Một trong 
những điều hấp dẫn nhất về khoa học là sự thay đổi hiểu biết của ta về 
thế giới được chiếu rọi bởi ánh sáng của những khám phá mới. Ngành vật 
lý vẫn đang đấu tranh với việc tiềm tàng một dịch chuyển mẫu hình mà nó 
trải qua như là kết quả của việc xuất hiện lý thuyết tương đối và cơ học
lượng tử ở cuối thế kỉ 20. Các nhà khoa học cũng như triết học đã không
ngớt sống với các mô hình mâu thuẫn nhau về thực tại – Mô hình Newton, 
thừa nhận về một vũ trụ cơ học và dư đoán được, trong khi lý thuyết 
tương đối và cơ học lượng tử thừa nhận về một vũ trụ hỗn độn hơn. Sự 
tiềm tàng của mô hình thứ nhì cho hiểu biết của chúng ta về thế giới 
chưa hoàn toàn rõ nét.

Thế giới quan của riêng tôi thì có nền 
tảng trong triết học và giáo pháp Phật giáo, được hình thành trong môi 
trường tri thức của Ấn Độ cổ đại. Tôi đã được học hỏi về triết học Ấn Độ
cổ đại ở tuổi còn bé. Các thầy giáo của tôi lúc đó là nhiếp chánh của 
Tây Tạng là Tadrak Rinpoche và Ling Rinpoche[1]. Ngài Tadrak Rinpoche là
người cao niên, rất được kính trọng và tương đối nghiêm khắc. Ling 
Rinpoche thì trẻ hơn nhiều;
ngài luôn luôn dịu ngọt, nói năng nhỏ 
nhẹ, và học sâu hiểu rộng, nhưng không phải là một người lắm lời (ít 
nhất khi tôi còn là đứa trẻ). Tôi còn nhớ mình rất kinh hãi mỗi khi có 
mặt của cả hai người. Tôi có nhiều người trợ giúp về triết lý để bàn 
luận về những điều được dạy dỗ. Trong đó có Trijang Rinpoche[2] và đại 
sư học giả nổi tiếng Ngodrup Tsoknyi. Khi ngài Tadrak Rinpoche mất, Ling
Rinpoche trở thành người thái sư[3] bậc cao và Trijang Pinpoche được 
thăng cấp thành thái sư.
Hai người này vẫn còn là thái sư cho đến
khi hoàn tất chương trình học vấn chính thức, và tôi tiếp tục nhận được
nhiều di sản Phật giáo Tây Tạng của nhiều dòng truyền thừa khác nhau từ
hai ngài. Họ là những người bạn thân nhưng lại có các cá tính rất khác 
nhau. Ling Rinpoche là một người rắn chắc với đầu trọc láng bóng, và mỗi
khi ông cười thì toàn thân cũng rung theo. Ông có vóc dáng to lớn nhưng
đôi mắt nhỏ. Trijang Rinpoche là người cao gầy với có dáng khoan thai 
và thanh lịch với mũi cao nhọn so với người Tây Tạng. Ông ta rất hoà nhã
và chất giọng sâu lắng, đặc biệt nhiều nhạc tính khi ông ấy tụng kinh. 
Ling Rinpoche là một triết gia sâu sắc với một tâm thức luận lý[4] nhạy 
bén và là một biệt tài hùng biện với trí nhớ truyệt vời. Trijang 
Rinpoche là một trong những nhà thơ vỹ đại với một khả năng chiết 
trung[5] thành thạo về nghệ thuật và văn chương thời bấy giờ. Nói về khí
chất và các năng khiếu của tôi thì tôi cho rằng mình gần gũi với Ling 
Rinpoche hơn bất kỳ người thái sư nào. Có lẽ công bằng mà nói thì ngài 
Ling Rinpoche đã có ảnh hưởng nhiều nhất lên cuộc đời tôi.
Khi bắt đầu học nhiều giáo pháp khác 
nhau của các trường phái Ấn Độ cổ đại, thì tôi đã không có cách để liên 
hệ được chúng với bất kỳ khía cạnh nào của kinh nghiệm bản thân. Chẳng 
hạn, thuyết nhân quả của trường phái Sāṃkhya[6] cho rằng một hậu quả bất
kỳ đều là một sự biểu thị của một phần đã có sẵn bên trong của nguyên 
nhân; thuyết của phái Vaiśeṣika[7] về vũ trụ đề xướng rằng sự đa dạng 
của một lớp các vật thể bất kỳ có tính chất tổng quát lý tưởng thường 
hằng là nó phụ thuộc vào tất cả các tính chất đặc thù của nó. Đã có các 
luận diểm hữu thần Ấn Độ chứng minh sự tồn tại của đấng Tạo Hoá và các 
luận điểm bài bác của Phật giáo mô tả điều ngược lại. Thêm vào đó tôi 
phải học nhiều điểm phức tạp khác nhau trong các giáo pháp của nhiều 
trường phái Phật giáo. Chúng thật quá bí hiểm để trực tiếp phù hợp cho 
một cậu bé mười mấy tuổi đầu mà sự ham thích của cậu ta chỉ đặt nhiều 
hơn vào tháo và lắp các đồng hồ, hay là các xe hơi và nghiền ngẫm các 
bức hình về Thế Chiến thứ II trong những tập sách và các ấn bản của tạp 
chí Life. Thật ra, khi Babu Tashi tháo rời và rửa chiếc máy phát điện 
thì tôi đứng đó để phụ giúp. Tôi thật vui thú với tiến trình này đến nổi
hay quên các buổi học và ngay cả các bữa ăn. Khi những người trợ giúp 
triết học đến để giúp tôi ôn tập, thì tâm trí tôi lại miên man về máy 
phát điện và nhiều bộ phận của nó.
Nhưng mọi thứ thay đổi khi tôi lên 16. 
Các sự kiện chuyển biến nhanh chóng, quan đội Trung Quốc tiến đến biên 
giới Tây Tạng vào muà hè năm 1950, ngài nhiếp chánh, Tadrak Rinpoche cho
rằng thời điểm để tôi nắm lấy toàn quyền lãnh đạo của quốc gia đã đến. 
Có lẽ việc đó đã đánh mất tuổi thanh xuân, trói buộc tôi bằng thực tế 
đen tối của cuộc khủng hoảng đang bắt đầu xảy ra, khiến tôi hiểu rõ được
giá trị của việc giáo dục [ở đây là việc giảng dạy về các triết thuyết 
cụ thể của Phật giáo đến giai đoạn này được tác giả áp dụng vào thực 
tế]. Dù với nguyên nhân nào đi nữa, thì ở lứa tuổi 16 hoạt động học tập 
của tôi về triết học, tâm lý học, và thần học đã tạo được sự khác biệt 
về chất lượng. Tôi không những đã dồn hết tâm sức để đảm bảo việc học 
tập chúng mà còn liên hệ được nhiều khiá cạnh của sự học này với hiểu 
biết của chính tôi về cuộc sống và những sự kiện của thế giới bên ngoài.
Khi tôi bắt đầu đào sâu vào việc học 
tập, quán chiếu, và thiền định về các tư tưởng và thực hành Phật giáo, 
thì việc đương đầu của Tây Tạng với các lực lượng Trung Quốc trong lãnh 
thổ – nhằm thử dàn xếp để đem đến sự thoả thuận chính trị cho cả hai – 
đã trở nên ngày càng phức tạp. Cuối cùng ngay sau khi tôi kết thúc 
chương trình học chính thức và ngồi trước sự hiện diện của hàng ngàn 
tăng sĩ trong kỳ sát hạch Geshe[8] tại vùng đất thánh thành phố Lhasa đã
là một sự kiện đánh dấu đỉnh cao về các nghiên cứu hàn lâm chính thức 
và cho đến hôm nay sự kiện này vẫn là một nguồn vui lớn của tôi, thì 
cuộc khủng hoảng ở trung tâm Tây Tạng buộc tôi lánh khỏi quê nhà sang Ấn
Độ, để dấn thân vào cuộc đời tị nạn không quốc tịch. Điều này vẫn còn 
là tình trạng hợp lệ của tôi. Nhưng mất quyền công dân ở quê hương, tôi 
tìm thấy một ý nghĩa lớn hơn, có thể nói một cách chân thành rằng tôi là
một công dân của thế giới.
Một trong những tuệ giác[9] quan trọng 
nhất trong Phật giáo đến từ điều được biết như là thuyết lý về tính 
Không[10]. Trọng tâm của giáo thuyết này là sự công nhận sấu sắc rằng có
một khác biệt nền tảng giữa cách mà ta nhận thức về thế giới, bao gồm 
cả sự tồn của chúng ta trong đó với cách mà sự vật thực sự có; trong 
kinh nghiệm hằng ngày, ta có xu hướng liên hệ đến thế giới và đến chính 
mình như là các thực thể chiếm hữu một thực tại tự tồn, định danh được, 
tách biệt, và lâu bền. Chẳng hạn, nếu ta thẩm tra tri kiến của chính 
mình về bản ngã, sẽ thấy rằng ta có xu hướng tin vào sự có mặt của một 
trung tâm cốt yếu cho con người chúng ta mà nó đặc trưng cho cá nhân và 
nhận diện như là một cái tôi riêng biệt, độc lập với các thành tố tinh 
thần và thể chất đã cấu trúc nên sự tồn tại của ta. Thuyết lý về tính 
Không phát hiện ra điều này chẳng những là một sai sót nền tảng mà còn 
là cơ sở cho tham ái, bám chấp, và là sự phát triển của nhiều loại thành
kiến của ta.
Theo lý thuyết về tính Không, thì một 
lòng tin bất kỳ vào một thực tế khách quan có nền tảng dựa trên một giả 
định về sự tồn tại bản chất độc lập thì sẽ không hợp lý lẽ. Tất cả sự 
vật và hiện tượng, bất kể là vật chất, tinh thần hay các khái niệm trườu
tượng như là thời gian, đều thiếu vắng tính tồn tại khách thể độc lập. 
Để có được sự tồn tại độc lập, bản chất như thế sẽ phải ngụ ý rằng những
sự vật và hiện tượng đó tự chúng bằng cách nào đó đầy đủ và do đó hoàn 
toàn tự nội tại[11]. Điều này có nghĩa là không sự vật gì có khả năng 
tương tác và gây được ảnh hưởng lên các hiện tượng khác. Nhưng ta biết 
rằng có nhân và quả[12]– Vặn chìa khoá khởi động, bu-gi đánh lửa, máy 
nổ, động cơ chuyển vận, xăng và nhớt được đốt. Trong một vũ trụ của các 
sự vật tự nội tại, tồn tại một cách tự tính[13], thì những sự kiện như 
thế không thể xảy ra. Tôi sẽ không thể viết lên giấy, và bạn sẽ không 
thể nào đọc những chữ trên trang giấy này. Nhưng bởi vì chúng ta tương 
tác và thay đổi lẫn nhau, nên ta phải thừa nhận rằng ta không độc lập 
mặc dù ta có thể cảm thấy hay trực giác rằng chúng ta có sự độc lập.
Một trong các hệ quả là quan điểm về sự 
tồn tại độc lập tự tính thì không phù hợp với luật nhân quả. Lý do là vì
luật nhân quả bao hàm khả năng xảy đến và sự phụ thuộc, trong khi vật 
bất kỳ nào có đặc tính tồn tại độc lập thì bất khả biến và tự đóng kín. 
Mọi vật đều là sự hợp thành của các sự kiện quan hệ một cách phụ thuộc, 
của các hiện tượng tương tác nhau một cách liên tục với bản chất không 
thường hằng không có xếp đặt từ trước, mà những hiện tượng đó tự chúng 
cũng nằm trong các mối tương quan động thường biến. Các sự vật và hiện 
tượng đều là "Không" trong ý nghĩa là chúng không có bản chất bất khả 
biến, không có thực chất tự tính, hay không là một "thực thể" tuyệt đối 
có khả năng độc lập. Chân lý nền tảng này về "cách mà sự vật thật sự có"
được mô tả trong kinh văn Phật giáo là "tính Không" hay śūnya trong 
Phạn ngữ.
Trong quan điểm thông dụng hay ngây thơ 
của mình, chúng ta liên hệ đến sự vật và sự kiện như là chúng có một 
thực tại tự tính lâu bền. Ta có xu hướng tin rằng thế giới này được làm 
ra từ những sự vật và hiện tượng mà mỗi phần tử trong chúng đều có một 
thực tại độc lập tách biệt cho tự chính nó và những sự vật thế này tương
tác với sự vật khác bằng một sự độc lập và những đặc trưng tách biệt. 
Chúng ta tin rằng những hạt giống thực một cách tự tính sẽ sản sinh 
những vụ mùa thực ở một thời điểm thực và tại một nơi thật sự và các yếu
tố này đều có mặt một cách tự tính. Mỗi thành viên trong mối quan hệ 
nhân quả này – tức là hạt giống, thời gian, nơi chốn và hậu quả – được 
ta gán cho trạng thái bản thể rắn chắc. Quan điểm về một thế giới như là
được làm từ các đối tượng rắn chắc và các đặc tính tự tính còn được 
cũng cố thêm bởi ngôn ngữ của chúng ta về các chủ ngữ và vị ngữ mà được 
cấu trúc một mặt bởi các danh từ và tính từ mang tính chất tồn tại độc 
lập và mặt khác bởi các động từ chủ động. Nhưng mọi vật được cấu thành 
bởi các bộ phận – một người thì bao gồm cả hai: thân lẫn tâm. Xa hơn 
nữa, mỗi đặc trưng của các sự vật còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố, chẳng
hạn như là các tên mà ta gán cho chúng, các chức năng, và các khái niệm
mà ta có về chúng.
