Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì 
ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh 
nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi 
trái luân lý.
 Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ 
nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học
và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ 
sở khoa học.
 
 Ở loài người, nguồn gốc của vô minh có thể giải thích qua sự phát 
triển của não bộ. Khi các nhà nhân chủng học (anthropologist) nghiên cứu
sự phát triển não bộ của con người qua hàng triệu năm, bằng cách đo 
xương sọ từ đó suy ra dung tích của não bộ, thì nhận thấy rằng sự khác 
biệt giữa loài người có văn minh và loài khỉ là ở vỏ não (cortex). Não 
của loài người có 2 phần, phần nằm trong sâu gọi là hệ thống limbic 
(limbic system), phần này mọi sinh vật đều có, và phần vỏ não phát triển
tột bực ở loài người.
 
Hệ thống limbic là vùng não phát triển rất sớm, nghiêng về tình cảm
và bản năng. Nhờ có bản năng nên con người nguyên thủy mới có thể sống 
sót và truyền giống nòi. Nói cách khác, khi đứng trước thức ăn mà không 
thèm ăn, gặp người khác phái mà không có ham muốn tình dục và khi gặp kẻ
thù ăn cắp thức ăn và bắt cóc vợ con mà không giận dữ thì loài người sẽ
mất sự tồn tại trên thế gian và mất khả năng truyền gene lại cho thế hệ
sau. Ở loài khỉ, con khỉ đực nào có nhiều testosterone (kích thích tố 
nam), chiến đấu chống lại những con khỉ đực khác (sân) thì sẽ có vị trí 
đầu đàn và có quyền giao hợp với nhiều khỉ cái (tham). Hiểu như thế, 
tham và sân là bản năng để con người tiền sử sống còn. Ở thế giới động 
vật bản năng tự nó điều chế. Thức ăn nhiều thì sinh sản nhiều, thức ăn 
ít thì ham muốn sinh dục ít đi và sinh sản bớt lại.
 
 
Khi não bộ chưa phát triển và loài người tiền sử sống với sự điều 
khiển của bản năng thì chiều hướng của bản năng là bảo vệ sự sống còn 
của giống nòi. Tuy nhiên, trên đà tiến hóa của não bộ thì phần vỏ não 
(cerebral cortex) phát triển rất nhanh, nhờ đó tạo cơ hội cho sự phát 
triển của ngôn ngữ và ý thức (consciousness). Ý thức được khoa học định 
nghĩa là sự nhận thức ra cá nhân và cá nhân đó khác biệt với người khác.
Khi ta nhìn ta trong gương, ta nhận ra hình ảnh của chính mình, đó là ý
thức cá nhân. Hình ảnh của người kế bên không phải là ta. Sự phân biệt 
so sánh này là nguồn gốc của 
cái “tôi”. Bản chất của cái tôi là ý 
muốn khác biệt và hơn trội người khác. Cái tôi gây ra rất nhiều vấn đề 
chúng ta sẽ đề cập ở phần sau.
 
 
Cũng vào thời điểm này, những bộ lạc dần dần sống chung thành một 
xã hội. Nhờ vỏ não phát triển nên con người nguyên thủy có sự sáng tạo 
quy ước dùng một âm thanh để diễn tả ý nghĩ và tình cảm. Ngôn ngữ là âm 
thanh, phát ra rồi mất đi. Người ta chế ra chữ viết để lưu truyền ngôn 
ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, chữ viết và đời sống xã hội nên những phát minh 
mới và hiểu biết mới của một người được nhiều người áp dụng và biến chế 
tốt hơn. Ðây là nền tảng của khoa học. Nhờ có chữ viết nên kiến thức 
được lưu lại sau khi con người qua đời. Nhờ vậy, sự hiểu biết của loài 
người lưu truyền được và phát triển cực kỳ nhanh. Giả sử ta có một thần 
đồng sống biệt lập trong rừng thì những phát minh khoa học sẽ không có 
phương tiện phát triển thành sản phẩm khoa học.
 
