Yasa) là hai đệ tử Ưu bà di đầu tiên trong hàng nữ Phật tử tại gia.
Giới pháp căn
bản mà hai hạng người này thọ trì là năm giới. Nhưng trước khi thọ năm giới,
điều kiện tiên quyết cho tất cả mọi tầng lớp người có niềm tin hướng về Phật giáo
là thọ ba pháp quy y.
Nội dung ba
pháp quy y
* Trở về nương
tựa Phật, người dẫn đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
* Trở về nương
tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
* Trở về nương
tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức (1).
Phật, Pháp và
Tăng có mặt trong mười phương thế giới mà cũng có mặt trong mọi người và mọi
loài. Trở về nương tựa Phật nơi Phật, Pháp và Tăng cũng có nghĩa là tin tưởng ở
khả năng giác ngộ nơi tự tánh mình, ở khả năng khai mở và phát triển của tình
thương và trí tuệ nơi bản thân cũng như những người đồng đạo.
Năm giới là
những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ. Ðó
cũng là những nguyên tắc để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc
gia đình và xã hội. Học hỏi và thực hành 5 giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh
pháp, sẽ tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi và thất vọng. Ta sẽ xây dựng được an
lạc, hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và góp phần vào sự an ổn cho toàn xã
hội.
Giới tướng
của 5 giới
* Giới thứ
nhất: Không được sát sinh
Ý thức được
những khổ đau do sự sát hại gây ra, người Phật tử phải học theo hạnh đại bi để
bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Người Phật tử không giết hại sinh
mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại mọi loài có
mạng sống.
* Giới thứ
hai: Không được trộm cắp
Ý thức được
những khổ đau do lường gạt, trộm cắp và bất công xã hội gây ra, người Phật tử
theo học hạnh đại từ để đem niềm vui đến cho mọi người và mọi loài, chia sẻ thì
giờ, năng lực và tài lực của mình cho những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Người
Phật tử nguyện không lấy bất cứ một thứ của cải nào không được người khác vui
lòng đem cho. Ðồng thời nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, tích cực
ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của cá
nhân và tập thể.
* Giới thứ
ba: Không được tà dâm
Ý thức được
những đau khổ do thói tà dâm gây ra, người Phật tử học theo tinh thần trách
nhiệm, giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã
hội. Ý thức được những hành động bất chính sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho
chính mình, người Phật tử nguyện không ngoại tình mà sống chung thủy với người
bạn đời có hôn phối hợp pháp.
* Giới thứ
tư: Không được nói dối
Ý thức được
những khổ đau do lời nói hư vọng gây ra, người Phật tử học theo hạnh ái ngữ và
biết lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của
người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc đau khổ cho người khác,
người Phật tử chỉ nên nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy
vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Người
Phật tử nguyện không nói những lời sai với sự thật, không nói những lời gây
chia rẽ và căm thù. Nguyện không lan truyền những tin tức thất thiệt, không phê
bình và lên án những điều mà mình không biết chắc. Nguyện không nói những điều
có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể.
* Giới thứ
năm: Không được uống rượu
Ý thức được
những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, người Phật tử học cách
chuyển hóa thân tâm, bồi dưỡng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập
chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Người Phật tử chỉ nguyện tiêu thụ
những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm minh, cho gia đình và cho xã hội.
Nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu
thụ những sản phẩm có độc tố (trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền
hình, sách báo và phim ảnh). Những ai tàn hại thân tâm bằng rượu và các độc tố
là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Người
Phật tử nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực
tập phép kiêng cữ cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội (2).