Mặc dù đuợc đặt nền móng bởi sự phiên 
dịch của các kinh điển cổ, mà được cho là từ đức Phật lịch sử[14], thì 
lý thuyết tính Không này đã được chú giải lần đầu tiên một cách hệ thống
bởi luận sư vỹ đại Long Thụ[15] (thế kỉ thứ 2). Người ta biết không 
nhiều về đời sống cá nhân, ngài đến từ miền Nam Ấn Độ – và chỉ sau đức 
Phật – Ngài là hình ảnh quan trọng nhất cho việc lý giải về Phật giáo 
tại Ấn Độ. Các nhà sử học cho rằng ngài có công trong sự hình thành của 
trường phái Trung Đạo[16] của Phật giáo Đại thừa mà vẫn còn là trường 
phái chiếm ưu thế tại Tây Tạng cho đến ngày nay. Tác phẩm triết học gây 
ảnh hưởng nhiều nhất của ngài là Căn Bản Trung Quán Luận mà vẫn còn được
tiếp tục học thuộc lòng, nghiên cứu và luận bàn trong các đại học Phật 
giáo ở Tây Tạng.
Tôi đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu chi
tiết về các vấn đề được nêu lên trong bản luận này đồng thời thảo luận 
với các thầy giáo và đồng môn. Vào thập niên 1960, trong suốt thập niên 
đầu trong cuộc đời tị nạn tại Ấn, tôi đã có thể đào bới một cách sâu sắc
và rất cá nhân vào thuyết lý tính Không. Không như ngày nay, hồi đó tôi
được nghĩ ngơi một cách hợp lý, chỉ với một ít hoạt động chính quy, tôi
vẫn chưa bắt đầu đi chu du thế giới, một quá trình mà giờ đây chiếm 
phần chính thời gian của tôi. Trong suốt thập kỷ trước, tôi đã có nhiều 
cơ hội sử dụng hàng giờ với các thầy giáo riêng, mà cả hai đều là những 
chuyên gia trong các thực hành triết học và thiền định về tính Không.
Tôi cũng có được các giảng huấn từ một 
học giả Tây Tạng khiêm tốn nhưng tài ba tên là Nyima Gyalsen[17]. Một 
cách trìu mến được biết đến đưới tên Gen Nyima, ngài là một trong những 
người hiếm hoi với tài biểu thị một cách mạch lạc các tuệ giác thâm sâu 
bằng những thuật ngữ mà hầu như có thể truy cập tới được. Ông ấy hơi hói
và đeo một đôi kính mát tròn và to. Mắt phải của ngài bị chứng co giật 
khiến phải nháy thường xuyên. Nhưng năng lực tập trung tinh thần đặc 
biệt khi theo dõi một chuỗi dài các ý tưởng và đào bới sâu vào một điểm 
của ông thì thật đáng kinh ngạc – quả là một huyền thoại. Ông ta có thể 
trở nên rành mạch hoàn toàn với những gì xảy ra ở xung quanh một khi mà 
ông ở một trong các trạng thái này. Thật sự thuyết lý tính Không đã là 
chuyên môn đặc biệt của Gen Nyima khiến những giờ trao đổi của tôi với 
ngài tất cả trở nên đích đáng hơn.
Một trong những điều đặc biệt và sôi nổi
nhất về vật lý hiện đại là cách mà thế giới vi mô của cơ học lượng tử 
thách thức hiểu biết chung của chúng ta. Những dữ kiện về lưỡng tính 
sóng-hạt của ánh sáng và về nguyên lý bất định[18] phát biểu rằng ta 
không thể nào xác định được cùng lúc trạng thái chuyển động và vị trí 
của nó, và về khái niệm của sự chồng chập lượng tử[19]; tất cả nói lên 
một cách hiểu hoàn toàn khác về thế giới so với vật lý cổ điển cho rằng 
các vật thể hoạt động trong một cách thức xác lập và dự đoán được. Chẳng
hạn, trong thí dụ nổi tiếng về chú mèo của Schrödinger[20], trong đó, 
chú mèo được đặt trong một hộp có nguồn phóng xạ mà có đến 50% cơ hội để
thoát ra độc tố gây tử vong, ta buộc phải chấp nhận rằng, cho đến khi 
nắp hộp được mở ra, thì chú mèo vừa sống và vừa chết, điều này dường như
không tuân theo luật mâu thuẫn.
Đối với một Phật tử Đại thừa được giàn 
trải tư tưởng của thánh giả Long Thụ, có một sự cộng hưởng không thể sai
lầm giữa khái niệm tính Không và vật lý mới. Nếu trong cấp độ lượng tử,
vật chất tỏ ra ít rắn chắc và khó xác định hơn như là sự trình hiện của
chúng, thì dường như, đối với tôi, khoa học đang tiến gần hơn đến với 
các tuệ giác Phật giáo về tính Không và sự tương thuộc lẫn nhau. Ở một 
hội nghị tại New Delhi, tôi đã có lần được nghe Raja Ramanan[21], một 
nhà vật lý được sánh như là Sakharov[22] của Ấn Độ, đã mô tả sự song 
hành giữa thuyết lý tính Không của Long Thụ với cơ học lượng tử. Qua 
nhiều năm, sau khi được tiếp chuyện với nhiều nhà khoa học bạn bè, tôi 
cho rằng những phát kiến to lớn kể từ thời Copernicus[23] đã đem lại một
thấu hiểu rõ ràng là thực tại thì không giống như trình hiện của nó 
trước mắt ta. Khi đặt thế giới dưới một góc nhìn nghiêm túc của việc 
khảo sát – tức là dùng phương pháp và thí nghiệm khoa học hay phân tích 
luận lý về tính Không hoặc phương pháp phân tích thiền định (thiền quán 
-ND) – người ta có thể thấy được các sự vật ở mức vi tế hơn, và ngay cả 
trong một số trường hợp thấy được mâu thuẫn với các giả định của quan 
niệm thông thường về thế giới của chúng ta.
Ngoài việc miêu tả không đúng thực tại, 
người ta có thể hỏi thêm gì về các sai sót khi tin vào việc tồn tại độc 
lập tự tính của sự vật? Đối với ngài Long Thụ, niềm tin này có những hậu
quả tiêu cực nghiêm trọng. Long Thụ luận rằng niềm tin vào sự tồn tại 
tự tính chứa đựng cơ sở chức năng sai lạc có tính tự ngã trường cửu 
trong các tiếp giao của ta với thế giới và với những chúng sinh đồng 
loại. Khi đối xử với các đặc tính tự tính hấp dẫn, thì ta phản ứng đến 
các đối tượng và sự vật với sự luyến ái lừa dối, trong khi đó, lúc đối 
với các đặc tính tự tính khó ưa thì ta lại phản ứng ghét bỏ. Nói cách 
khác, Long Thụ biện minh rằng việc bám chấp vào tính tồn tại độc lập của
sự vật dẫn tới phiền não, mà theo đó, sẽ khởi tiếp một chuỗi các hành 
vi phản ứng hủy hoại và đau khổ. Trong phân tích sau cùng, theo Long 
Thụ, thuyết lý về tính Không không phải chỉ là vấn đề hiểu biết khái 
niệm về thực tại. Nó dính líu chặt chẽ với đạo đức và tâm lý một cách 
sâu sắc.
Có lần tôi hỏi người bằng hữu, nhà vật 
lý David Bohm, câu hỏi rằng trong quan điểm khoa học hiện đại, ngoài vấn
đề miêu tả sai lạc, thì điều điều gì sai trái khi tin vào sự tồn tại 
độc lập của các sự vật? Câu trả lời của ông ấy rất đích đáng. Ông ta bảo
rằng nếu ta kiểm điểm lại những hệ tư tưởng vốn có xu hướng phân chia 
nhân loại như là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia quá 
khích, và tầng lớp đấu tranh chủ nghĩa Mác, thì một trong những nhân tố 
chính yếu từ trong cội nguồn của các chủ trương đó là chiều hướng nhận 
thức các sự vật bị chia biệt và rời rạc một cách tự tính. Từ nhận thức 
sai lầm này, kích khởi lên lòng tin rằng mỗi thành phần trong trong các 
sự phân chia đó là độc lập một cách bản chất và tự tồn. Trả lời của ngài
Bohm, người có nhân thân trong hoạt động về vật lý lượng tử, đã lập lại
một mối quan tâm đạo đức về việc chứa chấp các tín điều mà ngài Long 
Thụ đã lo ngại nêu ra trước đó gần 2000 năm. Nói một cách nghiêm túc, 
cho là khoa học không có trách nhiệm với những vấn đề các đạo đức và các
phán xét đánh giá; sự thật là khoa học, một nổ lực của nhân loại, vẫn 
phải liên hệ tới câu hỏi cơ bản về sự hoàn thiện của con người. Vậy nên,
trong một ý nghĩa nào đó thì không có gì đáng ngạc nhiên về câu trả lời
của Bohm. Tôi ước có thêm nhiều khoa học gia đồng ý với suy nghĩ của 
ông ấy về mối liên hệ lẫn nhau giữa khoa học với các khuôn khổ nhận thức
và tính nhân bản.
Theo tôi biết thì khoa học hiện đại đã 
đối mặt với một cuộc khủng hoảng trong đầu thế kỉ thứ 20. Công trình vỹ 
đại về vật lý cổ điển được dựng lên bởi Isaac Newton, James Maxwell[24] 
và nhiều nhà khoa học khác đã cung ứng các giải thích dường như rất hiệu
quả về những thực tại được nhận thấy về thế giới và các giải thích đó 
khế hợp với các ý tưởng thông thường. Công trình đó đã bị làm suy yếu 
bởi việc phát hiện ra thuyết tương đối và bởi ứng hoạt kỳ lạ của vật 
chất cấp mức độ nhỏ hơn nguyên tử [hạ nguyên tử], mà đã được tìm hiểu 
trong vật lý lượng tử. Như Carl von Weizsäcker có lần giải thích với tôi
rằng vật lý cổ điển chấp nhận một thế giới quan cơ giới trong đó các 
luật vật lý phổ dụng chắc chắn bao gồm trọng lực và các định luật cơ 
học, đã xác lập một cách hiệu quả mô hình của các hành vi tự nhiên. 
Trong mô hình này, có bốn thực tại khách quan – là các vật thể, các lực,
không gian và thời gian – và luôn luôn có một sự khác nhau rõ ràng giữa
các đối tượng được biết và chủ thể là người nhận biết. Nhưng trong 
thuyết tương đối và cơ học lượng tử, theo von Weizsäcker, thì ta phải từ
bỏ vấn đề có tính nguyên lý là sự biệt lập giữa chủ thể và đối tượng, 
và từ bỏ tất cả những chắc chắn của ta về khả năng khách quan của các dữ
kiện thực nghiệm. Dẫu sao – và đây là điều mà von Weizsäcker xác quyết:
những khái niệm duy nhất mà ta có cho việc mô tả cơ lượng tử và các thí
nghiệm để kiểm nhận bức tranh mới của nó [cơ lương tử] về thực tại lại 
là những thứ thuộc về vật lý cổ điển [là bộ môn] vốn đã bị lượng tử lý 
thuyết bác bỏ. Mặc dù với các vấn đề này, von Weizsäcker luận rằng chúng
ta cần liên tục tìm kiếm về sự gắn kết nhau trong tự nhiên và về sự 
hiểu biết của thực tại, của khoa học, và của chỗ đứng của nhân loại mà 
chúng đúng đắn hơn theo kiến thức khoa học mới nhất.
Dưới ánh sáng của các phát kiến khoa 
học, tôi cảm thấy rằng Phật giáo cũng phải quyết tâm thích ứng với vật 
lý cơ bản về các lý thuyết "nguyên tử" của nó, bất kể thẩm quyền được 
xác lập từ lâu của chúng trong truyền thống Phật giáo. Chẳng hạn, học 
thuyết cổ sơ Phật giáo về "nguyên tử" chưa bao giờ trải qua một sự tu 
chỉnh lớn nào, đã đề xuất rằng vật chất thì được cấu trúc bởi một tập 
hợp của bộ tám "nguyên tử" căn bản: đất, nước, lửa, và gió; tạo thành tứ
đại và sắc, hương, vị, và xúc[25] được gọi là bốn dẫn xuất căn bản. Đất
có tính rắn đặc, nước có tính kết dính uyển chuyển, lửa có tính năng 
lực, và gió có tính năng động. Một "nguyên tử" thấy được như là tổ hợp 
của tám yếu tố căn bản, và đựa trên cơ sở của sự kết hợp[26] của các 
"nguyên tử" thành phần, mà sự tồn tại của các đối thể trong thế giới vi 
mô được giải thích. Theo một trường phái Phật giáo cổ nhất là Tì-bà-sa 
Luận[27] thì những "nguyên tử" căn bản riêng lẽ là các cấu trúc nhỏ nhất
của vật chất, không phân chia được (bất khả phân) và do đó không có các
bộ phận. Khi các "nguyên tử" như thế kết hợp để hình thành các đối thể,
thì những người theo phái Tì-bà-sa khẳng định rằng các "nguyên tử" 
riêng lẽ không hề chạm nhau. Sự hỗ trợ của thành tố gió và các lực lượng
khác trong tự nhiên giúp cho các thành tố cấu trúc được kết hợp thành 
một hệ thống hơn là việc sụp đổ vào bên trong hay giản nở vô hạn định.
Sẽ bằng thừa nếu nói rằng những lý 
thuyết như vậy phải được phát triển thông qua sự tranh luận kịch liệt 
với các trường phái triết học Ấn khác, đặc biệt là các hệ thống lập luận
của Nyaya[28] và Vaisheshika. Nếu kiểm nghiệm lại các văn liệu triết 
học Ấn từ thời cổ, thì người ta sẽ cảm nhận được một nền văn hóa giàu 
tính tranh luận, bàn bạc, và đối thoại giữa những người theo đuổi các 
trường phái và hệ thống khác nhau.
Các trường phái cổ Ấn này – như là Phật 
giáo, Nyaya, Vaisheshika, Mimamsa, Samkhya, và Aidvaidavadanta[29] – 
cùng chia sẻ các lợi lạc và phương pháp của sự phân tích. Loại tranh 
luận kịch liệt này giữa các trường phái tư tưởng đã là nhân tố chính 
trong sự phát triển của tri kiến và tinh lọc các ý tưởng triết học, từ 
thời Phật giáo cổ Ấn đến trung cổ và thời Tây Tạng hiện đại.
