Quan
niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The holographic view of the
universe) là một quan niệm mới trong khoa học hiện đại, bắt nguồn từ sự
khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký vài thập niên trước đây. Kỹ thuật
chụp hình toàn ký này đã giúp cho một số khoa học gia giải quyết được
một số khúc mắc trong những công cuộc khảo cứu của họ về ký ức của con
người cũng như trong ngành vật lý các hạt nhỏ (particle physics). Các
khoa học gia này, từ những kết quả khảo cứu mới nhất, đã đưa ra những
bằng chứng và đề nghị rằng thế giới của chúng ta ngày nay và mọi thứ
trong đó chẳng qua chỉ là những hình ảnh không thực, là những dự phóng
của một thực thể vượt ra ngoài thực thể của con người và vượt ra ngoài
không gian và thời gian.
Hai khoa học gia được biết đến nhiều nhất trong quan niệm mới này là
nhà vật-lý học David Bohm, rất nổi tiếng trong ngành vật lý nguyên lượng
(quantum mechanics), thuộc đại học Luân Đôn, Anh quốc, và Karl Pribam,
một nhà thần-kinh sinh-lý-học (neurophysiologist) thuộc đại học
Stanford, California. Điều đặc biệt là Bohm và Pribam, tuy khảo cứu về
hai ngành hoàn toàn khác biệt, cùng phải dựa vào quan niệm toàn ký để
giải thích những kết quả khảo cứu của mình. Bohm khảo sát về sự tương
tác của các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic
physics), và Pribam khảo sát về ký ức của con người trong ngành
thần-kinh sinh-lý học. Không đi vào chi tiết, hai khoa học gia trên đều
nhận thấy rằng các lý thuyết cũ trong khoa học không đủ để giải thích
mọi vấn đề trong các ngành khảo cứu của họ, và khuôn mẫu toàn ký
(holographic paradigm) đã giúp họ giải thích một cách hợp lý các kết quả
khoa học của họ.
Nghiên
cứu kỹ vấn đề, chúng ta có thể nói ngay rằng khuôn mẫu toàn ký chẳng
qua chỉ là sự thuyết giải khoa học của một phần nhỏ những quan niệm đặc
thù trong Phật Giáo đã có từ nhiều thế kỷ trước như tương duyên, tương
túc, tương nhập, tương liên, một là tất cả v...v... Nhưng trước hết,
chúng ta hãy tìm hiểu đại cương thế nào là khuôn mẫu toàn ký.
Toàn
ký (holography) là một kỹ thuật tạo hình ảnh bằng một loại ánh sáng đặc
biệt thường được biết tới tên quen thuộc là ánh sáng LASER và hiện
tượng giao thoa (interference) quen thuộc của các sóng. LASER là những
chữ đầu của "Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation",
có nghĩa là "ánh sáng khuếch đại do phát xạ kích thích của bức xạ", hay
gọn hơn: "ánh sáng khuếch đại do bức xạ kích thích".
Một
phim ảnh toàn ký được tạo ra khi một tia sáng LASER đơn sắc được tách
ra làm hai tia riêng biệt. Tia thứ nhất được chiếu trên vật muốn chụp
hình, thí dụ một bức tượng Phật, dội lại và hợp với tia thứ hai tạo
thành một mô thức giao thoa và được ghi trên một tấm phim ảnh.
Dùng
mắt thường mà nhìn thì hình giao thoa trên tấm phim không có gì là
giống bức tượng Phật cả, mà chỉ là một số mô hình gồm những vòng đồng
tâm tương tự như những vòng sóng lăn tăn trên mặt nước khi ta ném một
nắm sỏi xuống nước. Nhưng khi ta chiếu qua tấm phim này bằng một tia
LASER khác, hoặc đôi khi chỉ cần một ngọn đèn thật sáng, một cái hình
nổi của bức tượng Phật sẽ hiện ra. Hình này trông y như thật, ta có thể
đi vòng xung quanh hình tượng Phật này và thấy đó là một bức tượng thật,
bất kể nhìn dưới góc cạnh nào. Nhưng nếu ta muốn nắm bắt hình tượng
Phật này thì ta sẽ không thành công bởi vì khi ta đưa tay vào chỗ hình
tượng Phật này thì sẽ không thấy gì, vì thật ra đó chỉ là một ảo ảnh.
