Dáng Bụt điềm đạm, thanh cao,
Lời Bụt ấm áp, thấm vào tâm ta
Lòng Bụt rộng mở bao la,
Mắt Bụt thấu hiểu, chan hòa tình thương
Lớn
lên, trở thành một Phật tử, tôi mới hiểu ra rằng Bụt không dùng phép lạ
để cứu giúp chúng ta, mà Bụt chỉ trao truyền cho chúng ta những phương
pháp để tự mình tu tâm, dưỡng tính, hoàn thiện nhân cách và hơn nữa cho
chúng ta một nghệ thuật sống và làm việc để mang lại niềm hạnh phúc đích
thực cho chính mình và mọi người, theo tinh thần “tự độ độ tha, tự giác
giác tha”.
Tâm thông hết thảy đều không,
Tâm mê có mắt mà không thấy đàng,
Phật trao ta Ánh đạo vàng,
Tự mình khám phá thiên đàng Tự Tâm
Trong
bài ngắn này tôi xin thử lý giải giáo lý Tứ diệu đế từ góc độ khoa học,
chia sẻ tâm nguyện của mình với những ai quan tâm đến việc hiện đại hóa
Đạo Phật, và kết hợp Phật Pháp với khoa học kỹ thuật trong việc truyền
bá và áp dụng vào cuộc sống.Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp
đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhà Kiều Trần Như,
diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại. .Xem lại đoạn
Phật thuyết giảng về Tứ diệu đế trong kinh Chuyển pháp luân – bản dịch
của Hòa thượng Thích Minh Châu, ta cảm nhận sâu sắc rằng, Tứ diệu đế
chính là một trong những tuệ giác sáng chói nhất của Phật.
-
Ngài
đã tìm ra sự thật đen tối nhất của cõi đời là bệnh, già, chết và sự
phiền não thường trực trong lòng mỗi người, ngài gọi là Khổ (Khổ đế).
-
Sự thật thứ hai ngài tìm ra là nguyên nhân đau khổ, ngài gọi là Khổ tập (Tập đế).
-
Sự thật thứ ba ngài tìm ra là pháp môn tu tập để dứt trừ nguyên nhân đau khổ, ngài gọi là Khổ tập diệt (Diệt đế).
-
Và
sự thật thứ tư ngài tìm ra là con đường cho mọi người đi tới hạnh phúc,
an vui vĩnh cửu, ngài gọi là Khổ tập diệt đạo (Đạo đế).
-
Thiền
sư Minh Đăng Quang trong bộ sách “Chân Lý” có luận giảng một cách hình
ảnh về vai trò then chốt của giáo lý Tứ diệu đế như sau:.“Pháp chánh
giác có ra là do tứ diệu đế. Pháp là chính giác, là pháp của trong tứ
diệu đế, do tứ diệu đế sinh ra. Chánh giác là Pháp, là tiếng trống, tứ
diệu đế là dùi trống, mặt đất cõi đời là mặt trống, Bởi có mặt trống,
Phật mới chỉ ra dùi trống, dùi chạm mặt, mới sinh ra tiếng trống, tiếng
ấy là pháp chánh giác. Còn chúng sanh là người nghe..Bởi chúng
sanh sầu khổ, nên Phật mới nói rằng: Này là khổ, vấn đề, đề mục khổ. Này
nguyên nhân sanh ra khổ, là tập, vấn đề, đề mục tập. Này phép diệt khổ,
là diệt, vấn đề, đề mục diệt. Này là Đạo diệt luân hồi khổ, vấn đề, đề
mục đạo. Đạo là con đường đi sau khi diệt luân hồi khổ. Diệt là diệt bỏ
12 nhân duyên tập của luân hồi. Tập là sanh tử luân hồi, để chứa khổ,
khổ là bởi tập luân hồi, vì không diệt đạo”..Phương pháp mầu nhiệm
diệt khổ đau trong Giáo lý Tứ diệu đế của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni đã
được trao chuyền qua bao trái tim khối óc bao người, vượt bao sự thăng
trầm biến động của lịch sử, ngày nay may mắn lại đến tận tay và đi vào
tâm trí thế hệ chúng ta. .Được sống và tu nương vào ánh sáng của Tứ diệu
đế, ta xin chân thành cảm ơn Người:
“Tâm viên, ý mã” khổ làm sao,
Sai khiến ta đi khắp nẻo nào,
Ơn Phật phát minh Pháp mầu nhiệm,
Phục tâm kiềm ý tuyệt biết bao"
Là
người nghiên cứu khoa học lại có duyên nghiên cứu Phật Pháp, tôi nhận
thấy trong giáo lý của Phật cũng hàm chứa một cách vi diệu, những phương
pháp luận có nhiều điểm tương đồng với phương pháp luận khoa học..Chúng
ta biết rằng, khoa học là một động lực quan trọng trong quá trình nhận