Những nguồn giáo pháp cổ xưa nhất được 
biết đến về lý thuyết "nguyên tử" của phái Tì-bà-sa có thể từ tác phẩm 
A-tỳ-đàm Tâm Luận của ngài Dharmaśrī và tác phẩm được tôn vinh 
Đại-tì-bà-sa luận[30]. Tác phẩm đầu được các nhà nghiên cứu hiện nay cho
là có mặt vào khoảng thế kỉ thứ 2 trước Tây lịch và thế kỉ thứ 1. Mặc 
dù nó chưa bao giờ được dịch sang Tạng ngữ, tôi đã được cho biết rằng 
bản Hán ngữ đã được tạo ra vào thế kỉ thứ 3. Bài luận của ngài Pháp 
Thắng thể hiện một nổ lực tinh tế nhằm hệ thống hoá các quan điểm tinh 
yếu của triết lý Phật giáo trước đó, khá nhiều ý tưởng cơ sở của nó chắc
chắn đã có mặt một thời gian trước khi bài luận đó được soạn thảo. 
Ngược lại, tập Đại-tì-bà-sa luận là một bài thuyết giảng được soạn thảo 
vào khoảng giữa thế kỉ thứ nhất và thứ ba sau Tây lịch thiết lập các 
giáo lý của một trường phái Phật giáo đặc biệt như là giáo pháp chính 
thống và trả lời cho nhiều phản bác khác nhau chống lại các giáo lý này 
bằng cách đưa ra một nền tảng lập luận triết lý. Mặc dù các luận điểm 
của Đại-tì-bà-sa luận rất quen thuộc với Phật giáo Tây Tạng, thì tác 
phẩm này tự nó cũng chưa hề thực sự được chuyển dịch đầy đủ sang Tạng 
ngữ.
Trên cơ sở của hai luận văn này, đặc 
biệt là bản Đại-tì-bà-sa, thì Thế Thân, một đại sư triết học nhiều uy 
tín người Ấn, đã soạn tác phẩm A-tì-đàm-câu-xá Luận trong thế kỉ thứ 
tư[31]. Tác phẩm này tổng kết các điểm tinh yếu của Đại-tì-bà-sa luận 
đưa chúng ra để phân tích xa hơn. Nó đã trở thành việc làm chuẩn mực cho
ngành tâm lý học và triết học.
Phật giáo cổ sơ tại Tây Tạng; thí dụ, khi còn là một tu sĩ trẻ, tôi phải học thuộc lòng chính văn của bài luận này.
Như là sự hợp thành của các "nguyên tử" 
và mối quan hệ tương hỗ giữa các "nguyên tử" với những đặc tính cấu trúc
của chúng, Phật giáo cổ sơ đã sản sinh ra tất cả các loại lý thuyết suy
diễn. Điểm lý thú là A-tì-đàm-câu-xá thậm chí còn bàn thảo về kích 
thước vật lý của các "nguyên tử" khác nhau. Hạt tử tuyệt đối nhỏ nhất 
được tả là khoảng 1 phần 2.400 lần cở của một "nguyên tử" của con thỏ, 
theo một ý nghĩa nào đó. Tôi không biết bằng cách nào ngài Thế Thân tính
ra được như vậy!
Trong khi chấp nhận thuyết nguyên tử, 
các trường phái Phật giáo khác đã đặt nghi vấn về quan điểm các nguyên 
tử không chia được. Mốt số còn truy cứu đến điều cho rằng bốn yếu tố 
sắc, hương, vị, và xúc như là một cơ sở cấu thành vật chất. Chẳng hạn, 
Thế Thân đã nổi tiếng vì việc ngài tự mình chỉ trích quan điểm về những 
nguyên tử thực tại khách quan không chia được. Ngài phản bác rằng, nếu 
các nguyên tử độc lập bất khả phân tồn tại, thì không thể nào có được sự
hình thành của các vật thể trong thế giới thường ngày. Để các vật thể 
như thế được hình thành, phải có một cách giải thích phương thức mà các 
nguyên tử đơn giản liên kết nhau trong các hệ thống phức hợp.
Nếu một sự kết hợp như thế xảy ra, như 
là nó phải có, thì hãy mường tượng một nguyên tử đơn lẽ được vây quanh 
bởi 6 nguyên tử khác, mỗi nguyên tử phân bố theo các hướng chính và một 
phía trên, một phía dưới. Sau đó, ta có thể đặt nghi vấn là: Phải chăng 
cùng một bộ phận của nguyên tử ở trung tâm giao tiếp với nguyên tử ở 
phía đông và đồng thời giao tiếp với nguyên tử ở phía bắc? Nếu không thì
nguyên tử ở trung tâm phải có nhiều hơn 1 bộ phận và do đó ít nhất trên
nguyên tắc phải chia cắt được. Nguyên tử ở giữa phải có một bộ phận 
giao tiếp nguyên tử ở phía đông nhưng không giao tiếp với nguyên tử ở 
phía bắc. Nếu ngược lại, phần phía đông này không giao tiếp với nguyên 
tử ở phía bắc, thì cũng không có gì ngăn cản phần đó giao tiếp với các 
nguyên tử trong tất cả các hướng khác. Trong trường hợp như vậy, Thế 
Thân tranh luận rằng, các vị trí không gian của tất cả bảy nguyên tử – 
một ở giữa và 6 xung quanh – sẽ là một, và do đó tất cả sẽ sụp đổ vào 
trong một nguyên tử đơn nhất. Như là kết quả của thí nghiệm suy tưởng 
này, ngài Thế Thân phản bác rằng không thể nào có các vật thể của thế 
giới vi mô trong ý nghĩa của sự kết hợp vật chất đơn thuần như là các 
nguyên tử không phân chia được.
Một cách cá nhân thì tôi không thể nào 
hiểu ý nghĩ cho rằng các phẩm chất như hương, vị, và xúc là cơ sở cấu 
thành của các vật thể vật chất. Tôi có thể thấy được cách thức mà người 
ta phát triển một lý thuyết nguyên tử liên kết của vật chất trên cơ sở 
của bốn thành tố như là các cấu trúc. Trong mọi trường hợp thì tôi cảm 
thấy rằng phương diện tư tưởng Phật giáo này, chủ yếu là một dạng của 
vật lý sơ đẳng, suy diễn, giờ đây phải được điều chỉnh dưới ánh sáng của
vật lý hiện đại mà đã được chi tiết hóa và được kiểm tra việc hiểu biết
về cơ sở các cấu trúc của vật chất một cách có thử nghiệm trong khuôn 
khổ của các hạt vật lý như là các hạt điện tử quay quanh một hạt nhân 
với dương điện tử và trung hoà tử[32]. Khi người ta nghe nói về các mô 
tả về các hạt hạ nguyên tử, như là quark và lepton[33] trong vật lý hiện
đại, thì đó là bằng chứng rằng các lý truyết nguyên tử Phật giáo cổ xưa
và nhận thức của chúng về các hạt vật chất nhỏ nhất bất khả phân quá 
lắm chỉ là những mô hình thô thiển. Mặc dù vậy, điểm nhấn mạnh cơ bản 
của các luận sư Phật giáo cho là ngay cả với những cấu trúc tinh vi nhất
của vật chất đều phải được hiểu dưới dạng của các thành phần kết hợp có
vẻ đã đi đúng đường.
Một trong những động lực cơ bản đứng sau
việc truy cứu về triết lý và khoa học lên các cấu trúc cơ sở của vật 
chất là để tìm ra viên gạch xây dựng không thể rút nhỏ hơn được. Điều 
này không chỉ đúng trong triết học cổ Ấn độ và vật lý hiện đại mà cả với
các nhà khoa học cổ Hy Lạp, chẳng hạn như các lý thuyết gia chủ trương 
"nguyên tử". Một cách chính xác, thì đây là cuộc truy lùng vào bản chất 
tối hậu của thực tại, dù rằng còn tùy theo cách định nghĩa. Tư tưởng 
Phật giáo luận đàm trên các nền tảng lô-gíc rằng cuộc truy tìm này là bị
lạc lối. Đã có một thời, khoa học tin vào việc tìm ra nguyên tử là đã 
tìm thấy được cấu trúc tối hậu của vật chất; nhưng các thí nghiệm vật lý
thế kỉ thứ 20 đã phân chia được nguyên tử thành các hạt vi tế hơn. Mặc 
dù ít ra có một quan điểm trong cơ học lượng tử cho rằng ta sẽ không bao
giờ tìm được hạt không thể rút nhỏ hơn thực sự một cách khách quan, thì
nhiều nhà khoa học vẫn sống trong niềm hy vọng về sự phát hiện của bộ 
môn này.
Trong mùa hè 1998, Tôi có viếng thăm 
phòng thí nghiệm của nhà vật lý người Áo Anton Zeilinger tại đại học 
Innsbruck[34]. Anton hướng dẫn tôi dùng thiết bị cho phép người ta quan 
sát một nguyên tử riêng lẽ được ion hóa. Tôi đã cố thử hết khả năng 
nhưng vẫn không thấy nổi nó. Có lẽ duyên nghiệp của tôi không đủ chín 
mùi để được hưởng hình ảnh tuyệt vời này. Tôi gặp Anton lần đầu tiên khi
mà ông ta tham dự hội nghị Life and Mind[35] tại Dharamsala vào năm 
1997. Bằng một cách nào đó thì trái ngược với David Bohm, ông ta to lớn 
với râu quai nón và mang kiếng, có tài hài hước, và tiếng cười rung cả 
toàn thân. Là một nhà vật lý thực nghiệm, ông ta cởi mở một cách đáng 
ghi nhận đối với mọi cải cách của các đề tài lý thuyết dưới ánh sáng của
các kết quả thực nghiệm mới nhất. Ông ta hứng thú đối thoại với Phật 
giáo trong việc so sánh các lý thuyết của tri thức – vật lý lượng tử và 
Phật giáo – bởi vì ông ta thấy rằng cả hai đều loại bỏ bất kỳ ý niệm nào
về một thực tại khách quan độc lập.
Cũng trong lần đó, tôi đã gặp nhà vật lý
Hoa kỳ Athur Zajonc[36]; một người nói năng nhỏ nhẹ và có cặp mắt sắc 
xảo, đặc biệt khi ông ta chăm chú mạnh vào một điểm; là một giáo viên 
thiên tài với khả năng làm cho ngay cả một đề tài phức tạp nhất trở nên 
rõ ràng. Trong vai trò giới thiệu, Athur tổng kết và tóm tắt các bàn 
thảo một cách thật súc tích khiến chúng trở nên rất hữu dụng cho tôi.
Nhiều năm trước đó, tôi đã có may mắn 
được đến thăm học viện Niels Bohr[37] ở Copenhagen [thủ đô Đan Mạch] để 
tham dự một cuộc đàm thoại không chính thức. Vài ngày trước chuyến viếng
thăm, trong khi đang ở tạm tại Luân-đôn, tôi có bữa ăn trưa với David 
Bohm và vợ ông ta tại khách sạn mà tôi trú. Do có thông báo với ông ta 
rằng tôi sẽ tham dự cuộc đối thoại về triết học vật lý và Phật giáo tại 
học viện Bohr, nên Bohm đã nhiệt tình đem đến cho tôi hai trang tổng kết
của chính ngài Bohr về các quan điểm triết học đối với bản chất của 
thực tại. Thật là tuyệt vời khi nghe Bohm kể về mô hình hành tinh Bohr 
của nguyên tử và mô hình nguyên tử của Rutherford[38] như là một hạt 
nhân với các điện tử xoay quanh, cả hai đều nhắm phản ứng lại mô hình 
"plum pudding" [giống như chè thạch - mận].
Mô hình plum pudding đã hình thành từ 
cuối thế kỉ 19 sau khi J.J. Thomson[39] phát hiện các điện tử tích điện 
âm; và mô hình đó cho rằng lượng điện tích dương cân bằng với lượng điện
tích âm của các điện tử đã trải đều trong nguyên tử như là chè thạch, 
trong đó các điện tử là những trái mận. Trong đầu thế kỉ 20, Ernest 
Rutherford phát hiện ra rằng khi các hạt alpha tích điện dương được bắn 
vào một lá vàng mỏng, thì hầu hết xuyên qua ngoại trừ một số bị dội lại.
Ông ta kết luận một cách đúng đắn là các phần tích điện dương của vàng 
không thể trải đều trong những nguyên tử như chè thạch mà phải tập trung
bên trong trung tâm của chúng: khi hạt alpha va chạm với trung tâm của 
nguyên tử vàng, phần tích điện dương đủ mạnh để đẩy ngược nó trở lại. Từ
đây, Rutherford hệ thống hóa thành mô hình "hệ thống mặt trời" của 
nguyên tử, với hạt nhân tích điện dương và được xoay quanh bởi các điện 
tử tích điện âm. Sau đó, Niels Bohr đã điều chỉnh mô hìnhcủa Rutherford 
bằng mô hình hành tinh của nguyên tử mà điều đó trong nhiều chiều hướng 
là cha đẻ của cơ học lượng tử.
Trong cuộc đàm thoại, Bohm cũng cho tôi 
một cái nhìn lướt qua về cuộc tranh luận lâu dài giữa Bohr và Einstein 
đối với việc diễn giải về vật lý lượng tử. Cốt yếu cuả cuộc bàn cãi xoay
quanh việc Einstein phủ nhận giá trị của nguyên lý bất định; trung tâm 
của tranh luận là vấn đề liệu thực tại ở cấp nền tảng có là không xác 
định, là không thể dự đoán, và là xác suất hay không. Einstein đã chống 
lại mạnh mẽ với khả năng này, như là sự phản ánh mệnh đề cảm thán nổi 
tiếng của ông: "Thượng Đế không chơi trò súc sắc!" Tất cả điều này gợi 
cho tôi nhớ về lịch sử Phật giáo truyền thống của tôi, trong đó tranh 
luận giữ vai trò trọng yếu trong sự hình thành và tinh lọc nhiều ý tưởng
triết học.
