Tìm hiểu
suy nghĩ về những lời căn bản Phật dạy, ta thấy đặc tính duy lý, và tinh
thần khách quan của khoa học. Hãy nghe lời đức Phật giảng cho chư tăng ở
vùng Vesali, trên chặng cuối cuộc đời hành đạo của Ngài từ Beluva tới
Mehavali :"Này các đệ tử ! Pháp mà ta nghiệm thấy đã nói cho các người
rồi. Các ngươi hãy suy tưởng, hành Pháp và truyền giảng ra rộng rãi vì
lòng thương thế giới, cho điều lành và hạnh phúc của thần và người"
Khoa học và tôn giáo
Có
rất ít người có được sự hiểu biết sâu sắc về khoa học. Phần đông, họ
chỉ tin vào những gì họ nghe nói hoặc họ học được . Vì vậy khoa học ngày
nay từ từ cũng trở thành gần như tôn giáo, chỉ có tin hay không tin mà
thôi. Khi mà khoa học có thể
giải đáp rốt ráo được những câu hỏi của con người thì lúc đó khoa học sẽ
được hoàn hảo. Có những tôn giáo sẽ bị đào thải. Ngược lại, tôn giáo
nào mà dẫn đến chân lý, sẽ đứng vào vị trí thống nhất với khoa học. Lúc
đó, khoa học và tôn giáo sẽ đạt đến một điểm chung, điểm cuối cùng nơi
mà tôn giáo trở nên khoa học và khoa học trở thành tôn giáo, sự chia rẻ
đôi bên sẽ vĩnh viễn bị mất đi . Chúng ta đến trái đất chỉ trong một
thời hạn. Những hoàn cảnh đang đe dọa chung quanh không cho chúng ta trể
nãi. Những vấn đề trong cuộc sống cần được giải đáp cấp tốc hoặc cần có
một thuốc chữa-- bây giờ, ngay cuộc sống hiện tại.
Cho
dù khoa học có cách giải quyết một số vấn đề của chúng ta, khoa học
cũng bị trở ngại là " ít quá, trễ quá." Khi nói "ít quá", tôi muốn nói
đến sự hiểu biết của khoa học về những vấn đề cơ bản trong cuộc sống con
người. Khoa học không thể làm cho con người tốt hơn, không làm cho con
người vui vẻ, không thể chỉ cho con người làm sao để sửa đổi những thói
quen xấu, không trị được đau khổ, buồn bã, giận hờn, thất vọng, v...v...
Khoa học không thể giải quyết được những vấn đề xã hội.
Về
mặt y học, khoa học đã phát minh một số thuốc giúp ích cho một số bệnh
nhân mất ngủ, hay bị bệnh tâm thần... Một số người bệnh tâm thần nặng
được bớt bệnh. Và những khoa học gia tin rằng trong tương lai họ có thể
phát minh ra được viên thuốc làm cho con người hạnh phúc. Khi mà bạn
đang buồn, uống vào viên thuốc tức khắc nỗi khổ tan biến liền...Nhưng
lúc nầy không còn là y học nữa, mà biến thành chủ nghĩa khoái lạc. Khoa
học đã chứng minh được rằng trong óc của con người, khi vui hay buồn đều
tiết ra những chất hóa học, nếu khoa học có thể chế ra những chất nầy
thì khi buồn hay thất vọng chỉ cần uống viên thuốc sẽ yêu đời ngay.
Những viên thuốc 'hạnh phúc' sẽ được bán như thực phẩm, lúc ấy sẽ không
còn ai buồn khổ hay thất vọng, chỉ có yêu đời và hạnh phúc thôi. Tôn
giáo thì muốn đưa con người đến chỗ tự do. Con người có thể hạnh phúc
mà không cần những điều kiện từ bên ngoài đưa đến. Nhưng sự dùng thuốc
để được hạnh phúc sẽ bắt con người nương dựa vào những điều kiện bên
ngoài để được hạnh phúc, làm cho con người mất dần khả năng tự chủ.