II. Bát quan trai giới
Ðây là loại
giới pháp Phật chế định cho đệ tử tại gia học tập xuất gia tạm thời. Những giới
tử này rời bỏ gia đình đến ở chùa để tập sự nếp sống của người xuất gia trong
vòng một ngày đêm. Bát nghĩa là tám, Quan nghĩa là đóng cửa (của 6 căn) lại,
Trai nghĩa là chay lạt., Giới nghĩa là những điều răn nhằm ngăn ngừa những sai
phạm. Người giữ 8 giới này có thể phòng hộ các ác hạnh của ba nghiệp thân,
khẩu, ý, lại có thể đóng cửa con đường ác, nên gọi là Bát quan trai giới. Trong
8 giới này, 7 điều đầu gọi là giới, một điều sau "không ăn phi thời"
gọi là trai, họp chung lại thành ra 8 trai giới. Phật chế định những giới này
để Phật tử, không phân biệt nam nữ, thọ trì vào 6 ngày trai của mỗi tháng, tức
ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (theo âm lịch, nếu tháng thiếu thì đổi hai ngày
cuối cùng thành ra 28 và 29). Vì người thọ giới này phải rời bỏ gia đình đến
chùa sống gần với chư Tăng trong một ngày đêm nên gọi là Cận trụ nam, Cận trụ
nữ.
Nội dung của 8
giới pháp
* Giới thứ
nhất: Không được sát sinh
* Giới thứ hai:
Không được trộm cắp
* Giới thứ ba:
Không được hành dâm
* Giới thứ tư:
Không được nói dối
* Giới thứ năm:
Không được uống rượu
* Giới thứ sáu:
Không được trang sức bằng vòng hoa, không được ca hát, nhảy múa và cố ý đi xem
nghe
* Giới thứ bảy:
Không được ngồi nằm giường ghế cao sang lộng lẫy
* Giới thứ tám:
Không được ăn phi thời.
Trong 5 giới
đầu ở đây tương tự như ngũ giới ở trước, chỉ khác là trong giới thứ ba, giới tử
tuyệt đối không được hành dâm - giống như nếp sống phạm hạnh của người xuất gia
- còn giới thứ ba trong ngũ giới thì người cư sĩ được phép ân ái với người hôn
phối chính thức, chỉ trừ việc ngoại tình mà thôi. Ngoài ra, luận Thành Thật và
luận Trí Ðộ thì tách giới thứ 6 ra làm hai, như vậy thành ra 8 điều, rồi ghép
điều cuối cùng "Không ăn phi thời", gọi là 8 trai giới.
III. Thập thiện giới
Các nam nữ Phật
tử sau khi thọ Tam quy, Ngũ giới, thấy đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học,
muốn tiến xa hơn nữa trên bước đường đi đến giải thoát, có thể thọ trì 10 thiện
giới. Mười thiện giới bao gồm trong 3 tụ tịnh giới sau đây:
1- Nhiếp luật
nghi giới: Người con Phật phải nguyện từ bỏ mọi điều ác.
2- Nhiếp thiện
pháp giới: Người con Phật vâng làm các việc lành.
3- Nhiêu ích hữu
tình giới: Người con Phật phải đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Nội dung của
mười thiện giới
1. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không giết hại chúng sanh mà còn đem sự sống đến
cho muôn loài.
2. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không trộm cắp mà còn đem tài sản của mình bố thí
cho kẻ khác.
3. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tà dâm, tôn trọng tiết hạnh và sự chung
thủy của mọi người.
4. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói dối, luôn luôn nói đúng sự thật.
5. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói lưỡi hai chiều, chỉ nói những lời đưa
đến hòa hợp, đoàn kết.
6. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói thêu dệt, mà nói những lời chính xác,
có thật.
7. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói thô lỗ mà luôn luôn nói những lời nhã
nhặn, từ ái.
8. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tham lam keo kiệt mà thực hành hạnh bố thí.
9. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không sân hận mà thực hành hạnh từ bi.
10. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tà kiến, cố chấp mà tu hành chánh kiến (3).
Trong mười giới
này, 3 giới đầu (1-3) thuộc về thân nghiệp; 4 giới giữa (4-7) thuộc về khẩu
nghiệp; 3 giới cuối cùng (8-10) thuộc về ý nghiệp.