Không như các luận sư Phật giáo thời cổ,
các khoa học gia có thể nâng cao năng lực của đôi mắt nhìn một cách to 
tát thông qua các trang cụ khoa học như các kính thiên văn khổng lồ, thí
dụ như kính thiên văn Hubble[40], hay thông qua các kính hiển vi điện 
tử. Kết quả là một tri thức thực nghiệm về các đối tượng vất chất vượt 
xa ngay cả sự tưởng tượng trong thời cổ. Trong cái nhìn về khả năng này,
trong nhiều dịp, tôi đã nhấn mạnh cho việc nhập môn vật lý cơ sở vào 
các ngành học của các trường cao đẳng Phật giáo Tây Tạng. Tôi cho rằng 
chúng tôi, thật ra, sẽ không mở ra bộ môn mới mà đúng hơn chúng tôi sẽ 
cập nhật chương trình học vốn có. Tôi cảm thấy vui sướng là giờ đây các 
học viện cao đẳng Phật giáo đã tiến hành thường xuyên các hội thảo về 
vật lý hiện đại. Những hội thảo này được thực hiện bởi các giáo sư vật 
lý và một số sinh viên tốt nghiệp của họ tại các đại học Tây Phương. Tôi
hy vọng rằng sự khởi động này sẽ cuối cùng đạt kết quả nhập môn đầy đủ 
của vật lý hiện đại vào trong chương trình triết học bắt buộc trong các 
tự viện Tây Tạng.
Chú thích
1.Tadrak Rinpoche Ngawang Sungrab (wyl. 
stag brag rin po che ngag dbang gsung rab) (1875 - ??) là người thái sư 
của đức Dalai Lama. Ông làm nhiếp chánh tại Tây Tạng năm 1941, rời chức 
vụ năm 1950.
Kyabje Ling Rinpoche (1903-1983) là 
người thái sư thứ nhì cho đức Dalai Lama 14. Ngài là người giữ ngôi 
truyền thừa thứ 97 kể từ sơ tổ Tsongkhapa (Tông-khách-ba) của phái Gelug
(Cụ Duyên) Phật giáo Tây Tạng. “HH Ling Rinpoche's Biography”. Lama 
Yeshe Wisdom Archive. Truy cập  17/02/2009. 
(http://www.lamayeshe.com/otherteachers/ling/bio.shtml)
Chữ Rinpoche trong Tạng ngữ có nghĩa là 
"một người cao quý". Đây là một danh hiệu thường chỉ dành cho những 
lạt-ma (đại sư) tái sinh và những người được công nhận bởi một quyền 
chính chức trong một dòng truyền thừa Phật giáo TâyTạng.)
2.Kyabje Trjang Rinpoche (1900-1981) làm
một vị lạt-ma của dòng Gelug người từng giữ nhiều vai trò quan trọng 
trong trường phái Gelug và là người chịu trách nhiệm soạn thảo pháp môn 
tiệm tu Lamrim cổ điển "Giải Thoát trong Lòng Bàn Tay". “Trijang 
Rinpoche”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Trijang_Rinpoche)
3. Thái sư: là một chức vụ thầy giáo 
riêng của vua hay quốc trưởng. Đức Dalai Lama lúc bấy giờ được tấn phong
lãnh đạo nước Tây Tạng (ngài lên ngai năm 1940)
4. Nhiều sách dịch chữ "logic" theo lối 
phiên âm là lô-gíc. Ở đây nghĩa Việt hóa có thể dịch là luận lý, lập 
luận, (hay hợp lý nếu là tính từ). Bộ môn toán học nghiên cứu các lập 
luận hợp lý gọi là luận lý học hay lô-gíc học.
5. Chiết trung là một quan điểm nhằm pha trộn nhiều khía cạnh tích cực khác nhau của các triết lý.
6. Samkhya (sa. Sāṃkhya) Ra đời vào 
khoảng thế kỉ thứ 3 do công của triết gia Maharishi Kapila. Có tác giả 
dịch là phái số luận có chủ trương hữu thần và "tâm (Purusha ) vật 
(Prakriti ) nhị nguyên” tức là công nhận có một bản ngã độc lập với thế 
giới vật chất và chúng thường hằng; tuy nhiên, họ cũng chấp nhận ý tưởng
về luật nhân quả. “Samkhya”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Samkhya)
Xin nhắc thêm triết học cổ Ấn độ ngoài 
Phật giáo ra, còn có sáu nguồn triết lý chính là: Upanishad, Vedanta, 
Mimansa, Nyaya, Vaisesika và Samkhya. Xem thêm 
(http://doanket.multiply.com/journal/item/687) phần 5.3 Các triết thuyết
Vệ Đà chính thống.
7.Vaisheshika (sa. Vaiśeṣika) Có tác giả
dịch là phái Thắng Luận, xuất phát từ triết gia Kaṇāda vào thế kỉ thứ 6
trước công nguyên. Là một trong 6 trường phái triết học quan trọng cổ 
Ấn Độ ngoài Phật giáo. Phái này theo chủ trương nguyên tử cho rằng tất 
cả các vật thể trong vũ trụ vật lý đều có thể quy giảm về một số hữu hạn
các nguyên tử. Ngoài ra, theo phái này thì mọi vật tồn tại đều có thể 
nhận biệt được và là đối tượng của nhận thức. Tất cả các đối tượng của 
nhận thức đều có thể chia thành 6  lớp: dravya (thực chất), guṇa (phẩm 
chất), karma (hành vi), sāmānya (tính tổng quát), viśeṣa (tính đặc thù) 
“Vaisheshika”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Vaisheshika)
8.Geshe (Tib. dge shes, "virtuous 
friend"; cognate of Skt. kalyanamitra) là học vị của Phật giáo Tây Tạng 
dành cho các tăng sĩ. Học vị này được nhấn mạnh chủ yếu trong truyền 
thừa Gelug. Học vị này được nhiều tác giả Tây Phương cho là tương đương 
với học vị tiến sĩ. Chương trình đào tạo sẽ bao gồm 6 bộ môn chính trải 
rộng hầu hết các thuyết lý cơ bản của Phật học: Trí huệ Ba-la-mật 
(Prajraparamita), Trung Quán (Madhyamika), Nhân Minh Luận (Pramana), 
Giới Luật (Vinaya) và Vi Diệu Pháp luận (Abhidharma). Chương trình học 
có thể kéo dài nhiều trong thập niên. Sau khi hoàn tất thí sinh sẽ phải 
đợi đến kỳ khảo hạch geshe. Trong thời gian chờ đợi thí sinh sẽ có thể 
tiếp tục rèn luyện về khả năng biện luận Phật giáo. “Geshe”. Central 
Tibet Administrator. Truy cập 2009 
(http://www.tibet.com/buddhism/geshe.html) .
9.Tuệ giác: là trực giác đặc biệt thấu suốt. Trong Phật giáo thì tuệ có thể có được thông qua luyện tập thiền định đúng đắn.
10.Tính Không (sa. śūnya, tính từ, sa. 
śūnyatā, danh từ, bo. stong pa nyid) có nghĩa là thiếu vắng. Đây là khái
niệm tối quan trọng và rất trừu tượng trong Phật giáo. Tính Không đã 
được nhắc đến trong các kinh điển thời đạo Phật nguyên thủy cho rằng mọi
sự vật là tạm hợp trống rỗng vô thường và vô ngã. Sau này tính Không 
đuợc khai triển rộng trong các bộ kinh Bát Nhã của đại thừa và được 
Thánh giả Long Thọ và các đệ tử nhấn mạnh diễn giải chi tiết hơn làm nền
tảng cho giáo thuyết Trung  Quán. Tuỳ theo truyền thống tu học, cách 
hiểu về tính Không có thể sai biệt ít nhiều cũng như phương pháp để tu 
chứng và thể nghiệm tính Không này cũng rất khác nhau. Ở đây có thể hiểu
tính Không là đặc tính phổ quát mà mọi sự vật kể cả tâm thức hay vật 
chất đều thiếu vắng đi một bản chất (hay đặc tính) tự tồn, vĩnh cữu. Vạn
vật đều tồn tại một cách phụ thuộc vào nhân duyên và đều tồn tại chỉ do
danh định. Xin xem thêm định nghiã và giảng giải sâu hơn về tính Không 
trong quyển "Tứ Diệu Đế" của cùng tác giả.
11.Từ chữ "entirely self-contained": Có 
nghĩa là sự vật hay hiện tượng mà tất cả các tương tác và hoạt động của 
nó sẽ tự đóng khung bên trong chính bản thân nó và không chuyển bất kỳ 
thông tin nào ra ngoài, tự tồn tại mà không tương tác với bên ngoài. Do 
đó, ngược lại, tất cả các sư vật bên ngoài không thể nào tương tác hay 
trao đổi thông tin với hiện tượng hay sự như thế và do đó không thể phát
hiện được và cũng không thể bị/chịu các hiện tượng và vật thể này tác 
động ngược lại. (đọc thêm chi tiết bài giảng Anh và Tạng ngữ "Praise of 
Depended Origination" (Xưng Tụng Duyên Khởi) tại San Francisco Hoa Kỳ 
tháng 4 năm 2007 của đức Dalai Lama , tải về máy tại trang 
(http://www.dalailamabay2007.com/) ). Dalai Lama in the Bay area 2007. 
Truy cập 15/01/2010)
Một số điểm có thể liên hệ đến đề tài 
gần tương tự khi xem xét vấn đề nóng bỏng của vật lý thiên văn hiện đại 
là "liệu thông tin từ bên trong hố đen sẽ có thể phát hiện hay thoát ra 
để có thể thu được bằng các đo đạc vật lý hay không?"
12.Nhân (nguyên nhân) và quả (hậu quả) 
là hai phạm trù thành phần quan trọng trong thuyết duyên khởi Phật giáo,
một chủ thyết được xem là định luật bao trùm của toàn thể thế giới hiện
tượng và là nền tảng của triết lý Phật giáo. Một cách ngắn gọn thì 
thuyết này cho rằng mọi sự kiện và hiện tượng (hậu quả) khởi lên (hình 
thành) đều là do sự tổng hợp của các nguyên nhân và các điều kiện thích 
hợp (duyên) với hậu quả đó. Xem thêm "tứ Diệu Đế" của cùng tác giả và 
"Pháp Duyên Khởi". BuddhaSasana. Mahàsi Sayadaw. Thích Minh Huệ dịch. 
(http://buddhanet.net/budsas/uni/u-phapduyenkhoi/duyenkhoi-00.htm)
13.Thuật ngữ Tự tính được dịch từ các 
chữ có gốc inherent hay intrinsic -- tức là bản chất thực hay bẩm tính 
cốt lõi sẵn có từ bên trong.
14.Đây ý chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni: 
Siddhārtha Gautama (Sa, Siddhattha Gotama) còn gọi là Phật Cồ-đàm tức là
người đầu tiên giác ngộ và truyền bá tư tưởng Phật giáo cho nhân loại. 
Nhiều người cho rằng Ngài sinh ra vào 563 và mất 483 trước Tây lịch. 
“Gautama_Buddha”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Gautama_Buddha) .
15.Long Thụ (sa. nāgārjuna, bo. klu 
sgrub), dịch âm là Na-già-át-thụ-na, thế kỷ 1-2, là một trong những luận
sư vỹ đại nhất của lịch sử Phật giáo -sau đức Phật. Người ta xem sự 
xuất hiện của Sư là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ 
nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni, lần thứ ba là sự xuất hiện của giáo pháp 
Đát-đặc-la). Đại thừa Ấn Độ xếp Sư vào "Sáu Bảo Trang của Ấn Độ" – năm 
vị khác là Thánh Thiên (sa. āryadeva), Vô Trước (sa. asaṅga), Thế Thân 
(sa. vasubandhu), Trần-na (sa. diṅnāga, dignāga), Pháp Xứng (sa. 
dharmakīrti). Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), 
sống trong thế kỉ thứ 1–2. Ngài viết nhiều tác phẩm trong đó quan trọng 
nhất là Căn Bản Trung  Quán Luận và Bảo Hành Vương Chính Luận. Sư cũng 
được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. “Long thụ”. Wikipedia. 
17/02/2009 (http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%E1%BB%A5)
16.Madhyamaka (Madhyamaka, còn gọi là 
Śunyavada) là một truyền thống Đại thừa Phật giáo được hệ thống hoá bởi 
thánh giả Long thụ theo đó quan điểm về tính Không được nhấn mạnh. Được 
gọi là Trung Đạo vì nó tránh được chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa thường 
hằng về cả vật chất và tâm thức. “Madhyamaka“. Wikipedia. Truy cập 
17/02/2009 (http://en.wikipedia.org/wiki/Madhyamaka)
17.Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche (1942 
-) tại địa phận Tromtha vùng Kham Tây Tạng. Ngài được xem là vị lạt ma 
tái sinh của vị đại sư vỹ đại thuộc dòng truyền thừa Sakya và Nyingma. 
Ngài là người lãnh dạo tối cao của nhiều tự viện ở Tây Tạng kể từ năm` 
1985 và giảng dạy tại nhiều đại học Tây Tạng và Hoa Kỳ. “Tulku Nyima’s 
Biography”. Sakya Dokho Choling. Truy cập 14/01/2010. 