Khoa
học không khác các tôn giáo cổ xưa là bao, khi bắt con người dựa vào
những phát minh của khoa học để mưu cầu hạnh phúc. Ngày xưa cũng thế, vì
sợ thánh thần, thượng đế trừng phạt, con người đã cầu xin, van lạy,
cúng tế và đặt mạng sống họ vào tay đấng thiêng liêng. Trong hai trường
hợp, hạnh phúc và khổ đau của con người nằm trong tay các đấng thiêng
liêng hoặc những điều kiện từ bên ngoài; và như vậy khoa học và tôn giáo
cổ xưa đã hủy hoại tính độc lập của con người.
Khoa
học tự nó không có khả năng giải quyết những vấn đề của con người. Theo
từ ngữ Phật giáo, khoa học và kỹ thuật không khuyến khích con người có
những hạnh kiểm tốt (sila), không khuyến khích con người thanh lọc tư
tưởng (samadhi). Khoa học tìm kiếm gom góp những tài liệu nhưng không
chỉ cho chúng ta cách sống thế nào để hạnh phúc (panna).
Điều
thứ hai là "trễ quá." Sự thật của khoa học không hoàn toàn, nên không
thể cho chúng ta những câu trả lời thích đáng, và cũng chưa có dấu hiệu
gì cho thấy là khoa học có thể trả lời những câu hỏi trên.
Sự
hiểu biết về khoa học thì thay đổi không ngừng. Lúc thì như thế nầy lúc
thì như thế kia. Nếu chúng ta phải ngồi chờ khoa học cho câu trả lời
thích đáng thì có lẻ chúng ta sẽ chết trước khi biết được phải sống như
thế nào cho xứng đáng với cuộc sống của mình.
Khoa
học luôn tìm một nguyên tắc chung nhưng họ chỉ tìm được một phần nhỏ
của nguyên tắc đó, như tìm được những mảnh vụn của một tấm hình lớn.
Trong khi chờ đợi khoa học giải thích về sự thật, chúng ta dùng những
tiện nghi kỹ thuật đang có để nâng cao đời sống của chúng ta và cũng để
chìu theo những dục vọng của chính mình. Như
vậy, thật ra không phải khoa học, mà là kỹ thuật đã cho chúng ta những
kết quả cụ thể. Để trả lời cho sự thật ( hoặc không phải sự thật) của
thế giới thiên nhiên, con người phải dựa vào tôn giáo. Dùng khoa học chỉ
để có những tiện nghi vật chất. Đây là trường hợp của ngày nay. Tôn
giáo vẫn tồn tại trên trái đất vì con người vẫn còn chờ đợi một câu trả
lời đầy đủ và hoàn toàn; câu trả lời đúng với trường hợp và có thể thực
tập được liền. Vì những câu trả lời không được kiểm chứng và vì khoa
học không thể chứng minh được, cho nên phần đông con người tự tìm lấy
niềm tin của mình.
Tính duy lý của Phật Giáo
Tìm
hiểu suy nghĩ về những lời căn bản Phật dạy, ta thấy đặc tính duy lý,
và tinh thần khách quan của khoa học. Hãy nghe lời đức Phật giảng cho
chư tăng ở vùng Vesali, trên chặng cuối cuộc đời hành đạo của Ngài từ
Beluva tới Mehavali :"Này các đệ tử ! Pháp mà ta nghiệm thấy đã nói cho
các người rồi. Các ngươi hãy suy tưởng, hành Pháp và truyền giảng ra
rộng rãi vì lòng thương thế giới, cho điều lành và hạnh phúc của thần và
người" Trong lời dạy trên, Phât không đòi hỏi lòng tin tuyệt đối nơi Pháp, Ngài chỉ kêu gọi các tăng già "suy tưởng", "hành pháp" và "truyền giảng".