thức và tiến hóa của nền văn minh nhân loại. Rất nhiều nhà khoa học đã
có những phát minh quan trọng, cũng như chịu sự hy sinh to lớn vì bảo vệ
chân lý nha Nicôlai Côpecnich hay Galileo Galilei. .Tôi muốn nhắc tới
trong số các nhà khoa học cận đại như: Thomas Edison, nhà phát minh công
nghệ vĩ đại với 1.093 bằng sáng chế riêng tại Hoa Kỳ, Albert Einsntein –
nhà vật lý học vĩ đại đặt nền móng cho vật lý hiện đại với năng lượng
hạt nhân và khoa học kỹ thuật không gian, hay Von Neumann – nhà toán học
lỗi lạc, mà riêng sự phát minh ra máy tính điện tử của ông đã đem đến
cho chúng ta một loạt các thiết bị khoa học kỹ thuật cốt lõi của kỷ
nguyên văn minh thông tin..Nhân loại đã chế tạo ra các công cụ lao động
và sáng tạo ra cả các phương pháp tư duy cùng các thiết bị nghiên cứu
khoa học. Các phương pháp hay các lập luận khoa học là một quá trình,
thường được trình bày như các bước nối tiếp nhau theo một trình tự
logic. .Có một nhận xét đáng chú ý là: đa số các quá trình lập luận này
mang tính tuần hoàn, còn gọi là “chu trình lôgic”. Có nghĩa là, cứ sau
một số bước nhất định, các bước lại được lặp lại. Ở đây tôi xin gọi là
các phương pháp luận có bốn bước trong một chu trình là “Tứ đoạn luận
pháp”..Các Tứ đoạn luận pháp trong thực tế gồm bốn bước lặp đi lặp lại
theo chu trình, nhưng sau mỗi một vòng quay lại được điều chỉnh thành
tốt hơn, hoàn thiện hơn, cuối cùng là đi đến kết quả mong muốn. Để làm
sáng tỏ khái niệm Tứ đoạn luận pháp trong thực tiễn, chúng ta hãy hình
dung Tứ đoạn luận pháp này như hình ảnh các bực thang trên một chiếc cầu
thang xoay trôn ốc trong nhà, mà cứ bước thứ tư sau đó lại nằm ngay
trên bước ấy theo chiều thẳng đứng (bước thứ 5 nằm ngay trên bước thứ
1)..Đến đây chắc độc giả có thể đặt câu hỏi: Tứ diệu đế có phải là một
Tứ đoạn luận pháp không? Nếu hiểu Tứ diệu đế như một sự thực tập, cũng
như các phương pháp khoa học là dùng để áp dụng vào cuộc sống thực tiễn,
thì Tứ diệu đế phải được coi như một Tứ đoạn luận pháp..Phật chỉ ra một
sự thật là trong cuộc đời này, chúng sinh gặp bao nhiêu phiền não, sầu
khổ về hoàn cảnh, về thể xác và tâm hồn. Phật trao cho chúng ta Tứ diệu
đế như một sự thực tập, một phương pháp tu tập nhằm giúp con người tự
mình giải phóng khỏi mọi phiền não khổ đau, đi đến niềm hạnh phúc an
lạc, đích thực. .Có một vị thiền sư đã nói rằng:”Tứ diệu đế không phải
là một lý thuyết, tứ diệu đế là một công trình thực tập. Tứ diệu đế
không chỉ là nguyên tắc của sự thực tập, tứ diệu đế là bản thân của sự
thực tập” giúp ta giải thoát khỏi u minh - nguồn gốc của mọi phiền não
khổ đau, đi đến mục tiêu là giác ngộ chân chính và xây dựng Tịnh độ
trong tâm mỗi con người và trên cả thế gian này..Ta có một nhận xét thú
vị là, những phương pháp luận mang tính tứ đoạn luận trong thực tiễn
khoa học thuộc loại rất phổ biến và thường là phương pháp tổng quát
(general method) trong việc giải quyết vấn đề (problem solving), thu
nhận kiến thức (obtaining knowledge), và phát minh bí quyết công nghệ
(obtaining know-how)..Đây chính là các phương pháp luận quan trọng nhất
trong thực tiễn:.1. PHƯƠNG PHÁP KHOA HỌC (Scientific
method) dùng trong nghiên cứu và phát minh khoa học nói chung, là ở đây
ta gọi là tứ đoạn luận “Khoa học”.Bây giờ ta xem xét cụ thể các bước
trong tứ đoạn luận “Khoa học” là:
-
Bước 1- Mô tả đặc tính (Charaterization from experience and observation): Mô tả đặc tính của hiện tượng vấn đế.