(http://www.sakyadokhocholing.org/Tulku_Nyima_s_Biography.html)
18.Nguyên lý bất định do nhà vật lý 
người Đức là Werner Heisenberg (1901-1976 -- Nobel vật lý 1932) đề xuất 
trong lúc nổ lực đặt nền móng toán học cho cơ học lượng tử tại học viện 
Niels Bohr Copenhagen (Đan Mạch) vào năm 1925. Ở đây nên hiểu trạng thái
chuyển động có nghĩa là momentum. Xem bài viết GS Trịnh Xuân Thuận 
"Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử". Vietsciences. Truy cập 
17/02/2009 
(http://vietsciences.free.fr/giaokhoa/vatly/thienvan/gstrinhxuanthuan/nguyenlybatdinhheisenberg.htm)
19.Chồng chập lượng tử hay còn gọi là 
chồng chất lượng tử, xếp lớp lượng tử (quantum superposition) là cách 
dùng lý thuyết xác suất thống kê trên trường số phức để mô tả mọi trạng 
thái có thể của hiện tượng vật lý và có thể hiểu một cách sơ lược như 
sau: nếu một thế giới có thể ở trong một cấu hình bất kỳ, ở trong một sự
sắp xếp khả dĩ của các hạt và các trường vật lý bất kỳ, và nếu thế giới
này cũng có thể ở trong một cấu hình khác thì thế giới đó có thể ở 
trong một trạng thái là tổ hợp tuyến tính của cả hai cấu hình trong đó 
thành lượng (hệ số) của mỗi cấu hình được xác định là một số phức. Thí 
dụ, một hạt vật lý có thể có hai vị trí A và B, thì nó có thể ở trong 
một trạng thái C có dạng tổ hợp C = αA + βB; trong đó, α và β là hai số 
phức bất kỳ. “Quantum_superposition”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Quantum_superposition)
20.Erwin Rudolf Josef Alexander 
Schrödinger (1887 – 1961 -- Nobel Vật lý 1933) là một nhà vật lý lượng 
tử người Áo, đóng góp đặc biệt của ông là phương trình mang tên ông mô 
tả trạng thái lượng tử về sự thay đổi của một hệ thống vật lý theo thời 
gian. Thí nghiệm suy tưởng về chú mèo mà ông mô tả còn được gọi là 
nghịch lý chú mèo Schrödinger. Tuy nhiên, điều nên lưu ý là các ý tưởng 
lượng tử hiện chỉ áp dụng cho thế giới vi mô ở mức lượng tử chứ không 
phải cho sinh giới hay vỹ mô. “Schrödinger's cat”. Wikipedia. Truy cập  
17/02/2009 (http://en.wikipedia.org/wiki/Schr%C3%B6dinger's_cat) .
21.Tên viết thông dụng là Raja Ramanna 
(1925 -), GS vật lý hạt nhân và nhạc sĩ dương cầm người Ấn. Ông được xem
là cha đẻ của vật lý hạt nhân Ấn. Ông cũng từng là bộ trưởng quốc phòng
cũng như là nghị viên quốc hội Ấn. “Raja Ramanna - India's Most Eminent
Nuclear Physicist”. Vigyan Prasar Science Portal. Subodh Mahanti. Truy 
cập 15/01/2010 (http://www.vigyanprasar.gov.in/scientists/RRamanna.htm)
22.Andrei Dmitrievich Sakharov 
(Russian:Андре́й Дми́триевич Са́харов) (1921 -1989 -- Nobel hoà bình 
1975) nhà vật lý hạt nhân xuất sắc người Nga và sau đó là nhà hoạt động 
cho nhân quyền, viện sĩ viện hàn lâm Sô Viết đã có đóng góp lớn trong 
việc chế tạo bom tổng hợp hạch nhân từ Hydrogen. “Andrei Sakharov”. 
Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Andrei_Dmitrievich_Sakharov)
23.Nicolaus Copernicus (1473 – 1543) là 
một nhà thiên văn học đã đầu tiên nêu ra ý tưởng của thuyết nhật tâm 
(Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách "De revolutionibus orbium 
coelestium" (Về sự chuyển động quay của các thiên thể ). Việc ra đời của
thuyết nhật tâm đã cho thấy các quan sát biểu kiến xuông không thể được
xem là chân lý và chính thuyết này đã đi ngược lại tin tưởng của truyền
thống tôn giáo lúc bấy giờ (thiên chúa giáo) cho rằng trái đất là trung
tâm của vũ trụ. “Nicolaus Copernicus”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Nicolaus_Copernicus)
24.James Clerk Maxwell (1831 - 18790 là 
nhà toán học và vật lý lý thuyết. Ông là người đã phát triểnn lý thuyết 
điện từ trường tổng hợp các quan sát thí nghiệm rời rạc về điện từ và 
ngay cả ánh sáng vào trong một lý thuyết trường điện từ. “James Clerk 
Maxwell” Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/James_Clerk_Maxwell)
25.Sắc hương vị xúc tương ứng lần lược là các cơ quan cảm thụ mắt, mũi, lưỡi, và thân thể.
26.huật ngữ chính xác hơn trong Phật 
giáo gọi là Uẩn: Có 5 uẩn (ngũ uẩn) cũng gọi là Ngũ ấm, là năm (pañca) 
nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ 
thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không thể tìm thấy cái gọi là "ta". Ngũ 
uẩn bao gồm:
- Sắc      (sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn), do Tứ
đại chủng      (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, 
nước, gió, lửa. Sắc      tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
- Thụ      (sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ      chịu, khó chịu hay trung tính.
- Tưởng      (sa. saṃjñā, pi. saññā), là nhận      biết các cảm giác 
như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức      đang hiện 
diện.
- Hành      (sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí 
sau      khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết 
tâm, tỉnh      giác...
- Thức      (sa. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm      sáu dạng ý thức 
liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi,      thân, ý.
 27. Tì-bà-sa Luận (Vaibhashika) là một 
trong những trường phái Phật giáo cổ nhất . Tôn chỉ chính của phái này 
cho rằng "một niệm” (mental concept -- ý tưởng) chỉ có thể được tạo 
thành bởi tương tác giữa tâm, thông qua các các cơ quan nhận thức gọi là
các uẩn (bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) và các đối tượng bên 
ngoài. “Vaibhashika”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Vaibhashika) .
28.Nyāya (sa. nyāya (ni-āyá)) nghĩa là 
"hồi quy", được dùng trong ý nghĩa "tam đoạn luận, suy diễn". Còn được 
phiên âm là phái Ni-dạ-da Đây một trong 6 trường phái triết học chính 
thời cổ Ấn, trường phái này đặc biệt về lập luận. Kinh điển chính của 
trường phái này dựa trên các bản kinh cùng tên được viết bởi triết gia 
Akṣapāda Gautama vào thế kỉ thứ 2 trước Tây lịch. “Nyaya”. Wikipedia. 
Truy cập  17/02/2009 (http://en.wikipedia.org/wiki/Nyaya) Xin nhắc thêm ở
đây, tam đọan luận là phương pháp lập luận cơ bản được sử dụng rộng rãi
trong cả Phật học lẫn khoa học, dạng đơn giản nhất của nó có thể được 
hiểu qua thí dụ: (1) Mọi phần tử của A đều có chất X, b là phần tử của 
A, kết luận b có tính chất X.
29.Mīmāṃsā còn được phiên âm là 
Di-mạn-sai, có nghiã là "truy cứu" là một trong 6 trường phái triết học 
cổ Ấn chủ yếu dùng phương pháp thẩm tra để tìm đến bản chất của Pháp dựa
trên chủ trương diễn dịch hay chú giải hệ thống Vệ-đà. Các tôn chỉ 
chính là việc cầu kinh, chống chủ trương khổ hạnh, và chủ trương thần 
bí. “Mimamsa”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Mimamsa) .
Aidvaidavadanta Trong Anh ngữ thường 
được viết tách ra là Advaita Vedanta là bộ phận của trường phái mang tên
Vedānta (có nghĩa là cứu cánh của Vệ Đà) Đây được xem là triết lý độc 
thần xác định cá nhân là một tiểu ngã và Phạm thiên tức là đại ngã các 
kinh điển chính là Upanishad, Bhagavad Gita và Brahma Sutra. Người đầu 
tiên hệ thống hóa rõ rệt các nguyên lý của phái Advaita Vedanta là Adi 
Shankara. “Advaita Vedanta”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Advaita_Vedanta) .
30.Dharmaśrī còn được dịch là Pháp Thắng
hay phiên âm thành Đạt-ma-thi-la , một đại sư Phật giáo Ấn một trong 
hai tác phẩm của ngài đã được dịch dang Hán ngữ là bộ 4 quyển là 
A-ti-đàm Tâm Luận còn bộ kia nguyên văn Anh ngữ là "Greate Treaties on 
Instantiation" được dịch thành Đại-tì-bà-sa luận (từ chữ 
Abhidharma-mahāvibhāṣā-śāstra). Bộ luận này theo nhiều nhà nghiên cứu 
thì nó được soạn ra tại Hội Nghị Kết Tập Phật giáo lần thứ tư ở Kashmir 
(Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%81n_Trang). Trong lịch 
sử Phật giáo còn có người cùng tên là ngài Lochen Dharmaśrī (1654-1717) 
tuy nhiên đây là một đại sư thuộc Phái Ninh Mã Tây Tạng, không phải là 
tác giả của bộ A-tì-đàm.
31.Thế Thân (sa. vasubandhu, bo. dbyig 
gnyen), ~316-396, cũng được dịch là Thiên Thân, gọi theo Hán âm là 
Bà-tu-bàn-đầu, Bà-tẩu-bàn-đậu, là một Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất 
thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) và Duy thức tông (sa. vijñānavādin), 
được xem là Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Người ta cho rằng Sư sinh 
tại Peshāwar (địa danh ngày nay), sống tại Kashmir và chết tại A-du-đà 
(ayodhyā). Sư vừa là em vừa là đệ tử của Vô Trước (sa. asaṅga), người 
sáng lập phái Duy thức. Vô Trước là người đã khuyến khích Thế Thân theo 
Đại thừa. “Thế Thân”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF_Th%C3%A2n) Về bản luận giải 
A-tì-đàm-câu-xá (sa. abhidharmakośa-śāstra), thường được gọi tắt là 
Câu-xá luận, nghĩa là "Báu vật của Vi Diệu Pháp", tên khác là Thông minh
luận, là bộ luận quan trọng nhất của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Thế
Thân (sa. vasubandhu) soạn vào thế kỉ thứ 5 sau Công nguyên tại 
Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 600 kệ Vi Diệu Pháp câu-xá
luận bản tụng (sa. abhidharmakośakārikā) và Vi Diệu Pháp câu-xá luận 
thích (sa. abhidharmakośa-bhāṣya), bình giải về những câu kệ đó. Ngày 
nay người ta còn giữ bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này, đó là
những tác phẩm đầy đủ nhất để trả lời các câu hỏi về kinh điển. Toàn 
văn bài luận này đã được Thích Tuệ Sĩ dịch Việt từ Phạn ngữ. “Câu Xá 
Luận”. Phật Việt”. Truy cập  17/02/2009 
(http://www.phatviet.com/dichtht/luan/ln01/cxl.htm) .
32.Dương điện tử và trung hoà tử lần lượt còn được gọi dưới các tên phiên âm là prô-tôn và nơ-tron từ chữ proton và neutron.
33.Theo Vật lý hạt sơ cấp thì Quark và 
lepton là hai loại hạt cơ bản Fermi, cả hai là cơ sở cấu tạo nên vật 
chất. Trong khi Quark có thể tương tác qua tương tác mạnh của vũ trụ thì
lepton không có đặc tính này. Có 6 loại quark và tổ hợp của các quark 
lập thành các thành phần hạt nhân của nguyên tử như proton và neutron. 
Có 6 loại lepton trong đó điện tử và các neutrino là những lepton trong 
sáu loại này. “Quark” và “Lepton”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Quark) và 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Lepton) .
34.Anton Zeilinger (1945 - ) nhà vật lý 
lượng tử người Áo hiện là trưởng phân khoa Quang học Lượng tử và Thông 
tin Lượng tử tại đạh học Vienna. Ông được xem là tiên phong trong ngành 
Thông tin Lượng tử. “Anton_Zeilinger”. Wikipedia. Truy cập  17/02/2009. 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Anton_Zeilinger) Đại học Innsbruck là đại 
học có cơ hở hạ tầng lớn nhất nước Áo và có chỉ số sinh viên theo học 
đông hàng thứ ba của nước này. Trường được thành lập từ năm 1669. 
“University of Innsbruck”. Wikipedia. Truy cập 14/01/2010. 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Innsbruck_University)
35.Tức là Hội nghị Tâm thức và Đời sống 
được tổ chứ vài năm một lần giữa các nhà khoa học quốc tế và Phật giáo 
mà đứng đầu là đức Dalai Lama. Lần đầu tiên tổ chức vào năm 1987. Hội 
nghị gần đây nhất (lần thứ 18) diễn ra vào tháng 10 năm 2008 tại Berlin.
Mind & Life Institue. Truy cập 14/01/2010. 
(http://www.mindandlife.org/index.html) .
36.Arthur Guy Zajonc (1949 - ) hiện là 
giáo sư trưởng khoa vật lý tại đại học Amherst Hoa kỳ. Arthur Zajonc. 
Truy cập 17/02/2009. (http://www.arthurzajonc.org/ )
37.Niels Henrik David Bohr (1885-1962 --
Nobel Vật lý 1922) là nhà vật lý Đan Mạch đã đóng góp cho nền tảng hiểu
biết về cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử. Ông được xem là một 
trong những nhà vật lý có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế ki 20. 
“Niels_Bohr”. Wikipedia. Truy Cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Niels_Bohr) Học viện Niels Bohr là một bộ 
phận của viện vật lý thiên văn và địa vật lý cùng tên. Niels Bohr đã làm
việc tại đây từ 1914. Nhân sinh nhật lần thứ 80 của Niels Bohr, trường 
được đổi sang tên ông (7 tháng 10 năm 1965). Trong suốt các thập niên 
1910 cho đến 1930, nơi đây đã là trung tâm nghiên cứu phát triển vất lý 
nguyên tử xuyên suốt châu Âu. “Niels Bohr Institute”. Wikipedia. Truy 
cập  14/01/2010. (http://en.wikipedia.org/wiki/Niels_Bohr_Institute)
38.Ernest Rutherford, 1st Baron 
Rutherford of Nelson (1871-1937 -- Nobel hóa học 1908) nhà vật lý người 
Tân-Tây-Lan được xem là cha đẻ của vật lý hạt nhân. Người đã thành công 
trong lý thuyết quỹ đạo của nguyên tử thông qua phát hiện của ông về thí
nghiệm bắn phá nguyên tử của một lá vàng mỏng. “Ernest Rutherford“. 
Wikipedia. Truy cập 14/01/2010 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Ernest_Rutherford)
39.Sir Joseph John “J.J.” Thomson, 
(1856-1940 -- Nobel Vật lý 1906) là nhà Vật lý Anh. có công trong việc 
phát hiện điện tử và nguyên tố đồng vị và la người phát minh của quang 
phổ khối lượng. “J.J._Thomson”. Wikipedia. Truy cập 14/01/2010 
(http://en.wikipedia.org/wiki/J.J._Thomson) .