Suy tưởng để thấy là đúng, hành Pháp để có thể kiểm nghiệm, và truyền
giảng là vì lẽ từ bi. Đức Phật đã truyền đạo như một nhà khoa học, đưa
ra chân lý khoa học để cho người suy nghĩ, kiểm chứng và phổ biến.
Đức
Phật cũng không đòi hỏi phải tin tưởng tuyệt đối ở Ngài, mà được quyền
nghi vấn. Hãy nghe lời Phật dạy ông A-nan-đà và chư tăng lúc Ngài gần
viên tịch :"Này A-nan-đà! Có thể có người trong các người nghĩ rằng :
Không còn lời thầy dạy nữa. Chúng ta không còn thấy nữa. Nhưng, này
A-nan-đà, ngươi không được nghĩ thế. Pháp và Giới (Dhamma-vinaya) mà ta
đã đặt định ra và giảng giải cho các ngươi, sẽ là thầy của các ngươi,
sau khi ta viên tịch. Có thể có những tăng, mà trong đầu có nghi ngờ về
Phật, về Pháp (Doctrine-Dhamma), về Đạo (Path-Magga), hay về phương cách
tu tập (Method-patipadà). Này các tăng chúng, hãy tự nhiên mà hỏi đi.
Đừng để sau này tự trách mình rằng : Lúc Thầy chúng ta còn mặt đối mặt
với chúng ta, chúng ta đã không hỏi bậc Đại giác cho tường tận". Sách chép rằng đức Phật đã nhắc lại những câu này ba lần cho các chư tăng.
Ba nguyên lý: Công nhận, nhìn ra, thấu hiểu
Không
những nhắc nhở tự mỗi người suy nghiệm, không những khuyến khích mọi
người đặt câu hỏi với mình, đức Phật còn tách sự tôn kính mình ra khỏi
quá trình suy nghĩ mỗi người để cho kết luận được khách quan. Sau khi
giảng pháp cho Kalamas, Ngài đã hỏi chư tăng rằng "Sau khi các ngươi
đã thấu hiểu và ghi giữ điều ta giảng thì các ngươi có tự nhủ rằng
'Chúng ta tôn vinh Thầy chúng ta và vì kính trọng người, chúng ta kính
trọng những lời người dạy' hay không ?" Chư tăng đáp : "Bạch thế tôn, không". Đức Phật liền nói "Này các đệ tử ! Điều các ngươi vừa nói phải chăng là vì chính các ngươi đã công nhận, nhìn ra và thấu hiểu đó chăng?". Chúng tăng trả lời "Bạch thế tôn, chính phải".
Hiểu
rõ tâm lý con người, Ngài tách bạch rất rõ Phật và Pháp, để cho chân lý
Ngài tìm ra (tức là Pháp), và con người Ngài chỉ (tức là Đạo) thực sự
phục vụ được chúng sinh, đức Phật đã nói với ông A-nan-đà khi nằm chờ
giờ viên tịch trong rừng Sala giữa hai cây Sala như sau : "Người mà làm
tròn nghĩa vụ lớn cũng như nghĩa vụ nhỏ, người mà ngay chính trong cuộc
đời tuân theo pháp giới, thì chính là người vinh danh, tôn kính và thờ
phụng bậc Đại Giác, Đại Toàn bằng cách xứng đáng nhất. Bởi thế, hỡi
A-nan-đà, hãy kiên định thi hành những nghĩa vụ lớn và nhữngg nghĩa vụ
nhỏ, hãy ngay chính trong đời, tuân theo pháp giới. Này A-nan-đà, đấy là
cách ngươi phải tự tu tập". Đặt vấn đề, suy nghĩ và chiêm nghiệmn khách quan, chính là đặc thù của khoa học. Ngày
nay, ta không lạ gì tinh thần khoa học này. Nhưng thời đức Phật cách
nay trên hai ngàn năm trăm năm, khi con người còn bị bao vây bởi vô số
điều không hiểu biết và mê tín, thì trí huệ này chính là trí huệ bậc đại
giác.