Ngày xưa Phật đã chẳng nói, Phật thì vô hình vô tướng, làm sao mà nắm
bắt được, và Tâm Kinh đã chẳng dạy là "Sắc chẳng khác không, không chẳng
khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc" hay sao?
Nhưng
điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu ta cắt tấm phim ảnh ra làm
hai, rồi chiếu lên mỗi nửa tấm phim này bằng một tia LASER, ta sẽ thấy
mỗi nửa tấm phim sẽ lại tạo ra hình ảnh của toàn phần tượng Phật. Cứ
tiếp tục chia cắt như vậy, mỗi mảnh nhỏ của tấm phim vẫn tạo ra nguyên
hình của toàn thể bức tượng tuy càng ngày càng mờ nếu mảnh phim càng
ngày càng nhỏ hơn. Nói tóm lại, kỹ thuật toàn ký đã khám phá lại một
phần của một quan niệm rất quen thuộc trong Phật Giáo: một là tất cả. Để
cho sự so sánh được rõ ràng hơn, có lẽ chúng ta nên đi thêm vào vài chi
tiết trong công cuộc khảo cứu của Pribam và Bohm.
Pribam khám phá ra rằng, ký ức của con người được phân bố đều trong bộ
óc và mỗi phần của bộ óc chứa trọn vẹn những thông tin mà bộ óc ghi
nhận. Nếu ta cắt bỏ một phần các vùng ký ức, có khi là một phần khá lớn,
ở trong óc một người thì ký ức của người đó không bao giờ mất đi một
phần, và nếu người đó nhớ một cái gì đó thì bao giờ cũng nhớ trọn vẹn
chứ không bao giờ chỉ nhớ một phần, thí dụ như chỉ nhớ 1 phần những
người trong gia đình, hay một phần của một khuôn mặt quen thuộc, hay một
phần của một câu chuyện mà người đó đã được kể cho nghe.
Khảo
sát về sự tương tác giữa các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử,
Bohm đưa ra nhận định như sau: Thuyết tương đối, quan trọng hơn nữa, cơ
học nguyên lượng (quantum mechanics) đề nghị rằng, người ta không thể
phân tích thế giới thành những phần riêng biệt và độc lập. Hơn nữa, mỗi
phần có vẻ như bằng cách nào đó liên hệ tới mọi phần khác: chứa đụng lẫn
nhau hoặc bao hàm nhau.
Chúng
ta thấy rằng kỹ thuật toàn ký đã tạo ra một căn bản giải thích những
kết quả khảo cứu của Pribam và Bohm. Và Pribam đã đặt một câu hỏi: Nếu
các hình ảnh của thực tại ghi trong óc của chúng ta không phải là một
hình ảnh như chúng ta thường thấy mà là một toàn ký đồ (hologram), vậy
thì toàn ký đồ là cái gì?
Vấn
đề khúc mắc là ở chỗ nếu ta chụp hình toàn ký một cảnh, thí dụ một đám
người ngồi quanh một cái bàn, và khi rửa phim ra ta thấy không phải là
một đám người mà lại là những hình giao thoa, vậy thì thực tại là cái
gì? Là những hình ảnh thông thường chúng ta thấy ở ngoài đời ghi nhận
bởi quan sát viên/nhiếp ảnh viên hay là những hình mờ ảo giao thoa ghi
bởi máy chụp hình/óc con ngườỉ? Pribam ý thức được rằng cái mẫu về "óc
toàn ký" với những các kết luận hợp lý của nó đã dẫn đến một vấn nạn về
thế giới của thực tại khách quan; thế giới của sông, núi, cây cỏ có thể
là không hiện hữu, ít ra là không hiện hữu như chúng ta thường tưởng là
hiện hữu. Phải chăng quan niệm về ảo tưởng (maya) của những huyền nhiệm
gia cách đây nhiều thế kỷ là đúng, và những cảnh xum la vạn tượng chẳng
qua chỉ là vùng rộng lớn các tần số (vast frequency domain) biến đổi
thành những sự vật SAU KHI nhập vào các giác quan của con người. Nhưng
lãnh vực khảo cứu của Pribam chỉ về ký ức con ngưòi, và khi biết được
những kết quả khảo cứu của Bohm, không những Pribam tìm ra được giải đáp
cho những thắc mắc trên mà còn biết được rằng, theo Bohm, toàn thể vũ
trụ chỉ là một toàn ký đồ (hologram).