IV. Giới pháp của Sa di
và Sa di ni
Sa di là tiếng
dịch âm của Pàli Sàmanera, và được dịch ý là Cầu tịch, Cần sách hay Tức từ.
Nghĩa là ưa sự vắng lặng, siêng năng tu học, dứt bỏ việc ác, thực hành từ bi.
Ðây là những người nam xuất gia từ 7 tuổi đến 70 tuổi, đã thọ mười giới mà chưa
thọ giới Cụ túc. Nếu người nữ xuất gia thì gọi là Sa di ni (Sàmaneri) được dịch
ý là Cần sách nữ, Tức từ nữ. Hai chúng này cùng chung một giới pháp. Phật quy
định tuổi xuất gia nhỏ nhất là 7 tuổi, lớn nhất là 70 tuổi. Người 70 tuổi mà
còn tráng kiện, có thể tu học tiến bộ thì cho xuất gia, nhưng nếu già yếu lụm
cụm thì không cho xuất gia.
Luật Ma Ha Tăng
Kỳ, quyển 29, căn cứ theo tuổi tác, chia Sa di thành 3 hạng:
1. Khu ô Sa di
(Sa di lo phận sự đuổi quạ) từ 7 tuổi đến 13 tuổi.
2- Ðáng pháp Sa di
(Sa di đúng pháp) từ 14 tuổi đến 19 tuổi.
3. Danh tự Sa di
(Sa di trên danh nghĩa) từ 20 tuổi trở lên.
Những người đã
thọ 10 giới thì gọi là Pháp đồng Sa di, nghĩa là Sa di đã đủ giới pháp; còn
những người mới xuất gia đã cạo đầu mà chưa thọ giới thì gọi là Hình đồng Sa di,
nghĩa là hình thức giống với Sa di.
Vị Sa di đầu
tiên trong hàng ngũ đệ tử xuất gia của Phật là La Hầu La (Rahula). Phật đã bảo
Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàriputta) làm Ðường đầu Hòa thượng truyền giới cho tôn
giả La Hầu La.
Mười giới
pháp của Sa di
Về phương diện
giới pháp thì hai chúng Sa di và Sa di ni cũng tuân thủ mười giới căn bản như
nhau, chỉ khác đôi chút về vấn đề oai nghi, nhưng không đáng kể. Mười giới pháp
được kể như sau:
1. Không được
sát sinh
2. Không được trộm
cắp
3. Không được dâm
dục
4. Không được nói
dối
5. Không được uống
rượu
6. Không được mang
vòng hoa thơm, không được dùng hương thơm xoa mình
7. Không được ca,
vũ, hòa tấu, biểu diễn hay đi xem nghe
8. Không được ngồi
nằm giường ghế cao đẹp lộng lẫy
9. Không được ăn
phi thời (ăn sau giờ ngọ)
10. Không được giữ
vàng bạc, bảo vật (4).
Ngoài 10 giới
đã kể trên, hai chúng này còn phải tuân thủ một số quy tắc theo nếp sinh hoạt
hàng ngày của thiền gia, tức là "Tỳ ni nhật dụng" gồm chừng 45 điều;
đồng thời phải giữ tác phong đạo hạnh gồm khoảng 24 điều, gọi là 24 oai nghi.
Hiện nay, ở
nước ta gồm có Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nguyên thủy (hay Nam tông) và hệ
phái Khất sĩ. Nhưng về giới pháp của Sa di thì trên căn bản gần như đồng nhất.
Chỗ khác nhau là Phật giáo Nam
tông không có Sa di ni (có lẽ do thất truyền) mà chỉ có tịnh nhân nữ (tu nữ).
Nghĩa là người nữ mặc áo hoại sắc, sống ở tự viện, theo nếp sống của người xuất
gia.