Trong
một buổi giảng khác cho chư tăng về cách thức tập luyện cho một người
muốn tìm phương giải thoát, đức Phật nói rằng một người mà tâm lý trong
lành, cuộc đời thanh bạch trọn vẹn thì tức là tu tập viên mãn, và có thể
coi như một người đã tắm rửa sạch nội tâm. Có người Bà la môn tên là
Sundarika Bhàradvàja bèn hỏi đức Phật :"Ngài Gotana có đi tắm ở sông Bàhuka không ?". Phật trả lời : "Này người Bà la môn ! Sông Bàhuka có gì tốt ? Sông Bàhuka có thể làm gì cho người ?". Người Bà la môn đáp : "Bạch
Ngài Gotana, sông Bàhuka người ta tin là sông thánh. Nhiều người có
những hành động xấu xa ghê tởm (pàpa) đã được nước sông Bàhuka rửa sạch". Phật liền dạy rằng nước sông không thể rửa sạch sự xấu xa của con người, và nói :"Hởi
người Bà la môn ! Tắm ở đây (trong Pháp và Giới) sẽ cho mọi người yên
lành. Nếu người đừng nói dối, đừng sát sinh, đừng trộm cắp, đừng xấu xa,
thì đi đến sông Gayà làm gì ? Giếng sau nhà người cũng là sông Gayà đó !"
Nhìn
thẳng vào vấn đề, tìm ra phương kế giải quyết thích đáng, không dựa vào
những tiền đề chủ quan, những tin tưởng mù quáng dễ dàng, là cách nhìn
khoa học của đức Phật dạy trong chuyện kể trên. Đức
Phật xuất gia vì nhìn thấy cảnh sinh lão bệnh tử bao trùm cuộc đời và
muốn giải cứu chúng sinh. Trong quá trình tu tập học đạo, Ngài đã suy
nghĩ, thể nghiệm và sau cùng giác ngộ tìm ra chân lý giải quyết khổ nạn
cuộc đời. Tóm tắt lại là tứ diệu đế (khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế) và
bát chánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định). Trong tiến trình giải
quyết khổ, vai trò mỗi người là chủ yếu. Như Phật nhắc nhở nhiều lần:
"Ngươi phải tự mình cố gắng, Bậc Đại toàn (Tathàgata) chỉ đường"
(Dhammapada, 276)
và :
"Do mình việc xấu sinh
Vì mình mà bị bôi xấu
Chính mình việc xấu ngưng
Tự mình tiếng xấu giải
Trong sạch hay dơ bẩn tùy thuộc ở mình
Không ai tẩy sạch được cho người khác"
(Dhammapada, 165)
Tự mình thắp đuốc lên mà đi
Suy
nghĩ cho kỹ, lời Phật dạy mỗi người phải tự cứu cũng là một chỉ dẫn
khoa học, kết hợp biết và làm, lý thuyết với hành động, giải quyết việc
người mà không phục vụ việc thần. Vì thế, Phật không quan tâm giải thích
những vấn đề siêu hình, không dựa trên những yếu tố thần linh để thuyết
phục, xoa dịu hay giải quyết những vấn đề con người. Phương thức giải
quyết khổ nạn Phật chỉ ra là triệt để và đơn giản, trên nguyên lý nhân
quả, như trong quan hệ vận hành của những hiện tượng khoa học.
Một
cách rất tổng quát, ta đã nhìn ra tính chất khoa học trong một số lời
Phật dạy nguyên thủy và qua một vài ý niệm cơ bản trong Phật pháp. Sự
nhận định này không vì yêu cầu vinh danh hay đề cao đức Phật và Phật
giáo. Vì như lời Phật dạy ông A-nan-đà đã dẫn ở trên, vinh danh, tôn
kính và thờ phụng đấng Thế ton cách cao quý nhất chính là tuân theo pháp
giới. Mặt khác, cũng vì hiểu rằng Phật giáo là đạo cứu khổ, mà tiến
trình cứu khổ là dựa trên nỗ lực cá nhân, chứ không vì ân phúc huyền bí,
nên tự thấy không cần đề cao Phật giáo. Ngoài ra, nói đức Phật có tinh
thần khoa học hay nói Phật giáo có tính chất khoa học thì thật ra cũng
không phải là một cách đề cao.