. -
Bước 2- Lập giả thiết (Hypothesis: a proposed explanation): Đặt giả thiết, căn cứ để giải thích.
. -
Bước 3- Suy luận lôgic (Deduction: prediction from the hypothesis): Các suy luận, tiên đoán từ giả thiết.
. -
Bước 4- Kiểm chứng (Test and experiment): Các phép thử và thí nghiệm kiểm chứng
. -
Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn) Lại mô tả đặc tính mới: Mô tả đặc tính của hiện tượng một cách đúng hơn chi tiết hơn.
-
2.
PHƯƠNG PHÁP TOÁN HỌC (Mathematical method) dùng riêng trong nghiên cứu
và sáng tạo toán học, mà ở đây ta gọi là tứ đoạn luận “Toán học”.Các
bước trong tứ đoạn luận “Toán học”.
-
Bước 1- Sự hiểu (Understanding): Đây là sự hiểu tương đối xuất phát về đối tượng.
. -
Bước 2- Phân tích (Analysis): Sự mổ xẻ đi sâu vào chi tiết sự hiểu của mình so với thực tại.
. -
Bước 3- Tổng hợp (Synthesis): Tập hợp hay tích hợp lại những sự phân tích và nhận xét lẫn phát hiện mới của ta thu được trong sự mổ xẻ cái đã hiểu lại.
. -
Bước 4- Tổng quan và mở rộng (Review/ Extend): Liên hệ với những điều ta hoặc người ta đã biết khác mở rộng cái hiểu bao quát hơn.
.. -
Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn): Lại làm mới thêm sự hiểu: Ta thu được cái hiểu mới về đối tượng nghiên cứu.
-
3.
PHƯƠNG PHÁP THỬ VÀ SAI MỞ RỘNG (Generalized trial and error method)
dùng phổ biến trong nghiên cứu và phát minh các bí quyết công nghệ
(know-how), mà ở đây ta gọi tắt là tứ đoạn luận “Thử và sai”.Các bước
trong tứ đoạn luận “Thử và sai” là:
-
Bước 1- Thử (Trial)
Mô tả phép thử làm một việc nào đó với một ý tưởng xuất phát, thử dùng
một phương pháp, một công cụ phương tiện mà mình cho là hợp lý, thử lên
một kế hoạch nhằm đạt một mục đíhc mong muốn nào đó…
. -
Bước 2- Sai (Error): Sau khi thử thực hiện những điều đã dự định, kết quả thu được lại không như ý, hoặc không đúng như ta dự báo, mong muốn…
. -
Bước 3- Phân tích (Analysis): Phân tích tìm hiểu ngọn ngành nguyên nhân cái sai nằm ở đâu.
. -
Bước 4- Sửa sai (Correction): Có nghĩa, tìm ra cách khác mà ta cho là tốt hơn và không chứa những điều sai mà ta đã nhận ra ở bước “hiểu cái sai”.
. -
Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn) Lại thử thêm lần nữa: Tiếp tục thử một lần nữa ới sự khắc phục hay loại trừ cái sai.
-
Cả
ba phương pháp tứ đoạn luận nói trên đều chung một đặc tính là gồm bốn
bước lặp lại theo chu trình đi lên. Nếu phân tích chung sâu hơn, ta sẽ
nhận thấy các tứ đoạn luận này về ý nghĩa hay logic có bản chất tương tự
nhau, và chỉ chia làm 3 phương pháp khác nhau về hình thức để áp dụng
cụ thể cho phù hợp với 3 đối tượng khác nhau mà thôi.
