Phật
(Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích-ca
Mâu- ni (Sàkyàmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là
Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ
giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng
kinh. Trong Tạng kinh chứa đựng đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn
hai mươi lăm thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm
suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng
phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách
không ngờ.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đô? giả suy gẫm. VỀ VŨ TRỤ.
Ðức
Phật ra đời trên sáu thế kỷ trước Công nguyên, còn các nhà khoa học
được biết đến, mới có từ thế kỷ thứ mười tám sau Công nguyên. Thế mà ở
thời gian ấy đức Phật nhìn trong vũ trụ thấy thế giới nhiều không thể
kể hết, nên trong kinh thuộc Hán tạng có những câu "Hằng hà sa số thế
giới", nghĩa là thế giới nhiều như cát sông Hằng (Ganges), hoặc câu "vi
trần sát" nghĩa là cõi nước (sát) nhiều như những hạt vi trần. Ðến nay
các nhà thiên văn học nhờ kính viễn vọng nhìn thấy trong bầu hư không
có không biết cơ man là thế giới. Vô số ngôi sao lấp lánh hiện trên nền
trời trong lúc ban đêm, mà mắt chúng ta nhìn thấy được, là những hành
tinh (thế giới), còn không biết bao nhiêu hành tinh khác quá xa, mắt
chúng ta không thể nhìn thấy được. Chính đây là bằng chứng cụ thể, nhờ
khoa học giúp chúng ta hiểu được lời Phật dạy cách đây trên hai mươi
lăm thế kỷ. Lại nữa, có lần đức Phật cùng các thầy Tỳ-kheo đi vào rừng,
nhìn thấy những lá cây rơi lả tả, những lá vàng úa sắp lìa cành, đồng
thời có những chồi non vừa nẩy lộc và những mầm vừa nhú khỏi vỏ cây,
Ngài dạy các thầy Tỳ-kheo "Thế giới đang hoại, sắp hoại và đang thành,
sắp thành, cũng như lá cây trong rừng đang rụng, sắp rụng và đang nẩy
chồi, sắp nẩy chồi." Vì thế, đức Phật thường dạy thế giới có bốn thời
kỳ "thành, trụ, hoại, không". Ngày nay các nhà khoa học cũng thừa nhận
thế giới phải trải qua bốn thời kỳ như thế. Ðây là cái nhìn thích hợp
giữa Phật học và khoa học mà cách nhau thời gian quá xa.
VỀ
VẠN VẬT. - Vạn vật sanh thành và hoại diệt trên đời, dưới con mắt trí
tuệ của đức Phật đều do "duyên khởi". Duyên khởi là nhân duyên sanh
khởi, không có một sự vật nào hình thành mà không do các duyên nhóm
họp. Nếu nói sự vật ngẫu nhiên tự thành, hoặc có bàn tay mầu nhiệm nào
tạo dựng đều không đúng sự thật. Ðức Phật xác nhận vạn vật do nhân
duyên tụ họp thì thành, nhân duyên ly tán thì hoại. Sự thành hoại của
vạn vật đều do duyên, là chỗ thấy như thật của đức Phật. Bởi thế, trong
kinh Phật thường dạy "các pháp do duyên khởi không có thực thể, các
pháp do duyên khởi không có cố định". Không có thực thể là thuyết "vô
ngã", không có cố định là thuyết "vô thường", mà trong kinh thường nói
"chư hạnh vô thường, chư pháp vô ngã". Không khi nào có một nhân đơn
thuần thành hình một vật, cũng không bao giờ có sự bất ngờ sanh ra một
vật, mà phải đủ nhân đủ duyên mới thành. Vì vậy, đức Phật không chấp
nhận thuyết "nhất nhân" và thuyết "vô nhân". Với sự thật này, ngày nay
khoa học đã làm sáng tỏ, chúng ta không còn gì phải nghi ngại. Hơn nữa,
trước mắt chúng ta thấy vô vàn sự vật, nếu đem ra phân tích đều do
nhân duyên hợp thành, không có vật nào tự thành hay do một cái gì đó
làm thành. Sự thật hiển nhiên này càng làm sáng tỏ lời đức Phật dạy.
Chúng ta thấy rõ Phật học và khoa học tuy thời gian cách xa mà không có
giới tuyến ngăn cách.
VỀ
CON NGƯỜI. - Khi Phật còn tại thế, Ngài nhìn trong bát nước thấy vô số
vi trùng, trong kinh Hán tạng có câu "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn
tứ thiên trùng..." Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn bốn
ngàn (84.000) vi trùng. Ngày nay nhờ kính hiển vi, các nhà khoa học
thấy trong nước có nhiều vi trùng. Lại nữa, Phật nhìn trong thân người
thấy có vô số vi trùng, trong kinh Hán tạng có câu "nhân thân chi nội
hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú". Nghĩa là trong thân người có vô
số vi trùng đang trú ẩn bên trong. Ðiều này ngày nay chúng ta chỉ cần
có chút ít kiến thức khoa học là không còn nghi ngờ gì nữa.