40.Kính viễn vọng không gian này mang 
tên nhà thiên văn Edwin P. Hubble (1889-1953) đây là đài quan sát nằm 
ngoài không gian khổng lồ được xem là cuộc cách mạng do việc cung cấp 
được các ảnh rõ và sâu của vũ trụ, trong khoảng từ hệ Mặt trời cho đến 
các thiên hà xa xăm được hình thành không lâu sau vụ nổ lớn 13.7 tỉ năm 
trước. HubbleSite (http://hubblesite.org/) và “Hubble Fact”. NASA. 
(http://hubble.nasa.gov/) . Truy cập 14/01/2010
Chương 3: Tính Không, Thuyết Tương Đối và Vật lý Lượng tử (tiếp theo)
Mặc dù tôi đã nghe nói về lý thuyết 
tương đối hẹp của Einstein từ lâu, David Bohm lần đầu tiên giải thích 
lại kèm theo đó với một số ý tưởng triết học cho tôi. Vì không có căn 
bản toán học, nên việc giảng dạy cho tôi về vật lý hiện đại, đặc biệt là
các đề tài bí hiểm như thuyết tương đối, thực sự không dễ dàng. Khi 
nghĩ đến sự nhẫn nại của Bohm, giọng nói êm dịu, cử chỉ thanh lịch, và 
sự cẩn thận, để chắc chắn là tôi theo kịp được lời giảng của ông, tôi 
thiệt nhớ ông ta.
Như bất cứ người thường nào đã thử tìm 
hiểu về lý thuyết này đều biết rằng ngay cả một sự nắm bắt cơ bản về 
nguyên lý của Einstein đều cần có một mong ước vượt qua các ý tưởng 
thông thường. Einstein đưa ra hai định đề: vận tốc ánh sáng là không đổi
và nguyên lý tương đối của ông, cho rằng mọi định luật vật lý phải tác 
động chính xác như nhau cho tất cả người quan sát trong chuyển động 
tương đối. Với hai tiền đề này, Einstein đã cách mạng hóa sự hiểu biết 
khoa học về không và thời gian.
Lý thuyết tương đối của ông ấy cho ta 
một phương trình nổi tiếng về vật chất và năng lượng, E=mc2, phải thừa 
nhận là phương trình khoa học duy nhất mà tôi biết (ngày nay chúng ta có
thể thấy nó ngay cả trên các áo thun), và nó là nguồn của các thí 
nghiệm suy tưởng có tính thách đố và giải trí. Nhiều thí nghiệm trong 
đó, như là nghịch lý trẻ sinh đôi về lý thuyết tương đối hẹp, thời gian 
giản nở, hay sự thu nhỏ của các vật thể ở vận tốc cao, giờ đây đã được 
xác nhận một cách thực nghiệm. Nghịch lý trẻ sinh đôi, trong đó một 
người anh em bay đi trong một tàu không gian ở vận tốc gần ánh sáng đến 
một vì sao cho là cách xa 20 năm ánh sáng và sau đó trở về trái đất, ông
ta sẽ thấy rằng người anh em song sinh già hơn mình, đã gợi nhớ cho tôi
về câu chuyện về ngài Vô Trước[1] bằng cách nào đó đã đến được cõi trời
của đức Di Lặc[2], nơi đó ông nhận được 5 bản kinh, là một bộ kinh luận
Đại thừa quan trọng trong của ngài Di Lặc, tất cả xảy ra trong khuôn 
khổ của thời gian nghĩ uống trà. Nhưng khi ngài trở về trái đất thì 50 
năm đã trôi qua.
Việc đánh giá được toàn bộ bản chất của 
nghịch lý trẻ sinh đôi sẽ dính dáng đến hiểu biết về một số tính toán 
phức tạp mà tôi e rằng sẽ quá sức tôi[3]. Theo như tôi hiểu thì ý tưởng 
quan trọng nhất của lý thuyết tương đối của Einstein là quan điểm về 
không gian, thời gian, và khối lượng không thể được xem như là tuyệt 
đối, tự tồn tại trong chúng như là những thực thể hay những bản thể 
trường cửu, không đổi. Không gian thì không độc lập, 3 chiều, và thời 
gian thì không là một thực thể đứng riêng, đúng hơn chúng tồn tại cùng 
nhau như là một dòng tương liên 4 chiều của "không-thời gian". Một cách 
cô đọng, lý thuyết tương đối hẹp của Einstein bao hàm rằng trong khi vận
tốc ánh sáng không đổi, thì không có khuôn khổ tuyệt đối, ưu tiên của 
sự tham chiếu và mọi vật, kể cả không gian và thời gian là tương đối 
hoàn toàn. Đây là phát hiện thật đáng ghi nhớ.
Trong thế giới triết học Phật giáo thì 
quan điểm về thời gian tương đối thì không xa lạ. Trước đây ở thế kỉ thứ
hai trường phái Kinh Lượng Bộ[4] đã bài bác quan điểm về thời gian 
tuyệt đối. Trong việc phân chia tiến trình thời gian thành quá khứ, hiện
tại, và tương lai, Kinh Lượng bộ đã biểu thị sự phụ thuộc lẫn nhau của 
cả ba và luận rằng bất kỳ quan điểm nào về quá khứ, hiện tại, và tương 
lai [tam thời] thực sự độc lập đều không thể đứng vững. Họ chỉ ra rằng 
thời gian không thể được nhận thức như là một thực thể tự tính tồn tại 
độc lập với các hiện tượng thời gian mà phải được hiểu như là một tập 
hợp của các quan hệ giữa các hiện tượng thời gian. Ngoài các hiện tượng 
thời gian mà ta cấu trúc nên khái niệm về thời gian nói trên, không có 
thời gian thực mà bằng cách nào đó nó là một bình chứa vỹ đại như một sự
tuyệt đối tự tồn, mà trong đó các sự vật và hiện tượng xảy đến.
Những luận điểm về tính tương đối của 
thời gian này, sau đó được ngài Long Thụ phát triển, chủ yếu là trong 
triết học, nhưng sự thật còn lại là thời gian đã được nhận thức có tính 
tương đối trong truyền thống triết học Phật giáo gần hai ngàn năm. Mặc 
dù tôi đã được bảo rằng một số nhà khoa học xem không-thời gian bốn 
chiều của Einstein như là một bình chứa vỹ đại với tính năng tồn tại tự 
tính trong đó các hiện tượng xảy ra; đối với một người nghiên cứu Phật 
giáo quen thuộc với các luận điểm của Thánh giả Long Thụ thì biểu thức 
của Einstein về tính tương đối của thời gian, đặc biệt thông qua các thí
nghiệm suy tưởng nổi tiếng của ông trở nên vô cùng hữu ích trong việc 
đào sâu hiểu biết về bản chất tương đối của thời gian.
Sự nắm bắt của tôi về thuyết lượng tử, 
thành thật mà nói, thì chẳng có gì hay ho ... mặc dù tôi đã cố gắng rất 
nhiều! Tôi được nghe về một trong những lý thuyết gia lượng tử vỹ đại 
nhất, Richard Feynman[5] đã viết "Tôi nghĩ tôi có thể nói một cách an 
toàn rằng không ai hiểu nổi vật lý lượng tử", như vậy thì ít nhất tôi 
cảm thấy mình đồng hội đồng thuyền. Nhưng ngay cả với một người nào đó 
như tôi đây không thể theo dõi các chi tiết toán học phức tạp của lý 
thuyết này – thực ra, toán học là một lãnh vực của khoa học hiện đại mà 
dường như tôi không có duyên nghiệp với nó chút nào – thì hiển nhiên là 
ta không thể nói về các hạt sơ cấp như là các thực thể xác định được, 
độc lập, hay tương quan loại trừ nhau. Các cấu trúc cơ sở của vật chất 
và các photon (đó là các vật liệu cơ bản lần lượt của vật chất và của 
ánh sáng) có thể hoặc có tính hạt hay tính sóng hay có cả hai [lưỡng 
tính sóng-hạt]. (Sự thật là người đoạt giải Nobel vì đã chỉ ra điện tử 
có tính sóng George Thomson[6], là con của một người cũng đã nhận giải 
thưởng này do công chứng tỏ rằng điện tử có tính hạt, tức là J.J. 
Thomson). Cho dù người ta nhận thức các điện tử cách nào sóng hay hạt 
thì tôi được nghe rằng thì điều đó phụ thuộc vào hành vi của người quan 
sát và các lựa chọn dụng cụ thí nghiệm và đo đạc.
Mặc dù đã từ lâu tôi nghe về bản chất 
mâu thuẫn của ánh sáng, chỉ đến năm 1997 khi mà nhà vật lý thực nghiệm 
Anton Zeilinger giải thích cho tôi với các minh họa chi tiết – tôi đã 
cảm thấy cuối cùng thì cũng nắm bắt được vấn đề. Anton chỉ ra cách mà 
thí nghiệm tự nó xác minh được khi nào một điện tử hành xử như là một 
hạt hay một sóng. Trong thí nghiệm khe hở đôi nổi tiếng, chùm điện tử 
được bắn từng đợt qua một tấm chắn có hai khe hở (song song) và được ghi
ảnh lên vật liệu như là bề mặt ảnh chụp ở phiá sau của tấm chắn. Nếu 
chỉ có một khe hở được mở ra, mỗi điện tử sẽ ghi lại dấu vết trên bề mặt
ảnh chụp theo kiểu cách của một hạt. Mặc dù vậy, nếu cả hai khe hở được
mở ra, khi lượng lớn điện tử được bắn ra thì dấu vết trên bề mặt ảnh 
chụp cho thấy rằng chúng đã đi qua cả hai khe hở cùng lúc, để lại một 
dạng tựa như sóng.
Anton đã đem đến dụng cụ có thể lập lại 
thí nghiệm này trên một kích cở nhỏ, và tất cả mọi người tham gia đã 
thật vui vẻ. Anton thích coi trọng các khía cạnh thực nghiệm của cơ học 
lượng tử, toàn bộ hiểu biết của ông ta có nền tảng trên những điều mà ta
có thể học trực tiếp từ các thí nghiệm. Điều này khác nhiều với cách 
tiếp cận của David Bohm, người chủ yếu hứng thú trong lý thuyết và ý 
nghĩa triết học của cơ học lượng tử. Sau này tôi biết thêm là Anton đã 
và giữ vững lập trường cổ vũ cho điều được gọi là diễn dịch 
Copenhagen[7] về cơ học lượng tử, trong khi David Bohm lại là người phê 
phán nó mãnh liệt nhất.
Phải thừa nhận là tôi cũng không biết 
chắc toàn bộ các ý nghiã triết học và nhận thức về nghịch lý lưỡng tính 
sóng-hạt có thể là gì. Tôi không gặp trở ngại trong việc chấp nhận ý 
nghĩa triết học cơ bản mà ở mức nhỏ hơn nguyên tử thì chính ý niệm về 
thực tại không thể tách rời khỏi các hệ thống đo đạc được dùng bởi người
quan sát, và do đó, không thể nói rằng hoàn toàn khách quan. Dầu sao, 
thì nghịch lý này cũng dường như nói lên rằng – ngoại trừ người ta đính 
kèm theo một loại khả năng thu thập thông tin nào đó từ các điện tử – 
thì ở mức thấp hơn nguyên tử, hai nguyên lý quan trọng nhất của lô-gíc, 
là luật mâu thuẫn và luật loại trừ trạng thái trung gian, dường như bị 
vi phạm[8]. Trong một thí nghiệm thông thường, chúng ta sẽ đoán rằng đã ở
dạng sóng thì không thể nào là hạt, nhưng ở mức độ lượng tử, ánh sáng 
thể hiện mâu thuẫn với điều này vì nó hành xử như là cả hai dạng. Tương 
tự trong thí nghiệm khe hở đôi, có sự thể hiện như một số photon đã đi 
qua cả hai khe hở đồng thời, do đó vi phạm luật loại trừ trạng thái 
trung gian, mà được dự đoán là chúng chỉ đi qua hoặc một trong hai khe 
hở mà thôi.
Ảnh Minh Họa cho thấy bản chất sóng của ánh sáng qua thí nghiệm khe hở đôi.
Đối với ý nghĩa nhận thức của các kết 
quả của thí nghiệm khe hở đôi, tôi nghĩ rằng vẫn còn có điều đáng bàn 
thảo ở đây, nguyên lý bất định nổi tiếng của Heisenberg phát biểu rằng 
sự đo đạc vị trí của một nguyên tử càng chính xác bao nhiêu thì càng 
không thể biết rõ được trạng thái moment chuyển động của nó, và ngược 
lại, càng đo đạc chính xác trạng thái moment của nó thì càng không thể 
tìm rõ được vị trí của nó. Một lần nữa điều này cho thấy người quan sát 
có vai trò nền tảng: khi chọn nghiên cứu moment chuyển động của điện tử,
thì ta bị loại trừ khỏi việc tìm hiểu vị trí của nó; và khi chọn nghiên
cứu vị trí thì lại bị loại trừ việc tìm hiểu moment chuyển động của nó.
Vậy người quan sát là một thành phần tham gia một cách hiệu quả trong 
thực thể đang được quan sát. Tôi nhận ra rằng vấn đề vai trò của người 
quan sát là một trong những câu hỏi gai góc nhất của cơ học lượng tử. 
Quả vậy, tại hội nghị Mind and Life trong năm 1997, nhiều thành viên 
khoa học có những quan điểm mang sắc thái khác nhau. Một số cho rằng vai
trò của người quan sát giới hạn trong việc lựa chọn các thiết bị đo 
đạc, trong khi số khác chấp nhận tầm quan trọng to tát của người quan 
sát như là mộ thành tố cấu trúc trong thực thể được quan sát.