Những
phân tích trên đã được viết trong quan ngại chung về viễn ảnh tôn giáo
trong thời đại văn minh vật chất ngày nay, khi những khám phá khoa học
làm lu mờ yếu tố huyền bí, khi những phát triển kỹ thuật, thương mại làm
xã hội ngày càng phức tạp và con người bị trói buộc chặt chẽ vào trong
những khổ nạn chằng chịt, tế vi khó định, khó thoát. Trong hoàn cảnh
này, vai trò giải cứu con người, ổn định xã hội của tôn giáo cổ điển dựa
trên sức mạnh huyền bí giảm đi, như ta đã thấy. Nhận
ra tinh thần khoa học trong những lời Phật dạy và khai triển tinh thần
này phải chăng là điều cần quan tâm chú ý để Phật pháp có thể được hoằng
dương mà giải cứu cho con người duy lý trong thời đại ngày nay ?
PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
Mãi
cho đến đầu thế kỷ vừa qua, Phật giáo bị giới hạn trong những nước mà
khoa học hiện đại chưa phổ biến. Tuy nhiên, từ thuở ban sơ giáo lý Đức
Phật luôn luôn mở rộng tư tưởng khoa học. Một
lý do tại sao lời dạy của Đức Phật dễ dàng được chấp nhận bởi tinh thần
khoa học là vì Đức Phật không bao giờ khuyến khích niềm tin giáo điều
cứng nhắc. Ngài không tuyên bố giáo lý của Ngài dựa trên niềm tin, tín
thành nhưng cho phép sự uyển chuyển linh hoạt và tự do tư tưởng. Lý
do thứ hai là tinh thần khoa học được tìm thấy trong thế giới quan của
Phật giáo. Phương thức của Đức Phật đối với việc khám phá và chứng
nghiệm chân lý thì rất giống với những sự khám phá của các nhà khoa học.
Nhà khoa học quan sát thế giới bên ngoài một cách khách quan và chỉ đưa
ra học thuyết khoa học sau khi đã kiểm chứng các thí nghiệm thực tiển.
Cách
đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật đã vận dụng phương thức tương tự khoa học
quán sát thế giới nội tại bằng sự suy xét vô tư khách quan và khuyến
khích các đệ tử của Ngài đừng chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi nào
họ đã thực sự nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó. Giống
như các nhà khoa học ngày nay không thể tuyên bố thực nghiệm của mình
mà không thể thừa hưởng kinh nghiệm từ những người khác, Đức Phật không
tuyên bố rằng sự chứng đắc giác ngộ là chỉ độc quyền dành riêng cho
Ngài. Do đó, trong sự tiếp cận chân lý, Đức Phật đã có sự phân tích
giống như các nhà khoa học ngày nay. Ngài đã thiết lập phương thức khoa
học thực tiển cho việc đạt đến chân lý tối hậu và thực nghiệm giác ngộ.
Phật
giáo rất gần gũi với tinh thần khoa học, nhưng sẽ không đúng nếu cho
rằng Phật giáo thì ngang hàng với khoa học. Sự thật rằng các ứng dụng
thực tiển của khoa học có khả năng làm cho đời sống con người tiện nghi
hơn và hưởng thụ hơn những điều trước đây chưa từng có. Khoa học đã làm
cho con người bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn chim và đi bộ trên mặt trăng.