NGHIỆP
LỰC. - Nếu không có một đấng nào an bài, muôn vật làm sao được sanh
thành, hoại diệt và sinh hoạt trong một trật tự nhất định? Nhà Phật nói
"do sức nghiệp thúc đẩy và thu hút mọi vật hình thành, khi mãn nghiệp
thì hoại diệt. Cũng do động lực của nghiệp nên mọi vật sinh hoạt trong
một trật tự nhất định". Nghiệp là động lực lôi cuốn các duyên tụ họp
lại thành hình sự vật; khi sức nghiệp mãn các duyên ly tán thì sự vật
hoại diệt. Nghiệp có khả năng cuốn hút sự vật quay cuồng trong quĩ đạo
nhất định. Ngày nay các nhà khoa học đã nói rõ sức quay và sức hút của
mọi vật trong vũ trụ. Các hành tinh trong bầu vũ trụ hoặc lớn hoặc nhỏ
đều quay cuồng trong hư không và trong một quĩ đạo nhất định. Cho đến
nhỏ như một hạt nguyên tử cũng quay cuồng và xoắn chặt vào nhau mà
thành hình muôn vật. Ðộng lực quay và hút này là do nghiệp lực tạo nên.
Nghiệp là động lực lôi cuốn theo thói quen, đồng thời cảm ứng với vật
khác đồng tính nên bị thu hút. Do nghiệp chi phối nên con người và muôn
vật trên thế gian được thành hình và sinh hoạt trong một phạm vi nhất
định nào đó, khi sức nghiệp mãn con người và muôn vật theo đó hoại diệt.
Song nghiệp có thể chuyển đổi được, không phải cứng nhắc cố định, vì
nó là động lực.
Tuy
nhiên thuyết nghiệp báo luân hồi đã có trước thời đức Phật, xuất phát
từ các kinh Phệ-đà (Véda); song với tinh thần tôn trọng chân lý, đức
Phật xét thấy đúng sự thật liền ứng dụng đem dạy đệ tử tu hành. Trong
đó, đức Phật có sửa đổi những phần lệch lạc theo quan niệm Bà- la-môn
giáo, để lý thuyết này được hoàn chỉnh hơn. Vì vậy, ngày nay mọi người
đều thừa nhận thuyết nghiệp báo luân hồi là của đạo Phật.
ÐẠO
PHẬT ÐẶT TRỌNG TÂM Ở CON NGƯỜI. - Chỗ thấy biết của đức Phật đúng sự
thật, hợp chân lý, nên trải qua thời gian dài mà vẫn không sai chạy hay
lạc hậu. Ðức Phật không dùng cái thấy biết tuyệt vời ấy để phân tích
ngoại cảnh, sử dụng ngoại cảnh phục vụ con người. Ngài chỉ dùng cái
thấy ấy biết ấy để soi sáng thẳng vào con người, để thấy biết tường tận
về con người từ thể xác lẫn tinh thần. Biết rõ con người rồi, đức Phật
dạy cách sống đúng tư cách con người, đồng thời chuyển hóa thân tâm để
được an lạc trong hiện tại và mãi sau kia. Có lần đức Phật cùng các
thầy Tỳ-kheo đi vào rừng Simma, Ngài dùng tay nắm một nắm lá cây đưa
lên hỏi các thầy Tỳ-kheo: "Lá cây trong tay ta nhiều hay lá cây trong
rừng nhiều?" Các thầy Tỳ-kheo thưa: "Lá cây trong tay Thế Tôn rất ít,
so với lá cây trong rừng." Ðức Phật dạy: "Cũng thế, chỗ ta thấy biết
nhiều như lá cây trong rừng, những điều ta dạy các ông ít như lá cây
trong nắm tay ta." Ðiều này khiến chúng ta thấy rõ, dù việc ấy đúng sự
thật mà không cần thiết cho sự đào tạo xây dựng con người được an vui
hạnh phúc hiện tại và mai sau, Phật vẫn không đem ra chỉ dạy. Phật chỉ
dạy những điều cấp thiết để giải quyết mọi khổ đau cho kiếp sống con
người. Vì tuổi thọ con người quá ngắn (60-70 năm) không đủ thời giờ để
học hiểu hết mọi điều trên thế gian này.
Phần
hệ trọng nhất nơi con người là tinh thần. Tinh thần sai sử thể xác tạo
thành nghiệp lành nghiệp dữ, cảm thọ quả khổ, vui ở hiện tại và vị
lai. Cho nên bao nhiêu lời khuyên răn của Phật đều đặt nặng sự chuyển
hóa nội tâm của con người. Con người nội tâm được trong sáng thì đời
sống hiện tại đầy đủ ý nghĩa, sau khi kết thúc cuộc đời mọi sự sáng
trong tươi đẹp đang sẵn sàng chờ chực. Ðây là trọng tâm cứu khổ chúng
sanh của đức Phật Thích-ca, cũng là của đạo Phật.