Nói
một cách vắn tắt thì quan niệm về vũ trụ của Bohm như sau: thực tại mà
chúng ta thấy hàng ngày thực ra chỉ là một loại ảo tưởng, giống như một
hình ảnh toàn ký. Đằng sau cái thực tại này là một sự xếp đặt sâu sắc
hơn của sự hiện hữu mà ta có thể coi như là bản chất rộng lớn của một
thực tại từ đó sinh ra mọi sự vật tạo thành thế giới vật chất của chúng
ta, giống như một mảnh phim toàn ký tạo ra một toàn-ký-đồ. Bohm gọi cái
thực tại sâu sắc này là cấp ẩn (implicate order) hay sự xếp đặt ẩn và
những thứ chúng ta thấy thường ngày thuộc cấp hiện (explicate order) hay
sự xếp đặt hiện của mọi vật. Nói một cách tóm tắt dễ hiểu thì mọi vật
đều sinh ra từ một căn bản chung, và căn bản chung này khi nhập vào giác
quan của con người thì sinh ra mọi sai biệt mà chúng ta thường thấy ở
ngoài đời.
Nhưng có ai ngờ rằng, những quan niệm về vũ trụ dựa trên khuôn mẫu toàn
ký trên đã là những quan niệm đặc thù của Phật Giáo từ bao thế kỷ trước
đây. Thật vậy, quan niệm về Chân Không Diệu Hữu, hay quan niệm về Chân
Đế và Tục Đế của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận, và quan niệm về
Tâm Chân Như và Tâm Sai Biệt của Bồ Tát Mã Minh trong Đại Thừa Khởi Tín
Luận không khác gì quan niệm toàn ký của Bohm ở trên, nếu không muốn nói
là còn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Và, nếu chúng ta quen thuộc với kinh
điển Phật Giáo, nhất là kinh Hoa Nghiêm, thì chúng ta sẽ thấy rằng khuôn
mẫu toàn ký và những quan niệm của Pribam và Bohm thực sự đã chậm mất
25 thế kỷ. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy đọc phớt qua chút ít
về Kinh Hoa Nghiêm.
Trước hết, chúng ta hãy đọc vài lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm ở
đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích Trí Tịnh dịch:
"Kinh
Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua trong các Kinh, với nội dung
siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện Pháp thân, tư
tưởng và tâm nguyện của Phật.
...Tư
tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của
vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình sắc sắc,
trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế
châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm là một, vạn vật đồng nhất
thể....Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấu rõ cội nguồn
của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các
pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng
dưới nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm
khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải.
Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của tâm nhiếp
thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả."
Vài
lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy của Kinh Hoa Nghiêm. Thật
vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm Nhập Pháp Giới, lời của nữ
nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài đồng
tử:
"Này
Thiện Nam Tử!..Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm
thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm,
hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo
tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các
thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.
Lại
mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thường thấy vô biên phật hải,
những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng
không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."