Tuy nhiên, phạm vi kiến thức chấp nhận trí tuệ khoa học ước lệ thì còn
hạn chế trong các chứng minh thực tế. Và chân lý khoa học chịu sự biến
đổi liên tục. Khoa học không thể giúp con người chế ngự tâm mình và cũng
không đưa đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống. Mặc dù,
khoa học có những sự kỳ diệu của nó, nhưng khoa học vẫn có nhiều mặt hạn
chế mà ở đó Phật giáo đã vượt qua.
Những hạn chế của khoa học
Thường
thì người ta nghe quá nhiều về khoa học và về những gì khoa học có thể
làm được nhưng ít biết được những gì mà khoa học chưa hoặc không làm
được. Kiến thức khoa học bị giới hạn bởi những thông tin nhận được ngang
qua các giác quan. Nó không thể nhận thức chính xác những điều vượt quá
giới hạn của giác quan. Chân lý khoa học được xây dựng trên các quan
sát lo-gíc của các dữ kiện thuộc giác quan mà nó đang biến đổi liên tục.
Do đó, chân lý khoa học là chân lý tương đối không có bền vững trước
thách thức của thời gian và vì nhà khoa học đã nhận biết được sự thật
này, nên luôn luôn sẳn lòng loại bỏ một học thuyết nếu như nó có thể
được thay thế bởi một học thuyết khác tốt hơn.
Khoa
học nỗ lực tìm hiểu thế giới bên ngoài và đã bới tìm bề mặt thế giới
nội tại con người. Ngay cả khoa học về tâm lý cũng không thật sự tìm
hiểu hết nguyên nhân sâu xa của các trạng thái bất an của con người. Khi
con người nản lòng, chán ghét cuộc sống và thế giới nội tâm bị tràn
ngập bởi xáo trộn và bất an, thì khoa học ngày nay không có nhiều phương
tiện để giúp đỡ con người. Đối với môi trường sống xung quanh của con
người, khoa học xã hội có thể cung ứng một mức độ hạnh phúc nhất định
nào đó. Nhưng không giống như loài vật, con người đòi hỏi nhiều hơn sự
tiện nghi thân thể và các nhu cầu giúp đối phó với khổ đau và xáo trộn
nảy sinh từ thực tế hằng ngày.
Ngày
nay có quá nhiều người bị sợ hãi, bất an và cảm thấy không an ổn. Tuy
nhiên, khoa học không thể giúp họ được, khoa học không thể giúp chúng ta
chế ngự tâm mình khi mà bản năng đầy thú tính bất chợt nổi lên và đốt
cháy trong tâm.
Khoa
học có thể làm cho con người tốt hơn không? Nếu có, tại sao các hành
động khủng bố và các hành vi phi đạo đức đầy dẫy trong các quốc gia mà
các quốc gia đó có nền khoa học tiên tiến? Thật ra không công bằng để
nói rằng mặc dù các tiến bộ khoa học đã đạt được và có các lợi thế ban
cho con người, khoa học vẫn chưa có thể biến đổi nền tảng nội tâm con
người mà khoa học chỉ làm tăng thêm cảm giác của con người về sự phụ
thuộc và cảm thấy thiếu thốn? Thêm vào đó, khoa học thất bại trong việc
đem sự an toàn đến cho mọi người. Khoa học cũng khiến cho mọi người cảm
thấy rất bấp bênh bởi sự đe dọa thế giới có khả năng bị hủy diệt con
người trên quy mô lớn. Khoa học không thể cung cấp đầy đủ ý nghĩa của
cuộc đời, không thể cung cấp cho con người các lý do rõ ràng chính xác
về cuộc sống. Thật tế khoa học là thế tục hoàn toàn trong bản chất và
không có liên quan tới mục đích tâm linh của con người. Chủ nghĩa vật
chất vốn có tư tưởng khoa học đã chối bỏ các mục tiêu tâm lý cao hơn mục
tiêu thõa mãn vật chất. Bằng những lý thuyết có chọn lọc và các chân lý
tương đối, khoa học coi thường các vấn đề cốt lõi nhất và để lại nhiều
câu hỏi không thể trả lời được. Ví dụ, khi được hỏi về sự khác nhau giữa
tâm hồn và thể xác tồn tại trong con người thì không một sự giải thích
khoa học nào có thể đưa ra đối với vấn đề như vậy. Vì vấn đề đó vượt qua
các giới hạn chật hẹp của khoa học.