ÐẠO
PHẬT CHỦ TRƯƠNG GIÁC NGỘ, GIẢI THOÁT, TỪ BI, BÌNH ÐẲNG. - Ðức Phật do
giác ngộ nên thành Phật, suốt đời giáo hóa của Ngài cũng lấy giác ngộ
làm trọng tâm. Người tu Phật mà thiếu giác ngộ là không phải người đệ
tử chân thật của đạo Phật. Khổ đau gốc từ vô minh, muốn hết khổ đau
phải dứt sạch vô minh. Chỉ có ánh sáng giác ngộ mới dẹp tan được màn vô
minh, ngoài giác ngộ ra không còn cách nào dẹp được vô minh. Như chỉ
có ánh sáng mới dẹp được bóng tối, ngoài ánh sáng không có cái gì dẹp
được bóng tối. Vô minh không tan thì đau khổ làm sao hết được. Vì thế,
phương pháp duy nhất để cứu khổ chúng sanh là giác ngộ. Ðây là nguyên
nhân đạo Phật lấy giác ngộ làm chủ yếu.
Nhờ
giác ngộ con người mới giản trạch được điều chân lẽ ngụy, thấy rõ cái
gì trói buộc, cái gì tự do, nên chọn được lối sống thích ứng lẽ thật,
phù hợp với tinh thần tự do. Tự do ở đây không có nghĩa đòi hỏi bên
ngoài, nơi kẻ khác, mà tự chiến thắng những khát vọng đê hèn của mình,
hàng phục được vọng tưởng điên đảo của nội tâm. Ðúng với câu đức Phật
dạy: "Thắng một vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến
công oanh liệt." Tinh thần tự do của đạo Phật là làm chủ toàn vẹn thể
xác lẫn tinh thần của chính mình. Ðó là tự do tuyệt đối, cũng là giải
thoát của Phật dạy.
Ðem
vui và giải khổ cho chúng sanh là lòng từ bi của đạo Phật. Muốn cho
mọi người hết khổ được vui, tu sĩ Phật giáo lúc nào cũng đưa cao ngọn
đuốc chánh pháp cho mọi người mồi, để cùng thắp sáng trong ngôi nhà tăm
tối muôn đời của mình. Bản thân mình người tu sĩ phải chiến thắng
phiền não để làm mẫu mực và chỉ dạy người dẹp trừ phiền não. Vô số khổ
đau của chúng sanh đều phát xuất từ si mê và phiền não. Thiếu thốn vật
chất là đau khổ đã đành, có khi thừa mứa vật chất người ta vẫn đau khổ
như thường. Cho nên trí tuệ là hòn ngọc quí để đổi lấy của cải và sự
nghiệp, trí tuệ là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta tránh khỏi lạc lối
lầm đường. Dứt một phần phiền não, chúng ta được một phần an lạc, hoàn
toàn sạch phiền não thì còn gì làm phiền lụy chúng ta. Sau khi mở sáng
con mắt trí tuệ và dứt sạch phiền não, con người mới được an vui tự tại
đầy đủ. Người tu sĩ Phật giáo tha thiết cứu khổ chúng sanh bằng cách
tận lực chỉ dạy cho mọi người thực hiện được trí tuệ và tự do.
Phật
giáo nhìn chúng sanh đều bình đẳng trong bản tánh, chỉ có sai khác
trên nghiệp tướng. Nghiệp tướng là cái sanh diệt biến động, bản tánh
chưa bao giờ sanh diệt đổi thay. Cái sanh diệt biến động là tạm bợ, đã
tạm bợ dù sai khác thế mấy cũng không quan trọng. Chính cái tối quan
trọng là bản tánh thường hằng của chúng sanh. Cho nên đức Phật thường
dạy "tất cả chúng sanh đều có tánh Phật", đó là lối nhìn bình đẳng của
Phật giáo. Thấy thấu được lẽ này, chúng ta sẽ dứt được tâm tự cao ngã
mạn và không còn dám khinh thường một ai. Ðây là nền tảng đạo đức chân
thật, nên Bồ-tát Thường Bất Khinh thấy ai cũng nói: "Tôi không dám
khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật." Ðã sẵn có tánh Phật thì người
nào mà tu chẳng được, chỉ do chưa thức tỉnh và lười nhác mà thôi. Do
cái nhìn thấu suốt này, người tu theo đạo Phật không bao giờ có tâm kỳ
thị với bất cứ nhóm nào, cũng không có tâm khinh khi miệt thị ai.
Ðạo
Phật lấy giác ngộ làm gốc rễ, lấy giải thoát làm hoa trái, lấy từ bi
và bình đẳng làm nhựa sống. Bốn yếu tố này rất thiết thân với nhân loại
văn minh. Bất cứ nền văn minh chân chánh nào đòi hỏi con người phải có
đủ trí tuệ sáng suốt, thong thả tự do, tình thương làm vơi cạn đau khổ
cho con người, bình đẳng không chấp nhận giai cấp, không kỳ thị tôn
giáo, chủng tộc, màu da. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, dù nói văn
minh vẫn chưa thực sự văn minh. Ðứng từ góc độ này mà nhìn, chúng ta
thấy đức Phật quả thực đã đi trước các nhà khoa học khá xa; tương lai
dù nhân loại văn minh tiến bộ đến đâu cũng khó qua mặt được đạo Phật.