.Nhìn
lại cuộc sống, ta có thể dễ dàng nhận ra một sự thật là: Khi ta không
làm việc gì thì nói chung là không sao, còn nếu a cứ làm một việc gì đó
thì xme kỹ lại vẫn tìm ra được những điều sai sót (không lớn thì nhỏ).
Như vậy, “sai và thiếu” là những điều mà khó ai có thể tránh khỏi, nên
chúng không đáng làm ta lo sợ. Điều đáng sợ hơn chính là khi ta không
nhận ra các sai lầm đó để quyết tâm sửa chữa. Đây chính là bản chất của
Phương pháp “Thử và Sai”.
.Điều này tương tự như Bản chất của phương pháp “Tứ diệu đế” mà Phật đã
giác ngộ và chỉ ra cho chúng ta: mọi sự đau khổ của cuộc đời không phải
là Định mệnh, mà chúng ta đành cam chấp nhận. Ngược lại, chính bằng sự
tu tập theo phương pháp “Tứ diệu đế” ta có thể giải thoát mọi khổ đau
của cuộc đời.
Để
làm nổi bật cách vận hành của Tứ diệu đế trong sự tu tập, ta hãy so
sánh sự tương đồng của Tứ đoạn luận “Tứ diệu đế” với Tứ đoạn luận “Thử
và sai” qua bảng sau:
Các bước
|
Thử và Sai
|
Tứ Diệu Đế
|
1
|
Sai lầm
|
Khổ đế - những sự khổ
|
2
|
Hiểu nguyên nhân sai lầm
|
Tập đế - hiểu nguyên nhân của khổ
|
3
|
Sửa nguyên nhân sai lầm
|
Diệt đế - Tìm phương pháp diệt khổ
|
4
|
Thử sau khi Sửa nguyên nhân sai lầm
|
Đạo đế - Con dường diệt khổ
|
5...
|
Lại vẫn còn Sai lầm khác…
|
Quay lại Khổ đế ở mức khác
…
|
. Ta thử phân tích và so sánh kỹ hơn bảng trên:
.Bước
1: Khổ đế là một Sự thật nhưng lại không phải “Sự thật tất yếu, không
sửa chữa được”, mà đó chỉ là một sự thật xảy ra trong tâm ta do hoàn
cảnh tác động, gây đau khổ cho ta cũng chỉ giống như một Sai lầm của
nhân thức mà ta hoàn toàn có thể sửa chữa được.
.Bước 2: Sự thật này có nguyên nhân của nó (Khổ Tập đế), mà khi ta hiểu ra như hiểu “nguyên nhân của Sai lầm”.
Bước 3: Khi hiểu nguyên nhân rồi ta sẽ loại trừ được nó (Khổ Tập Diệt
đế) như việc sửa chữa nguyên nhân Sai lầm..Bước 4: Bước cuối cùng trong
chu trình này là ta lại tiếp tục sống và làm việc, hoạt động theo cách
đúng đắn với những nguyên nhân của Sai lầm đã được nhận ra một phần và
đã được sửa chữa một phần (Đạo Khổ Tập Diệt đế). Đến đây chu trình lại
quay lại từ đầu nhưng ở mức hoàn thiện hơn sau quá trình tu tập:.Bước 5-
Đúng như những gì xảy ra trong thực tiễn, Sai lầm là có, tuy nhiên chưa
thể dễ dàng nhận ra được hết nó, và cũng chưa thể sửa chữa hết ngay
những sai lầm đã hiểu nguyên nhân, nên trong quá trình sửa chữa ta lại
vẫn còn có Sai lầm khác… cứ thế bước 5 này chính là quay lại bước 1 ở
mức hoàn thiện cao hơn mà thôi..Phân tích đến đây, tôi nhớ lại đoạn văn
tả lại giây phút Phật thành đạo trong cuốn “Đường xưa mấy trắng” (tác
giả Thích Nhất Hạnh): vào một buổi sáng bình minh, sau 49 ngày đêm
ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề cổ thụ, Siddhatta (tên của Phật lúc đó)
bừng mở mắt và chợt thấy “sao Mai hiện ra như một ngôi sao mới, chói
sáng và lấp lánh mừng vui như nụ cười giác ngộ. Ông sững nhìn ngôi sao
Mai rồi buột miệng lên tiếng: “Lạ thay, tất cả mọi chúng sanh đều có sẵn
hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng. Vậy mà trong ngàn muôn ức
kiếp cứ để cho tự mình lặn ngụp trong biển sinh tử khổ đau thật đáng
thương”. Siddhatta biết rằng đạo lớn đã được tìm ra, và hoài bão lớn của
ông đã đạt được với một tâm hồn an lạc thư thái…”.Ngay ở chỗ này
mà tôi chợt nhận ra một điều, Phật cũng chính là một nhà khoa học, một
nhà khoa học tâm linh vĩ đại. Bằng công trình thực nghiệm thiền quán 49
ngày đêm (trên chính bản thân mình), Phật là người đầu tiên nhận ra một
chân lý, như một phát minh vĩ đại trong lịch sử nhân loạt thuộc lĩnh vực
khoa học nhân văn: “Tất cả mọi người đều có sẵn hạt giống của trí tuệ
giác ngộ trong lòng”..