V. Giới pháp của Thức
xoa ma ni
Thức xoa ma ni
hay Thức xoa ma na là từ dịch âm chữ Phạn Siksamànà, hay chữ Pàli Sikkhamànà,
được dịch ý là Học giới nữ (người nữ học giới), Chánh học nữ (người nữ đang học
những pháp cơ bản). Người nữ xuất gia, trước khi thọ giới Cụ túc làm Tỷ kheo
ni, phải trải qua 2 năm học tập những học pháp căn bản của Tỷ kheo ni. Ở đây có
hai trường hợp: Nếu là đồng nữ xuất gia thì khi được 18 tuổi, cho thọ học Thức
xoa ma ni 2 năm, lúc đủ 20 tuổi sẽ cho thọ giới Cụ túc. Nếu người nữ đã có
chồng lúc 10 tuổi (ở Êẽn Ðộ ngày xưa có việc tảo hôn), mà xuất gia, cũng cho 2
năm học giới làm Thức xoa ma ni, sau 2 năm học giới xong, mới cho thọ Cụ túc.
Trong 2 năm này, một là để học hết những giới pháp căn bản, tôi luyện tính
tình, tập quen nếp sống xuất gia, khiến cho tâm ý được kiên cố; hai là để tránh
tình trạng đã có thai ở nhà mà không biết, đến khi thọ giới Cụ túc rồi mới phát
hiện [theo luật Thập Tụng]. (Vấn đề này rất phức tạp, ai muốn hiểu thêm xin xem
bài "Thập tuế tằng giá là thế nào?" đăng trên nguyệt san Giác Ngộ số
27, tháng 6-1998).
Sáu giới căn
bản
1. Không được
sát sinh
2. Không được trộm
cắp
3. Không được dâm
dục
4. Không được nói
dối
5. Không được uống
rượu
6. Không được ăn
phi thời.
Ngoài 6 giới kể
trên, Thức xoa ma ni còn phải học 18 tùy pháp (những pháp phụ), như trong Ni
luật đã đề cập, hoặc rộng rãi hơn là học tập 292 pháp (xem Thức xoa ma ni giới,
HT Trí Quang dịch, bản ấn hành năm 1994).
VI. Giới pháp của Tỷ
kheo
Trong 7 chúng
đệ tử của Phật thì Tỷ kheo được xem là trưởng tử của Như Lai, chiếm một địa vị
tôn quý nhất trong hàng ngũ đệ tử, cả tại gia lẫn xuất gia. Tiếng Pàli Bhikkhu được
phiên âm là Tỷ kheo, tiếng Sanskrit Bhiksu được phiên âm là Bí-sô. Hai chữ
Bhikkhu và Bhiksu cùng một nghĩa và được dịch ý là Khất sĩ, Bố ma, Phá ác.
- Khất sĩ: Ði
khất thực để tự nuôi sống mình một cách thanh tịnh, nên gọi là Khất sĩ.
- Bố ma: Tỷ kheo
có thể tu đạo khiến cho ác ma kinh hồn, nên gọi là Bố ma.
- Phá ác: Tỷ kheo
tu giới, định, tuệ, có thể phá trừ hai thức ác là Kiến hoặc và Tư hoặc, nên gọi
là Phá ác.
Ðây là những
người nam xuất gia đã thọ Ðại giới hay giới Cụ túc. Tiếng Phạn Upasampadà. Hán
dịch là Cụ túc hay Cận viên. Cụ túc nghĩa là thành tựu đầy đủ; Cận viên nghĩa là
đến gần Niết bàn viên mãn. Luật quy định số tuổi tối thiểu để thọ giới Cụ túc
là 20 tuổi. Một giới tử muốn thọ giới Cụ túc phải là người đầy đủ 6 căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý), đây là điều kiện chung, chủ yếu, từ xưa đến nay các
bộ phái đều nhất trí chấp hành. Những điều kiện này bao gồm cụ thể trong 13 già
nạn và 15 khinh nạn hay chướng pháp (xem Giới đàn Tăng, HT Thiện Hòa).