Vượt lên giới hạn nhận thức tương đối
Tâm
siêu việt được Đức Phật phát triển thì không bị giới hạn bởi các thông
tin cảm giác và vượt qua ngưỡng cửa lô-gíc trong sự giới hạn của nhận
thức tương đối. Trái lại, khả năng hiểu biết của con người hoạt động
trên cơ sở của những thông tin mà nó thu thập và tích chứa dù trong lãnh
vực tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật. Đối với vấn đề tâm lý,
thông tin này được thu thập xuyên qua các giác quan mà giác quan bị
giới hạn trong nhiều phương diện. Những thông tin giới hạn được nhận
thức khiến cho sự hiểu biết của chúng ta về thế giới bị méo mó. Trong
tác phẩm "Learned Ignorance," của nhà học giả người Pháp Nicholas , Cusa
đã viết:
"Tất
cả những kiến thức phô bày dựa trên các giác quan của chúng ta thì thật
sự là sự không hiểu biết; và sự hiểu biết chân thật chỉ đạt được bởi sự
lột bỏ tất cả những điều này cho đến khi chúng ta suy nghĩ mà không
dùng các ý tưởng của giác quan"
"Chân
lý không phụ thuộc vào những vấn đề bên ngoài chúng ta mà chính ngay
trong chúng ta. Chúng ta không thể hy vọng tìm thấy chân lý bằng kinh
nghiệm, bằng nhận thức giác quan hoặc ngay cả bằng những lô-gích và lý
lẽ. Có nhiều phương tiện để đạt được kiến thức nhưng đó chưa phải bằng
nhận thức là chân lý. Chân lý phải thực sự đến từ sự nhận thức nội tại.
Sách vở chỉ có thể khơi dậy tư tưởng và cho bạn kiến thức. Đối với chân
lý, bạn phải quay mắt nhìn vào trong chính bạn. Vì vậy việc nghiên cứu
kiến thức là một điều và nghiên cứu chân lý là một điều khác."
"Lời
nói là sản phẩm của tâm hạn chế của chúng ta và tâm của chúng ta phụ
thuộc tất cả kiến thức dựa trên kinh nghiệm của các giác quan của chúng
ta. Đôi khi các giác quan này không đáng tin cậy. Một việc xảy ra được
nhiều người thấy thì có thể được giải thích trong nhiều cách khác nhau."
Một
số người tự hào về sự việc mà họ biết rất nhiều. Thật tế là chúng ta
biết càng ít thì chúng ta càng có nhiều sự giải thích, chúng ta càng
biết nhiều thì chúng ta càng nhận biết nhiều hạn chế của chúng ta. Một
học giả thông thái, khi viết xong một tác phẩm được xem là kiệt tác. Vị
đó cảm thấy rằng tác phẩm này đã chứa đựng tất cả tinh túy văn học và
triết học. Bởi lòng tự hào về sự đạt được của mình, người đó đã phô
trương kiệt tác của mình đến một đồng nghiệp – người có trình độ kiến
thức ngang hàng – với lời đề nghị rằng xin đánh giá chất lượng của tác
phẩm này. Thay vì vậy, vị đồng nghiệp của vị này lại yêu cầu tác giả ghi
trên một mẫu giấy tất cả những gì vị này đã biết và tất cả những gì đã
không biết. Tác giả đắm chìm trong suy tư và sau một hồi lâu không thể
viết ra được những điều nào mà mình đã biết cả. Rồi tới vấn đề thứ hai,
vị ấy cũng không thể viết ra được tất cả những điều gì mà mình đã không
biết. Cuối cùng trong bước cùng cực nhất, vị đó đã xuôi tay chịu thua và
mới nhận thức ra rằng tất cả những gì anh ta đã biết đều thật sự là
không biết.