Phật
gọi hạt giống của trí tuệ giác ngộ là Giác tính, còn ngày nay chúng ta
thường còn gọi là “Phật tính”. Và các phương pháp mà Phật dạy truyền cho
chúng ta nhằm tự tu tập để tiến tới giác ngộ và giải thoát là “Phập
pháp”. Điều này giống như trong khoa học, người ta gọi bảng tuần hoàn
của các nguyên tố là bản tuần hoàn Meldeleev theo tên nhà hóa học lỗi
lạc Dmitri Ivannovich Mendeleev đã phát minh ra nó hay như Lý thuyết
tương đối Einstein theo tên nhà vật lý vĩ đại Albert Einstein đã viết ra
nó….Nhận ra Giác tính trong tâm mình và cùng lúc trong mọi chúng sinh,
ngài không dừng ở việc nhận biết cái khổ của nhân loại (Khổ đế), ngài
đẩy xa hơn ánh sáng trí tuệ của mìn tới việc tìm ra nguyên nhân đau khổ.
Vâng, đây là một logic tất yếu sau khi ta coi Khổ đế là một sai lầm của
nhận thức. Vì thấy sự đau khổ đó là do Sai lầm nên Ngài quan sát sâu
sắc cái sai lầm dưới cá nhìn thiền quán và đã bước sang Thấu hiểu sai
lầm, mà ngài gọi là Tập đế (Khổ tập đế)..Tìm được nguyên nhân của đau
khổ rồi ngài lại tìm ra phương pháp, pháp môn tu tập để dứt trừ nguyên
nhân đau khổ. Nếu Khổ tập đế là hiểu cái sai lầm, thì theo sự so sánh
như trên ta thấy ngài bước tiếp một bước nữa sang sửa cái sai lầm, mà
ngài gọi là Diệu đế (Khổ tập diệt đế)..Diệt xong khổ, ngài còn tìm và
chỉ ra con đường cho mọi người đi tới cảnh giới hạnh phúc, an vui vĩnh
cửu, ngài gọi là Đạo đế (Khổ tập diệt đạo đế). Đây chính là bước cuôci
cùng thử sau khi sửa sai lầm..Vấn đề khi ta áp dụng tứ đoạn luận pháp
chính là tính lặp lại theo chu kỳ đi lên. Tức là sau khi Thử sau khi sửa
sai lầm ta thường không đạt được cái đúng ngay. Tương tự, ở đây trong
quá trình tu tập Đạo đế ta chưa thể đạt được sự an lạc thảnh thơi hoàn
toàn, có nghĩa là ta vẫn còn ít nhiều cái khổ. Nói cách khác ta vẫn còn
cái sai lầm. Nhưng cái sai lầm này (ở bước 5) đã khác hơn cái sai lầm
trước đó (ở bước 1) ở chỗ sai ít hơn hoặc sai dễ sửa hơn, và ta hãy yên
tâm là mình đang tiến dần đến mục tiêu hơn qua mỗi chu trình thực
tập..Việc so sánh Tứ diệu đế với Phương pháp luận khoa học như trên còn
giúp tôi nhận thức ra một sự thật quan trọng nữa: Khoa học và Đạo học
chân thực là hai con đường nhận thức cơ bản của loài người, quyện hòa
với nhau, bổ sung cho nhau nhằm đưa nhan loại vượt thoát hết mọi phiền
não và khổ đau của sinh tử luân hồi đạt tới mục tiêu cao quý là sự giác
ngộ Chân lý, và sống An lạc, Hạnh phúc ngay tại cuộc đời này..