Theo giáo sử
thì 5 anh em tôn giả Kiều Trần Như (Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahànàma và
Assaji) là những đệ tử đầu tiên trong hàng ngũ đệ tử Tỷ kheo của Phật.
Luật Thập
Tụng chia Tỷ kheo làm 4 hạng:
1. Danh tự Tỷ
kheo: Tỷ kheo hữu danh mà vô thực
2. Tự ngôn Tỷ
kheo: Người tự xưng mình là Tỷ kheo
3. Vi khất Tỷ
kheo: Tỷ kheo đi khất thực để nuôi sống
4. Phá phiền não
Tỷ kheo: Tỷ kheo chuyên phá trừ các phiền não.
Giới pháp
của Tỷ Kheo (Theo Luật Tứ phần gồm 250 giới)
1. Ba-la-di,
gồm có 4 giới
2. Tăng-già-bà-thị-sa,
gồm có 13 giới
3. Bất định, gồm
có 2 giới
4. Ni-tát-kỳ-ba-dạ-đề,
gồm có 30 giới
5. Ba-dạ-đề, gồm
có 90 giới
6. Ba-la-đề-đề-xá-ni,
gồm có 4 giới
7. Chúng học pháp,
gồm có 100 giới
8. Diệt tránh, gồm
có 7 giới
Giải thích
các thuật ngữ:
1. Ba-la-di
(Pàràjika) được dịch ý là Khí hay Ðoạn đầu. Khí nghĩa là người phạm tội này coi
như bị bỏ ra ngoài Phật pháp. Ðoạn đầu nghĩa là giống như người đã bị chặt đầu,
không thể dùng thuốc để cứu chữa được nữa.
2. Tăng-già-bà-thị-sa
(Sangha-disesa) nghĩa là Tăng tàn, tức là người bị trọng thương đối với tịnh
pháp của Tăng đoàn; tuy bị trọng thương nhưng còn có thể dùng phương pháp sám hối
để cứu chữa được.
3. Bất định
(Aniyata), loại này không phải phạm một tội danh nào nhất định, mà có thể phạm
Ba-la-di, Tăng tàn hoặc Ba-dật-đề, nên gọi là Bất định.
4. Ni-tát-kì-ba-dật-đề
(Nissaggiya-pàcittiya): Ni-tát-kì nghĩa là xả bỏ tất cả; Ba-dật-đề nghĩa là
đọa. Hợp cả hai gọi là Xả đọa. Người phạm tội này là do cất giữ những vật vượt
ra ngoài quy định. Vì thế, trước hết phải đem vật ấy ra thí xả giữa chúng Tăng,
rồi sám hối tội đọa.
5. Ba-dạ-đề
(Pacittiya) nghĩa là tội bị đọa lạc. Người phạm tội này không có vật phải xả bỏ
nên gọi là Ðơn đọa, cần phải sám hối với 3 thầy Tỷ kheo thanh tịnh để diệt tội.
6. Ba-la-đề-đề-xá-ni
(Patidesaniya) được dịch nghĩa là Hướng bỉ hối. Người phạm tội này phải sám hối
với một thầy Tỷ kheo để trừ tội.
7. Chúng học
pháp: Tiếng Pàli "Sekkhiyavatta" được phiên âm là Thức-xoa-ca-la-ni,
dịch ý là Chúng học pháp hay Ưng đương học, nghĩa là những pháp cần phải học.
Loại này thuộc về oai nghi.
8. Diệt tránh:
Tiếng Pàli Adhikarana-samattha được dịch ý là Diệt tránh, nghĩa là dập tắt sự
tranh chấp. Pháp này gồm có 7 yếu tố. Một khi trong Tăng đoàn xảy ra sự xung
đột, tranh chấp, thì dùng một hoặc nhiều yếu tố này để giải quyết, dập tắt sự
xung đột ấy.