Cùng
với quan điểm này, Socrates, một triết gia nổi tiếng Athen của thế giới
cổ đại, khi được hỏi những gì ông ta biết, ông ta chỉ trả lời rằng:"Tôi biết chỉ có một điều - là tôi không biết."
Kiến thức PG rộng lớn hơn khoa học
Phật
giáo vượt trên khoa học hiện đại trong sự chấp nhận lãnh vực kiến thức
rộng lớn hơn tinh thần khoa học. Phật giáo thừa nhận kiến thức xuất phát
từ các giác quan cũng như những kinh nghiệm cá nhân đã được ngang qua
sự tu dưỡng tâm. Bởi việc phát triển và tu tập tâm định tĩnh cao, thì
thực nghiệm tôn giáo có thể được hiểu và được thực hiện. Sự chứng nghiệm
không phải là một điều có thể hiểu được bởi hành động thí nghiệm hoặc
thẩm sát qua kính hiển vi.
Chân
lý do khoa học khám phá chỉ tương đối và chịu sự biến đổi, trong khi
chân lý do Đức Phật tìm thấy là tuyệt đối và rốt ráo: chân lý của các
pháp không thay đổi theo thời gian và không gian. Hơn nữa, ngược lại với
các lý thuyết khoa học, Đức Phật khuyến khích người có trí thì không
nên bám víu vào các học thuyết, khoa học và những điều khác. Thay vì học
thuyết, Đức Phật dạy con người cách để sống đời sống chân chính bằng sự
thanh tịnh các căn và loại bỏ tham muốn, Đức Phật chỉ ra con đường qua
đó chúng ta có thể nhận ra trong chính mình bản chất cuộc đời. Mục đích
thật sự của cuộc đời có thể được tìm thấy.
Trong
Phật giáo, việc tu tập là quan trọng. Một người học nhiều nhưng không
thực tập giống như người nói phương pháp nấu nướng từ một cẩm nang dạy
nấu nướng đồ sộ mà không cố gắng để chuẩn bị nấu một món ăn thì cuốn
sách cẩm nang không thể làm giảm cơn đói bụng được. Cũng thế, thực hành
là điều kiện tiên quyết quan trọng trong việc giác ngộ mà trong vài
trường phái Phật giáo như Zen đã nâng cao việc tu tập thiền định thậm
chí được đặt ở hàng đầu.
Phương
pháp khoa học có khuynh hướng hướng ngoại và các nhà khoa học hiện đại
đã khai thác bản chất và các yếu tố tiện nghi cho riêng họ, nhưng lại
thường không xem xét nhu cầu để hòa hợp với môi trường và do đó thế giới
xung quanh bị ô nhiễm. Trái lại, Phật giáo hướng nội và liên quan tới
sự phát triển nội tại của con người. Ở phương diện thấp hơn, Phật giáo
dạy con người cách để điều chỉnh và đối phó với các sự kiện và hoàn cảnh
của đời sống hằng ngày. Ở mức độ cao hơn, Phật giáo trình bày sự tự nỗ
lực của con người phát triển vươn lên thông qua việc tu tập và trau giồi
tâm.
Phật
giáo có một hệ thống tu tập tâm hoàn hảo liên quan tới việc đạt trí tuệ
trong bản chất các pháp để đưa đến sự giải thoát tối thượng – Niết-bàn.
Hệ thống này vừa thực tiển, vừa khoa học. Nó bao hàm sự quán sát khách
quan về các trạng thái tâm lý và tình cảm.Hơn một nhà khoa học, người tu
học Phật như là một vị thẫm phán, một thiền giả quán sát thế giới nội
tâm chính mình với chánh niệm.
Theo: PTVN