Với
lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm và lời trích dẫn trong kinh Hoa
Nghiêm chúng ta thấy rằng quan niệm toàn ký của các khoa học gia đã dựa
vào các tư tưởng của Phật Giáo rất nhiều. Nhưng xét cho kỹ thì quan niệm
toàn ký trong khoa học chỉ có tác dụng giải thích một số khúc mắc trong
khoa học một cách đại cương trong khi quan niệm về tương thông, tương
túc, hay dung thông vô ngại bao trùm mọi pháp giới. Nếu chúng ta đọc
đoạn cuối của Kinh Hoa Nghiêm , khi Thiện Tài đồng tử vào trong lâu các
Tỳ Lô Giá Na và rồi sau đó gặp Phổ Hiền Bồ Tát thì chúng ta sẽ thấy quan
niệm về một vi trần chứa đủ thiên sai vạn biệt trong vũ trụ đã được
trình bày với đầy đủ chi tiết và kèm vào đó những công hạnh của Bồ Tát.
Và đây chính là điểm vi diệu của Kinh Phật vì ngoài việc dùng để giải
thích những sự việc ngoài đời như khoa học , điểm chính yếu là cái dụng
của Kinh Phật như sẽ được tóm tắt sau đây.
Chúng ta biết rằng kinh căn bản trong Hoa Nghiêm Tông là Kinh Hoa
Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ giáo lý Phật Giáo một cách hòa
hợp, đa dạng; đó là một kinh được coi là cao nhất trong mọi kinh Phật ở Á
Châu. Kinh trình bày một môn siêu hình học vô cùng tiến bộ và là một
tập hợp phát triển tư tưởng một cách kỹ lưỡng, tinh tế để dẫn con người
tới toàn giác.
Nhưng
muốn nhận định đúng giá trị của Kinh Hoa Nghiêm chúng ta phải xét đến
cái mặt dụng của Kinh này. Vì chúng ta đã biết, trong Phật Giáo, Kinh
Phật thật là vô ích nếu chúng ta chỉ để ý tới phần lý thuyết mà không áp
dụng chúng vào đời sống thường ngày. Các thiền sư thường ví những người
tìm hiểu kinh mà không thực hành như là những người "đọc thực đơn mà
không ăn" hay là "đếm tiền của thiên hạ trong ngân hàng".
Nói
một cách ngắn gọn, Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta một tập hợp những
phương thức tu tập - một lối nhìn sự vật trên mọi góc cạnh, từ đó khám
phá ra sự hòa hợp và bổ túc lẫn nhau tiềm ẩn sau những khác biệt và mâu
thuẫn biểu kiến của mọi sự vật ở trên đời. Giá trị của sự tu tập này là
sự phát triển một quan điểm tròn đầy, lành mạnh, giúp ta khám phá ra sự
thống nhất của mọi Pháp nhưng không phủ nhận sự khác biệt của các Pháp.
Từ quan điểm này, con người vượt qua được những ngăn ngại tâm linh do sự
chấp vào các sai biệt của vạn vật mà sinh ra. Từ đó, với sự phát triển
bồ đề tâm, cái quan điểm viên dung này vận hành bất tuyệt trên cách hành
xử của các bồ tát trong công cuộc tự giác, giác tha. Một khi hội nhập
được vào ý tưởng dung thông vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm, với căn bản là
bồ đề tâm, hành giả sẽ không còn bị ngăn ngại bởi bất cứ cái gì về cách
hành xử trong Bồ Tát Đạo.
Bài trên đây chỉ có mục đích chứng tỏ rằng các tư tưởng trong Phật Giáo
đã đi trước và sâu sắc hơn các quan niệm của khoa học hiện đại nhiều,
hiển nhiên tôi không thể đi vào chi tiết của khoa học cũng như Kinh điển
Phật Giáo trong một bài báo. Bạn đọc nào muốn hiểu thêm về bồ đề tâm
hay những quan niệm như tương duyên, tương túc, dung thông vô ngại trong
Phật Giáo xin hãy chăm đi lễ Chùa và thụ huấn quý Thày. Tôi bảo đảm là
các bạn sẽ không cảm thấy lãng phí thì giờ trong việc tìm hiểu kinh Phật
vì Kinh Phật là một kho tàng vô giá và vô tận để phát triển trí tuệ con
người.