(Về nội dung
chi tiết, xin xem Luật Tỳ kheo, tập II, Tứ phần Hiệp chú, HT Thích Trí Thủ, bản
ấn hành năm 1991).
Các giới trên
không phải được chế định một lần mà tùy phạm tùy chế, nghĩa là phạm đến đâu,
Phật chế giới đến đó. Sau khi chế định xong, được đem ra phân loại thành 8 cột,
rồi sắp xếp từ nặng đến nhẹ. Cột thứ 8 "Diệt tránh" tuy gọi là giới,
nhưng tính chất của nó là do kết hợp giữa giới và luật mà thành.
VII. Giới pháp của Tỷ
kheo ni
Tỷ kheo ni
(Bhikkunì) hay Bí-sô-ni (Bhiksunì) là những người nữ xuất gia đã thọ giới Cụ
túc; về ý nghĩa thì như ở phần Tỷ kheo đã giải thích. Ngoài ra còn là Khất sĩ
nữ (những người nữ sống bằng sự khất thực) hay nói gọn là Ni. Về tuổi tối thiểu
để thọ giới thì trên nguyên tắc là 20 tuổi, nhưng có trường hợp châm chước như
ở phần Thức xoa ma ni đã nói.
Vị Tỷ kheo ni
đầu tiên trong hàng ngũ Ni chúng là bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Mahàpajàpati), di mẫu
của Phật, được Phật cho phép xuất gia thọ giới Cụ túc. Tiếp theo sau bà là 500
người nữ dòng họ Thích cũng được Phật độ cho xuất gia, thành lập Ni chúng.
Ðể đảm bảo tính
chất tôn nghiêm của giáo pháp và sự thanh tịnh của Tăng đoàn, người nữ muốn
xuất gia thọ giới, trước hết phải tuân thủ 8 kính pháp mà Phật quy định (5).
Giới của Tỷ Kheo
Ni (Theo
Luật Tứ phần gồm 348 giới)
1. Ba-la-di 8
giới
2. Tăng tàn 17
giới
3. Xả đọa 30 giới
4. Ðơn đọa 178
giới
5. Hối quá 8 giới
6. Chúng học100
giới
7. Diệt tránh 7
giới
Trên đây, giới
bản của Tỷ kheo ni chỉ có 7 cột, không có cột "Bất định" như giới của
Tỷ kheo; đồng thời trong mỗi cột, số giới hoặc bằng, hoặc nhiều hơn giới của Tỷ
kheo, và nội dung mỗi giới cũng có sai khác ít nhiều.
Hiện nay, có
hai loại giới bản được lưu truyền phổ biến là giới bản của Luật Tứ phần và giới
bản của Luật Pàli. Ở nước ta, người xuất gia theo hệ thống Bắc tông cũng như hệ
phái Khất sĩ thì áp dụng giới bản của Tứ phần, còn người xuất gia theo Nam tông thì áp
dụng theo giới bản của Luật Pàli. Về số lượng và nội dung của giới bản giữa hai
bộ luật sai khác nhau không nhiều lắm. Ta có thể so sánh:
- Luật Tứ phần:
Tỷ kheo 250 giới; Tỷ kheo ni 348 giới
- Luật Pàli: Tỷ
kheo 227 giới; Tỷ kheo ni 311 giới
(Về nội dung
chi tiết, xin xem Tỷ kheo giới, HT Trí Quang, bản ấn hành năm 1994; Tỷ kheo ni
giới cũng như trên).
VIII. Giới pháp của Bồ
tát
Những bản kinh
liên quan đến giới bản của Bồ tát gồm có:
1. Bồ tát Anh
Lạc bản nghiệp kinh
2. Phạm Võng kinh
Bồ tát giới bản
3.Du già Sư địa
luận Bồ tát giới bản
4. Bồ tát Ðịa trì
kinh
5. Bồ tát Thiện
giới kinh
6. Ưu bà tắc giới
kinh.