Vấn đề này từ lâu đã được chú ý bàn thảo
trong hệ tư tuởng Phật giáo. Một thái cực là những nhà "duy vật"[9] 
Phật giáo là những người tin rằng thế giới vật chất được hợp thành bởi 
các hạt tử bất khả phân mà chúng có một thực tại khách quan độc lập với 
tâm thức. Thái cực khác là những nhà "duy tâm", được gọi là trường phái 
Duy Thức[10], họ bác bỏ bất kỳ mức độ nào của thực tại khách quan trong 
thế giới bên ngoài. Trong phân tích cuối cùng, họ nhận thức thế giới vật
chất bên ngoài là một sự mở rộng của tâm thức quán tưởng. Tuy nhiên, có
một quan điểm thứ ba, là lập trường của trường phái Trung Quán Cụ 
Duyên[11], được kính trọng nhất bởi truyền thống Tây Tạng. Theo quan 
điểm này, thì mặc dù thực tại của thế giới bên ngoài thì không bị bác 
bỏ, nó phải được hiểu với tính tương đối. Nó còn tùy thuộc vào ngôn ngữ 
của chúng ta, vào tập quán xã hội, và các nhận thức được chia sẽ chung. Ý
niệm về thực tại độc lập với người quan sát thì không thể đứng vững. 
Như trong vật lý hiện nay, vật chất không thể được nhận thức hay được mô
tả tách rời khỏi người quan sát – vật chất và tâm thức là hai thành 
phần phụ thuộc nhau.
Sự thừa nhận bản chất phụ thuộc một cách
nền tảng của thực tại trong Phật giáo được gọi là "duyên khởi" – là tâm
điểm của hiểu biết Phật giáo về thế giới và về bản chất sự tồn tại của 
con người chúng ta. Một cách tinh yếu, nguyên lý duyên khởi có thể hiểu 
được theo ba cách sau đây. Thứ nhất, tất cả các sự vật và hiện tượng 
duyên sinh [pháp hữu vi] đều chỉ được hình thành như là kết quả sự tượng
tác của các nguyên nhân [nhân] và các điều kiện [duyên] chúng không tự 
hình thành, hay được tạo ra hoàn bị. Thứ nhì, có một sự phụ thuộc tương 
hỗ giữa các thành phần và toàn thể; thiếu các thành phần thì không thể 
có toàn thể, không có toàn thể thì nói về các thành phần là điều vô 
nghĩa. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần và toàn thể này áp dụng
trong cả khuôn khổ về không gian và thời gian. Vật bất kỳ chỉ tồn tại 
và là một tập hợp của các đặc trưng[12] bên trong mạng lưới tổng thể của
mọi vật mà chúng có một mối quan hệ tiềm năng hay khả dĩ với vật đó. 
Không có hiện tượng nào tồn tại với tập hợp đặc thù độc lập hay tự tính 
của mình.
Và thế giới thì được tạo thành bởi mạng 
lưới phức tạp của các mối quan hệ lẫn nhau. Ta không thể nói về một thực
tại của một thực thể cách biệt bên ngoài nội dung của chuỗi các mối 
quan hệ lẫn nhau của nó với môi trường và các hiện tượng khác, kể cả 
ngôn ngữ, các khái niệm, và các tập quán khác. Do đó, không thể có các 
chủ thể mà không có các đối tượng mà bởi đó chúng được định nghĩa; không
thể có các đối tượng mà không có các chủ thể để nhận thức chúng; không 
thể có những người làm mà không có các sự vật được làm [tức các đối 
tượng của việc làm]. Không thể có các chiếc ghế mà không có các chân, 
chỗ để ngồi, lưng ghế, gỗ, các đinh ốc, nền mà trên đó nó đặt lên, các 
bức tường để xác định gian phòng mà nó nằm bên trong, những người chế 
tạo ra nó, và những cá nhân nào đã đồng ý để gọi tên nó là ghế và công 
nhận nó là vật để ngồi lên. Theo nguyên lý này thì các sự vật và hiện 
tượng không chỉ hoàn toàn tương thuộc mà mỗi một đặc trưng của chúng đều
phụ thuộc một cách xuyên suốt vào những sự vật và hiện tượng khác.
Trong vật lý, bản chất phụ thuộc sâu xa 
của thực tại đã được nhấn mạnh sắc bén bởi nghịch lý được gọi là EPR - 
là tên gợi ý bởi những người tạo ra nó, Albert Einstein, Boris Podolsky,
và Nathan Rosen[13] – nguyên, nó được tạo thành để thử thách cơ học 
lượng tử. Giả sử một cặp hạt sơ cấp được tạo thành và sau đó bị tách 
rời, chuyển động ra xa theo hai hướng ngược nhau – cho là đến những vị 
trí cách nhau rất xa, chẳn hạn Dharamsala, nơi tôi sống và New York. Một
trong những thuộc tính của cặp hạt này là spin[14] [sự quay] của chúng 
phải ngược nhau – tức là nếu một hạt đo được chiều hướng "lên" thì hạt 
kia sẽ có chiều "xuống". Theo cơ học lượng tử thì mối tương quan của sự 
đo lường (chẳng hạn khi một hạt spin lên thì hạt kia spin xuống) phải 
tồn tại ngay cả khi các thuộc tính của từng hạt chưa được xác định cho 
đến khi những người làm thí nghiệm tiến hành đo kiểm một trong các hạt, 
thí dụ như hạt tại New York. Tại thời điểm đó một người ở New York sẽ 
thu được một giá trị – giả sử là lên – trong trường hợp này thì hạt kia 
phải đồng thời trở thành xuống. Những sự xác định của lên và xuống là 
tức thì, ngay cả đối với hạt ở Dharamsala, chưa hề được đo kiểm. Bất 
chấp sự phân cách giữa chúng, hai hạt này trình hiện như là một thực thể
quấn quít nhau. Theo cơ học lượng tử, dường như có một sự nối kết lẫn 
nhau sâu sắc và đáng ngạc nhiên trong trọng tâm của môn vất lý này.
Tại một buổi diễn thuyết công cộng ở 
Đức, tôi đã gây được sự chú ý lớn trong giới khoa học gia nghiêm túc khi
nói đến tuệ giác về thế giới của các truyền thống thiền định. Tôi đã 
nói về nền tảng gặp gỡ giữa truyền thống Phật giáo của chính tôi và khoa
học hiện đại – đặc biệt là trong các luận điểm của Phật giáo về tính 
tương đối của thời gian và bác bỏ chủ trương thực tính[15]. Sau đó tôi 
nhận thấy von Weizsäcker trong các thính giả, và khi nói đến món nợ tôi 
mang đối với ông ta bởi một ít hiểu biết về vật lý lượng tử thì 
Weizsäcker lịch sự rào đón rằng nếu vị thầy của ông ấy là Werner 
Heisenberg có mặt ở đó, thì ông ấy sẽ rất hứng khởi khi được nghe về sự 
song song cộng hưởng giữa triết học Phật giáo và sự thấu suốt khoa học 
của ông ấy.
Một loạt các vấn đề quan trọng khác 
trong cơ học lượng tử quan tâm đến câu hỏi về sự đo kiểm. Tóm lại, tôi 
thấy thật ra toàn bộ lãnh vực nghiên cứu đều dành cho điều này. Nhiều 
khoa học gia cho rằng hành vi đo kiểm gây ra sự "sụp đổ" của một trong 
hai tính năng sóng hay hạt của hạt sơ cấp , tùy thuộc vào hệ thống đo 
kiểm được sử dụng trong thí nghiệm; chỉ có sự đo kiểm này có tiềm năng 
làm điều đó xảy ra. Nhưng ta sống trong thế giới của các đối tượng 
thường ngày. Vậy nên câu hỏi là: Làm thế nào từ quan điểm của vật lý, 
chúng ta dung hợp được giữa một bên là các ý niệm thông thường về thế 
giới thường ngày của các đối tượng và các đặc tính của chúng, với phía 
bên kia là thế giới kỳ lạ của cơ học lượng tử? Có thể nào cả hai tầm 
nhìn này dung hợp được với nhau? Phải chăng ta bị tuyên án là không 
thích nghi để sống với điều dường như là một quan điểm phân liệt về thế 
giới?
Trong hai ngày tu học về các vấn đề nhận
thức luận có liên quan đến nền tảng của cơ học lượng tử và triết học 
Trung đạo Phật giáo tại Innsbruck, nơi mà tôi, Anton Zeilinger và Arthur
Zajone gặp gỡ để đối thoại, thì Anton đã nói với tôi về một đồng nghiệp
nổi tiếng của ông ta đã có lần nhận xét rằng hầu hết các nhà vật lý 
lượng tử liên hệ đến lãnh vực của họ trong một kiểu cách phân liệt. Khi ở
trong phòng thí nghiệm, họ và đùa nghịch với các đồ vật, họ là những 
người duy vật. Họ nói về các photon và các điện tử dịch chuyển đây đó. 
Mặc dù vậy, ở thời điểm mà bạn chuyển sang bàn thảo về triết học và hỏi 
họ về nền tảng cơ học lượng tử, thì hầu hết họ sẽ nói rằng không có gì 
thực sự tồn tại nếu không có thiết bị để định nghĩa chúng.
Một số nghi vấn tương tự đã xuất hiện 
trong triết học Phật giáo liên hệ đến sự phân cực giữa quan điểm thông 
thường của chúng ta về thế giới và tầm nhìn được gợi lên bởi triết lý 
của ngài Long Thụ về tính Không. Thánh giả Long Thụ viện dẫn quan điểm 
về hai chân lý [nhị đế] bao hàm tục đế [thông thường] và chân đế [tối 
hậu], tương ứng với kinh nghiệm về thế giới thường ngày, và sự vật và 
hiện tượng trong dạng thức tối hậu, tức là ở mức độ của tính Không. 
Trong mức độ thông thường, ta có thể nói về một thế giới đa nguyên của 
sự vật và hiện tượng với các đặc trưng riêng biệt và tiến trình nguyên 
nhân. Đây là giới mà ta có thể trông đợi luật nhân quả, và các luật về 
lô-gic – như là các nguyên lý xác định, mâu thuẫn, và luật loại trừ 
trung gian – tác động mà không có sự vi phạm. Thế giới kinh nghiệm thực 
nghiệm thì không phải là một ảo tưởng, cũng không phải không thật. Nó là
thật mà trong đó ta thể nghiệm. Một hạt lúa có sản sinh thành cây lúa, 
mà nó cuối cùng hình thành lúa chín hạt. Sử dụng độc tố có thể gây tử 
vong, và tương tự dùng thuốc có thể chữa được bệnh. Mặc dù vậy, trong 
tầm nhìn của chân đế, sự vật và hiện tượng không chiếm hữu các thực tại 
độc lập riêng biệt. Thể trạng tối hậu của chúng là "thiếu vắng" trong đó
không có gì chiếm hữu bất kỳ một bản chất thực tính hay tự tính.
Tôi có thể hình dung điều tương tự với 
nguyên lý nhị đế này khi áp dụng vào của vật lý. Chẳng hạn, ta có thể 
nói rằng mô hình Newton là một áp dụng cho thế giới thông thường như là 
chúng ta biết về nó, trong khi thuyết tương đối Einstein – cơ bản dựa 
trên những giả định khác về gốc rể – điển hình cho việc cộng thêm vào mô
hình xuất sắc của một phạm vi nội hàm khác biệt hay lớn hơn. Mô hình 
Einstein mô tả các khía cạnh của thực tại trong trường hợp mà các trạng 
thái chuyển động tương đối là thiết yếu nhưng không thực sự ảnh hưởng 
đến hình ảnh thông thường của chúng ta trong hầu hết các tình huống. 
Tương tự, các mô hình vật lý lượng tử về thực tại thể hiện các hoạt động
trong một nội hàm khác – hầu như "suy diễn" thực tại của các hạt sơ 
cấp, đặc biệt trong thế giới vi mô. Mỗi một trong các mô hình trên đều 
vượt trội trong lãnh vực của mình và trong các mục tiêu mà nó được thiết
kế, nhưng nếu chúng ta tin vào một mô hình bất kỳ nào trong chúng là 
được cấu trúc bởi các sự vật thực sự tự tính thì chúng ta lọt vào tầm 
mức của sự thất vọng.
Tôi thấy rằng thật hữu ích khi quán 
chiếu lên một sự phân biệt quan trọng được miêu tả bởi ngài Nguyệt 
Xứng[16] (thế kỉ thứ 7) trong mối quan hệ giữa các nội hàm của luận đàm 
về tục đế và chân đế của sự vật. Nguyệt Xứng luận rằng, khi hệ thống hóa
hiểu biết về thực tại, người ta phải nhạy cảm với nội dung và các tham 
biến của một phương thức truy cứu đặc thù. Chẳng hạn, ngài cho rằng sự 
bác bỏ các đặc trưng, nhân quả, và nguồn gốc riêng biệt trong thế giới 
thường ngày, như một số luận giả về triết học tính Không đã nêu lên, sẽ 
thiết lập nên một sai lầm có tính phương pháp.
Trên mức độ thông thường, ta luôn nhìn 
thấy nguyên nhân và hậu quả. Khi cố tìm xem ai có lỗi trong một tai nạn,
thì ta lại không đào sâu nghiên cứu vào bản chất cửa thực tại, nơi mà 
dòng tương tục vô tận của các sự kiện khiến cho tai nạn đó không thể nào
có chỗ để quy lỗi. Khi ta chấp thuận những đặc tính như thế như là các 
nhân và quả trong thế giới thực nghiệm, ta đã không làm việc trên cơ sở 
của một phân tích siêu hình điều tra đến tận trạng thái bản thể tối hậu 
của các sự vật và các tính chất của chúng. Ta chỉ làm nội trong giới hạn
của tập quán, ngôn ngữ, và lập luận thường ngày. Ngược lại, Nguyệt Xứng
luận rằng các định đề siêu hình của các trường phái triết học, như là 
khái niệm về Thượng Đế hay kinh hồn vĩnh cửu có thể bị bác bỏ thông qua 
phân tích về trạng thái bản thể tối hậu của chúng. Điều này có được là 
vì những thực thể này được đặt trên cơ sở của một sự tìm hiểu vào cơ chế
tối hậu về sự có mặt của sự vật.