Đơn thuốc của Đạo Phật trong thời kinh tế thị trường, Chủ nghĩa Tư bản
Các bước
|
Nguyên tắc hướng dẫn
|
Tứ Diệu Đế
|
1
|
Cuộc đời có đau khổ:
- Chủ nghĩa tiêu thụ thái quá
- Ảo tưởng, hoang đường về thịnh vượng, hạnh phúc, trường tồn
- Thiếu giá trị dẫn dắt, trừ lòng tham
- Sự hung hăng, gây hấn, lòng tham, thù hận và vô mình
|
Khổ đế - những sự khổ
Gồm tất cả những cảm giác, kinh nghiệm không vừa ý về vật chất (đau
ốm, thất nghiệp, cháy nhà, phá sản) và về tinh thần (ảo tưởng, chán
nản, lo lắng, thương tiếc). Chúng lúc phát sinh, lúc biến đi – vô minh.
|
2
|
Nguyên nhân cuộc đời đau khổ là Ham muốn và Vướng mắc:
- Lòng tham: không vao giờ biết đủ, thiếu vắng niềm tin làm cho đau khổ
- Cạnh tranh không giới hạn
- Mọi cái không sinh lời đều đáng vứt bỏ
- Giả định không lành mạnh: chấp nhận lòng tham, hận thù và thỏa mãn cá nhân; không chấp nhận luật nhân quả
|
Khổ Tập đế - hiểu nguyên nhân của khổ
Tam độc là nguyên nhân của đau khổ cho ta và cho người khác:
1. Tham (lòng tham, ham muốn, quyến luyến).
2. Sân (giận dữ, ghét bỏ)
3. Si (vô minh, mê mờ, ngu dốt)
|
3
|
Sửa nguyên nhân sai lầm
- Các mối quan hệ công bằng phụ thuộc, tin cậy lẫn nhau
- Sự hợp tác không ích kỷ
- Các hành động dựa trên ý nghĩ và ý định tích cực
- Hạnh phúc là sự ưu tiên
|
Khổ Tập Diệt đế - Tìm phương pháp diệt khổ
Giải thoát khỏi đau khổ - vô minh bằng cách nhận rằng tích lũy vật
chất, của cải chẳng có ích lợi gì cho cuộc sống tinh thần của ta. Việc
bám víu vào đau khổ và giải thoát ta khỏi vòng luân hồi của ham muốn là
kết quả của ý nghĩa và hành đọng của chúng ta.
|
4
|
Thoát khỏi đau khổ: Sau khi Sửa nguyên nhân sai lầm
- Tuân đúng luật Nhân quả (nhận thức được mọi hành động đều có hậu quả của nó)
- Trí tuệ: hành động theo giá trị chung, xây dựng với vô thường
- Giảm những bấu víu, tích cực đóng vào sự cân bằng và hòa hợp chung; phù hợp với tầm nhìn xã hội
- Phát triển tâm linh, tinh thần
- Lợi nhuận và hạnh phúc là bình đẳng với nhau
- Làm việc có trách nhiệm với sản phẩm và dịch vụ
- Tạo nên xã hội tốt đẹp hơn là trách nhiệm xã hội
|
Đạo Khổ Tập Diệt đế - Con dường diệt khổ.
Bát Chánh đạo là con đường thoát đau hô và ham muốn.
1. Chánh kiến: có hiểu biết chân chính
2. Chánh tư duy: tư duy lành mạnh, khước từ tham vọng, ý định thiện chí và không gây hại
3. Chánh ngữ: ngôn ngữ luôn bắt nguồn từ tâm (trung thực, không làm
tổn hại, không xúc phạm, không lăng mạ, tránh chuyện tầm phào)
4. Chánh nghiệp: hành động dựa trên chánh tư duy, đạt kết quả không gây hại.
5. Chánh mạng: kiếm sống đúng luật, có đạo đức và phẩm hạnh
6. Chánh tinh tấn: từ tốn, chậm rãi, tránh những trạng thái tiêu cực cho tâm
7. Chánh niệm: hiểu rõ cách sử dụng tâm để rèn tâm sắc bén như một kỹ năng sống
8. Chánh định: sử dụng tâm để có những lựa chọn và quyết định khôn ngoan
|
5
|
Lại vẫn còn Sai lầm khác
…
|
Quay lại Khổ đế ở mức khác
…
|
.
PGS. TS. Hà Vĩnh Tân,
Viện Vật lý, Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
Theo: Tạp chí Phật học