Trong các kinh
nêu trên thì hai kinh Anh Lạc, Phạm Võng có nguồn gốc từ hệ thống kinh Hoa
Nghiêm và được các học giả suy định là do người Trung Quốc biên soạn. Ba kinh
Du già, Ðịa trì và Thiện giới bắt nguồn từ luận Du già Sư địa, cùng chung một
nguyên bản, nhưng các bản dịch có tên khác nhau. Tại Trung Quốc, Việt Nam thì
giới bản Phạm Võng tỏ ra thịnh hành nhất, nhưng ở Tây Tạng thì chỉ dùng giới bản
Du giaâ.
Giới Bồ tát
được gọi là Ðạo tục thông hành giới, nghĩa là người xuất gia và tại gia đều thọ
trì như nhau. Không những thế mà các loài chúng sanh từ cõi trời Sắc giới trở
xuống, hễ ai hiểu được lời nói của pháp sư đều có thể thọ giới, chỉ trừ những
kẻ phạm 7 tội nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá sự hòa hợp của
Tăng, làm cho thân Phật ra máu, giết Hòa thượng Bổn sư và giết thầy dạy phép
tắc). Hơn nữa, giới này có thể thọ toàn phần hay từng phần, tùy theo khả năng.
Ai đã thọ lãnh giới này rồi thì vĩnh viễn không mất giới, dù tái sinh ở bất cứ
nơi đâu, chỉ trừ phạm 7 tội nghịch, phạm thượng phẩm trọng giới và bỏ mất tâm
Bồ đề.
Giới này lấy
tinh thần Tam tụ tịnh giới (xem lời giải thích ở Thập thiện giới) làm nền tảng.
Sau đây, xin giới thiệu 10 giới trọng và 48 giới khinh thuộc giới bản Phạm Võng
vốn phổ biến trong đời sống tu tập của người Phật tử Việt Nam:
10 giới
trọng
1. Không được
sát sinh
2. Không được trộm
cướp
3. Không được dâm
dục
4. Không được vọng
ngữ
5. Không được mua
bán rượu
6. Không được nói
xấu người đồng đạo
7. Không được khen
mình, chê người
8. Không được tiếc
lẫn tài và pháp
9. Không được ấp ủ
sự giận hờn
10. Không được phỉ
báng Tam bảo.
48 giới
khinh
1. Không được
bất kính với thầy, bạn
2. Không được uống
các thứ rượu
3. Không được ăn
các loại thịt
4. Không được ăn
những thức ăn cay nồng
5. Không được
không khuyên bảo người sám hối
6. Không được
không siêng cầu chánh pháp
7. Không được
không đi nghe pháp
8. Không được phản
bội giới pháp Ðại thừa
9. Không được
không giúp đỡ người bệnh
10. Không được
tàng trữ dụng cụ sát sinh
11. Không được
làm kẻ chủ mưu gây chiến
12. Không được
buôn bán một cách tàn nhẫn
13. Không được vô
cớ phỉ báng người khác
14. Không được
thiêu đốt bừa bãi
15. Không được chỉ
dạy sai lệch
16. Không được nói
pháp rối loạn
17. Không được dựa
thế lực để cầu lợi
18. Không được làm
thầy mà mù quáng
19. Không được hủy
báng người có giới đức
20. Không được
không phóng sinh và làm phước
21. Không được
giận dữ báo thù
22. Không được
kiêu căng, không học
23. Không được thọ
giới trái quy định
24. Không được học
các sách khác
25. Không được lạm
dụng gây rối
26. Không được
không đãi khách Tăng chu đáo
27. Không được lấy
của chúng Tăng làm của riêng
28. Không được mời
riêng chư Tăng
29. Không được
sống bằng tà mạng
30. Không được làm
những việc điên đảo
31. Không được
không cứu chuộc đồng đạo và kinh tượng
32. Không được làm
tổn hại chúng sinh
33. Không được tà
tâm làm quấy
34. Không được rời
bỏ tâm Bồ đề
35. Không được
không phát đại nguyện
36. Không được
không phát đại thệ
37. Không được
không hành Ðầu đà và bố tát hàng tháng
38. Không được
ngồi lộn xộn mất trật tự
39. Không được
không làm việc lợi ích
40. Không được lựa
chọn người để truyền giới
41. Không được
vì tham lợi mà làm thầy
42. Không được nói
giới cho kẻ ác
43. Không được cố
ý phạm giới
44. Không được
không tôn trọng kinh luật
45. Không được
không giáo hóa người và vật
46. Không được
thuyết pháp trái với thể thức
47. Không được tìm
cách khống chế Phật giáo
48. Không được phá
hoại đạo pháp.