Một cách tinh yếu, Long Thụ và Nguyệt 
Xứng đề xuất rằng: Khi liên hệ đến thế giới thực nghiệm của kinh nghiệm,
chừng nào chúng ta vẫn không khoác lên các sự vật tính tồn tại tự tính 
độc lập, thì các quan điểm về nhân quả, đặc trưng, và phân biệt cũng như
là các nguyên lý của lô-gíc sẽ vẫn còn đứng vững. Dẫu sao thì hiệu lực 
của chúng bị giới hạn trong một khuôn khổ tương đối của tục đế[17]. Việc
tìm kiếm đến các ý niệm nền tảng như là đặc trưng, sự tồn tại, và nhân 
quả trong một sự tồn tại độc lập khách quan thì sẽ vượt quá biên giới 
của lô-gíc, ngôn ngữ, và thường tục. Ta không nhất thiết phải mặc nhiên 
chấp nhận sự tồn tại độc lập khách quan của sự vật, bởi vì chúng ta có 
thể nhận thức được thực tại không xác định riêng lẽ, thiết thực của các 
sự vật và hiện tượng – thực tại đó không chỉ xác lập các chức năng 
thường ngày mà ngay cả cung cấp một cơ sở vững chắc cho các hành vi tinh
thần và đạo đức. Thế giới theo triết học tính Không, được cấu hình bởi 
một mạng lưới của những thực tại có nguồn gốc phụ thuộc và liên hệ lẫn 
nhau, trong đó, nguồn gốc phụ thuộc tạo nên sự hình thành các hậu quả có
nguồn gốc phụ thuộc tương ứng theo luật duyên khởi về nhân quả. Những 
gì ta làm và suy nghĩ trong các kiếp sống, sau đó, trở nên cực kỳ quan 
trọng khi nó ảnh hưởng đến mọi thứ mà ta kết nối tới.
Bản chất nghịch lý của thực tại biểu lộ 
trong cả triết học Phật giáo về tính Không và vật lý hiện đại điển hình 
cho một thách thức đối với các giới hạn hiểu biết của con người. Cốt lõi
của vấn đề là ở tri thức luận: Làm thế nào ta định danh hoá và hiểu 
biết thực tại một cách mạch lạc? Các luận sư Phật giáo về tính Không 
không những đã phát triển một hiểu biết toàn vẹn về thế giới dựa trên 
việc loại bỏ sự cuốn hút tận thâm căn xem thực tại như là sự kết thành 
của các thực thể khách quan chân thật một cách tự tính, mà họ cũng phấn 
đấu để nuôi sống các tuệ giác này trong đời sống thường nhật của mình. 
Giải pháp Phật giáo cho điều có vẻ như là mâu thuẫn về tri thức luận này
bao gồm việc hiểu biết thực tại trong các nội dung về thuyết lý của Nhị
Đế. Khoa vật lý cần phát triển một ngành tri thức học nhằm giúp giải 
quyết hố sâu ngăn cách có vẻ như không thể bắt được nhịp cầu nối giữa 
bản vẽ của thực tại trong thế giới vật lý cổ điển và kinh nghiệm thường 
ngày với bản vẽ đối chiếu của họ trong vật lý lượng tử. Điều áp dụng của
nhị đế trong vật lý ra sao, thì tôi thật không có ý kiến. Ở tận gốc rễ,
vấn đề triết học mà vật lý đang đối đầu do sự đánh thức của vật lý 
lượng tử chính là quan điểm về thực tại – được định nghĩa trong nội dung
của các cấu trúc thực một cách cốt lõi – liệu [quan điểm đó] có đứng 
vững được hay không? Điều mà triết học Phật giáo về tính Không có thể 
dâng hiến là một mô hình chặt chẽ của việc hiểu biết về thực tại, đó là 
đặc tính phi bản thể. Điều này có thể chứng tỏ lợi ích hay không thì chỉ
có thời gian mới trả lời được.
Chú thích
1. Vô Trước (sa. asaṅga, nghĩa là "không
bị ô nhiễm, vướng mắc"), cũng được dịch âm là A-tăng-già, khoảng thế kỷ
4, là một Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông
(sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của Long Thụ (sa. nāgārjuna) 
về tính Không và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của Thuyết 
nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được Bồ Tát 
Di-lặc trực tiếp giáo hoá. “Vô Trước”. Wikipedia. Truy cập 14/01/2010 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4_Tr%C6%B0%E1%BB%9Bc) .
2. Di-lặc (sa. maitreya, pi. metteyya là
cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), "người có lòng từ", cũng có 
tên khác là Vô Năng Thắng (sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là
một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái Đất. 
Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi 
giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Theo kinh 
điển, Bồ Tát Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000 năm nữa. 
“Maitreya”. Wikipedia. Truy cập  14/01/2010 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Maitreya) .
3. Xem thêm chi tiết tính toán: (http://en.wikipedia.org/wiki/Twins_paradox) .
4. Kinh lượng bộ (sa. sautrāntika), là 
một nhánh của Tiểu thừa xuất phát từ Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. 
sarvāstivādin) khoảng 150 năm trước Công nguyên. Như tên gọi cho thấy 
(sautrāntika xuất phát từ sūtrānta, có nghĩa là Kinh phần, chỉ Kinh tạng
của Tam tạng), bộ này chỉ đặt nền tảng trên Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka)
và phản bác Luận tạng (sa. abhidharmapiṭaka) cũng như quan điểm “Nhất 
thiết hữu” (tất cả đều hiện hữu, đều có) của Thuyết nhất thiết hữu bộ. 
“Sautrantika”.Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Sautrantika) .
5. Richard Phillips Feynman (1918 - 1988
-- Nobel vật lý 1965) là nhà Vật lý Hoa Kỳ, giáo sư đại học Caltech. 
Ông được biết đến bởi công thức tích phân đường của cơ học lượng tử, lý 
thuyết về điện động học lượng tử, vật lý siêu lỏng của helium lỏng siêu 
lạnh, và vật lý hạt. Ông cũng đã đưa ra mô hình toán học mô tả ứng xử 
của các hạt cấp nhỏ hơn nguyên tử được mang tên "giản đồ Feynman". 
“Richard Feynman”. Wikipedia. Truy cập 17/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Richard_Feynman) .
6. Sir George Paget Thomson (1892 - 1975
-- Nobel Vật lý 1937) nhà vật lý người Anh có công phát hiện (cùng với 
Clinton Davission) các đặc tính sóng của điện tử . “George Paget 
Thonmpson”. Nobelprize.org. Truy cập  15/01/2010 
(http://nobelprize.org/nobel_prizes/physics/laureates/1937/thomson-bio.html)
.
7. Diễn dịch Copenhagen (Copenhagen 
interpretation) là một cách giải thích cơ học lượng tử trong đó ý tưởng 
chính cho rằng trạng thái của mỗi hạt sơ cấp được mô tả bởi một phương 
trình sóng được dùng để tính xác suất tìm thấy hạt đó tại một địa 
phương. Một cách hệ quả thì hành vi đo đạc khiến cho tập hợp các tính 
toán về sác xuất bị "sụp đổ" vào trong giá trị được định nghĩa bởi phép 
đo đạc. Tính năng biểu thị toán học này đưọc gọi là hàm sóng sụp đổ. 
“Copenhagen_interpretation”. Wikipedia. Truy cập  15/01/2010 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Copenhagen_interpretation) .
8. Đây là hai tiền đề quan trong nhất 
của lô-gíc toán học. Luật [loại trừ] mâu thuẫn cho rằng một mệnh đề chỉ 
có thể có đúng một giá chân lý. Trong khi luật loại trừ trạng thái trung
gian cho rằng ngoài hai trạng thái đúng và sai thì không có mệnh đề não
có giá trị nằm giữa hai mức này hay có cả hai giá trị.
9. Có lẽ đức Dalai Lama ám chỉ những người ủng hộ chủ trương của phái Tì-bà-sa.
10. Duy thức (sa. vijñāptimātratā), đồng
nghĩa với danh từ Duy tâm (sa. cittamātra, cittamātratā), nghĩa là "chỉ
có thức", các pháp đều từ Thức mà sinh ra, không có gì nằm ngoài thức. 
Giáo lí này chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do tâm, và vì vậy, 
không một hiện tượng nào tồn tại ngoài tâm. Duy thức là một tư tưởng chủ
đạo của Duy thức tông. Các học giả Duy thức giải thích quy luật và sự 
liên kết của các giác quan nhờ vào tàng thức hay A-lại-da thức (sa. 
ālaya-vijñāna), Mạt-na thức và từ tập hợp của sáu giác quan trước (tiền 
ngũ thức). “Duy Thức”. Wikipedia. Truy cập 14/02/2009 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Duy_th%E1%BB%A9c) .
11. Trung  Quán Cụ Duyên (sa. 
Prasaṅgika) là các quan điểm chủ yếu theo các luận giải của ngài Nguyệt 
Xứng và cũng như của ngài Phật Hộ về các pháp giảng của thánh giả Long 
Thụ. Ngài Long thụ sử dụng các hệ quả lập luận để bác bỏ các quan điểm 
sai lầm chủ yếu là phương pháp Quy mậu biện chứng (tức là mượn chính lập
luận của đối phương dẫn đến các hậu quả mâu thuẫn) nhằm xác lập chẩn đế
bên trong vòng hiểu biết của học thuyết nhị đế. “Prasangika”. 
Wikipedia. Truy cập 14/02/2009. 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Prasangika) .
12. Chữ nguyên văn là "identity" ở đây 
có tức là một bộ các đặc tính và ứng xử hay hành vi mà qua đó một sự vật
có thể được nhận biết.
13. Xem thêm chi tiết 
(http://en.wikipedia.org/wiki/EPR_paradox) . Boris Podolsky (1896 - 
1966) (Борис Подольский) là nhà vật lý Nga gốc Do Thái. 
“Boris_Podolsky”. Wikipedia. Truy cập 14/02/2009. 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Boris_Podolsky ) . Nathan Rosen 
(1909-1995) là nhà vật lý Do Thái. Năm 1935 ông là người phụ giảng của 
Albert Einstein tại Institute for Advanced Study (Học viện Nghiên cứu 
Cao cấp) thành phố Princeton bang New-Jersey cho đến 1945. Ông là đồng 
tác giả với Einstein và Boris Podolsky về nghịch lý EPR trong vật lý 
lượng tử về mối quan hệ giữa các giá trị vật lý quan sát được của các 
đại lượng vật lý và các giá trị mà có thể được tính đến bởi một lý 
thuyết vật lý. Ông là nhà sáng lập Học viện Vật lý ở Technion, Hailfa Do
Thái. Ông cũng là Hiệu trưởng Đại Học Ben-Gurion tại Negrev trong thập 
niên 1970. “Nathan_Rosen”. Wikipedia. Truy cập  14/02/2009 
(http://en.wikipedia.org/wiki/Nathan_Rosen) . Nghịch lý EPR là tên viết 
tắt của 3 người tìm ra nó có nội dung nói về quan hệ giữa các giá trị 
quan sát của các đại lượng vật lý và các giá trị mà có thể tính được cho
bởi một lý thuyết vật lý:
1. Kết qủa của sự đo đạc tiến hành trên 
một bộ phận A của một hệ thống lượng tử sẽ có một hiệu ứng "phi địa 
phương" lên thực tại vật lý một bộ phận cách xa B khác, trong ý nghĩa cơ
học lượng tử về việc khả dĩ dự đoán những kết qủa logic của các đo đạc 
nào đó từ B; hay là ...
2. Cơ học lượng tử thì không hoàn thiện 
trong ý nghĩa rằng một phần tử vật lý thực tại nào đó tương ứng với B sẽ
không thể tính được bởi cơ học lượng tử (nghĩa là, cần có thêm những 
biến số nào khác để tính toán nó).
14. Trong cơ học lượng tử, spin là thuộc
tính nền tảng của hạt nhân nguyên tử, của các hạt hadron, và các hạt cơ
bản (tức là đặc tính quay). Đối với các hạt có spin khác không, thì 
chiều quay là một độ tự do bản chất. “Spin (physics)”. Wikipeida. Truy 
cập 14/02/2009. (http://en.wikipedia.org/wiki/Spin_(physics)) .
15. Trong triết học thì chủ trương thực 
tính là quan điểm cho rằng với mọi loại thực thể đặc thù, tồn tại một 
tập hợp các đặc trưng hay thuộc tính mà với thực thể bất kỳ của loại đó 
phải có đủ. Quan điểm này trái ngược với quan điểm phi thực tính cho 
rằng với một loại thực thể bất kỳ cho trước thì không tồn tại dấu vết 
nào để các thực thể thuộc loại đó phải có. “Essentialism”. Wikipedia. 
Truy cập 14/02/2009. (http://en.wikipedia.org/wiki/Essentialism) .
16. Nguyệt Xứng (sa. candrakīrti, bo. 
zla ba grags pa), (thế kỉ k. 6/7), được xem là luận sư quan trọng nhất 
trong tông Trung quán sau Long Thụ. Sư quê ở Nam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ
tuổi. Nhân lúc đọc trứ tác của Long Thụ, sư bỗng liễu ngộ. Sau, sư trở 
thành viện trưởng của Nalanda và viết nhiều bài luận chú giải về các tác
phẩm của Long Thụ. Các tác phẩm quan trọng của Sư là Minh cú luận, còn 
nguyên bản Phạn ngữ), Nhập trung quán luận . “Nguyệt Xứng”. Wikipedia. 
Truy cập 14/02/2009. 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%87t_X%E1%BB%A9ng) .
17. Theo Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, 
một trong những bản kinh rất quan trọng của Đại thừa Trung Quán Tông thì
ở mức tối hậu các khái niệm như sắc tướng, cảm xúc, tư duy, hành động, ý
thức, …thậm chí đến Tứ Diệu Đế và không có cả sự chứng đắc đều không 
thể xác lập. Xem thêm “Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh”. Wikipedia. Truy 
cập 15/01/2009 
(http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1t-nh%C3%A3-ba-la-m%E1%BA%ADt-%C4%91a_t%C3%A2m_kinh)