(Bản tóm tắt
này dựa vào Bồ tát Phạm Võng của HT Trí Quang, bản ấn hành năm 1994).
C- Kết luận
Qua những trình
bày trên đây, chúng tôi đã giới thiệu khái quát về những điểm cơ bản trong giới
pháp của 7 chúng đệ tử Ðức Phật. Những giới pháp này do Phật chế định cách nay đã
25 thế kỷ, thời gian và không gian có nhiều thay đổi, nhất là ngày nay nhân
loại đã văn minh hơn xưa, khoa học đạt được những tiến bộ vượt bậc, thế nhưng, giới
pháp của Phật vẫn còn mang đầy đủ tính chất hiện đại và vô cùng thiết thực. Bởi
lẽ, mục đích của giới pháp đặt trên nền tảng đạo đức nhân bản, nhằm hoàn thiện
phẩm giá con người, đem lại an lạc cho cá nhân, hạnh phúc cho gia đình, ổn định
cho xã hội và thanh bình cho toàn thể nhân loại. Vì vậy, bao lâu cuộc đời còn
đau khổ, con người còn khiếm khuyết, thì giới pháp của Phật vẫn còn tồn tại như
những nguyên tắc tối ưu để giải phóng con người thoát khỏi mọi khổ đau và lầm
lỗi./,
* Chú thích:
(1), (2):
Thiền sư N.H, Nghi thức tụng niệm, Lá Bối, 1994, tr.182, 189
(3) HT Thích
Thiện Hòa, Giới đàn Tăng, tái bản 1999, tr.280, 284
(4) Sa di giới
và Sa di ni giới, tập I, HT Trí Quang, xb 1994, tr.5
(5) Nội dung
tám kính pháp gồm có:
1. Tỷ kheo ni
dù 100 tuổi hạ mà khi thấy vị Tỷ kheo mới thọ giới cũng phải đứng dậy chào hỏi,
mời ngồi
2. Tỷ kheo ni
không được trách mắng Tỷ kheo
3. Tỷ kheo ni
khôngđược nêu tội Tỷ kheo
4. Thức xoa ma
ni sau 2 năm học giới hoàn tất phải đến Tỷ kheo thỉnh cầu thọ Ðại giới (giới Cụ
túc)
5. Nếu Tỷ kheo
ni phạm tội Tăng tàn thì phải đến trước 2 bộ Tăng, Ni làm phép ý hỉ (làm cho
mọi người hoan hỷ) trong vòng nửa tháng
6. Tỷ kheo ni
phải đến Tỷ kheo thỉnh cầu thầy Giáo thọ vào những dịp bố tát của mỗi nửa tháng
7. Tỷ kheo ni
không được kiết hạ an cư tại những nơi không có Tỷ kheo
8. Tỷ kheo ni
an cư xong phải đến Tỷ kheo cầu tự tứ (vui lòng chỉ bảo) về ba phương diện:
thấy, nghe và nghi trong những tình huống phạm tội.
Phật Học
Cơ Bản Tập Ba
Ban Hoằng
pháp Trung ương GHPGVN
Chương trình
Phật học Hàm thụ (1998)