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của vỏ não và sản phẩm của nó 
là ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật cũng có những cái hại của nó. Con người
không biết tự điều hòa như thiên nhiên. Con người có sự ý thức để hiểu 
biết thiên nhiên, tuy nhiên sự phát triển vượt bực của ý thức không đi 
đôi với sự trưởng thành của tình cảm. Từ đó mà những sản phẩm của khoa 
học kỹ thuật có thể làm đảo lộn cái trật tự quân bình của thiên nhiên. 
Hồi xưa, với cây búa rìu, muốn đốn cây thì không đốn được bao nhiêu nên 
thiên nhiên được bảo tồn. Ngày nay, với công cụ tối tân, người ta có thể
đốn hết khu rừng trong nháy mắt. Ðây mới là cái tham, sân, si mà tôn 
giáo đề cập đến và con người cần thay đổi.
 
Cái phản ứng phụ của trí khôn là cái ý muốn sở hữu. Con người muốn 
sở hữu đồng loại và thiên nhiên. Ngay từ thời nguyên thủy, những bộ lạc 
thắng trận thường bắt những người thua trận làm nô lệ cho mình. Ðiều này
xảy ra cho tới thế kỷ thứ 19 với người da đen làm nô lệ cho chủ đồn 
điền da trắng. Trong tình yêu, ta muốn giữ người ta yêu cho riêng mình. 
Cha mẹ muốn con cái làm theo ý mình. Nếu con cái không theo thì đôi khi 
cha mẹ từ con ra và gán cho con cái tên hư hỏng. Trong tôn giáo, kẻ 
không cùng tín ngưỡng là kẻ ngoại đạo. Ở thiên nhiên, cái sở hữu quá độ 
như đốn rừng hay lưới cá một cách cẩu thả ảnh hưởng xấu đến môi trường 
sinh hóa.
 
 
Ngoài ra, con người còn muốn sở hữu năng lượng (đất và nước) của 
quả địa cầu, chia ranh giới và gây ra tranh chấp. Ðối lập và xung đột là
sản phẩm của trí khôn và 
của cái tôi. Khi trí khôn phát triển, 
con người muốn mình khác với người khác vì đặc tính của trí khôn là sự 
sáng tạo. Nhưng sự sáng tạo này nằm trong một khuôn khổ cứng rắn. Khi ta
gắn một tính từ đúng sai hay xấu tốt lên một người nào đó thì ta mất 
cái khả năng nhìn sự thật. Ta chỉ thấy trắng hay đen. Ta thương người 
theo mình (tham) và ghét bỏ người không theo mình (sân). Ta mất cái nhìn
trung dung.
 
Mất khả năng nhìn sự thật khách quan và muốn vũ trụ xoay quanh theo
ý mình là nguồn gốc của vô minh và cũng là nền tảng của cái tôi. Một 
người có thể khôn xuất chúng nhưng vẫn có thể bị màng vô minh che đậy 
tâm trí. Sự nhận thức và bỏ theo quỹ đạo của cái tôi tạo ra vô số mâu 
thuẫn căng thẳng trong nhiều lãnh vực: gia đình, xã hội, chính trị và 
tôn giáo. Trong vô minh, con người có thể dùng trí khôn biện hộ cho hành
động sai lầm thay vì dùng trí khôn giúp mình thay đổi để đáp ứng hoàn 
cảnh. Khi chưa được cái mình muốn, con người sinh ra lòng tham và khi 
mất cái mình được thì sân hận.
 
Ðộc giả hãy thử phân tích hoàn cảnh này xem sao. Ông A di du lịch 
và làm quen được với ông B. Hai người nói chuyện, trao đổi với nhau vui 
vẻ. Một ngày nào đó đất nước ông A và ông B trở thành thù nghịch. Hai 
người bị động viên. Khi 
khoác áo nhà binh lên người thì 2 người 
trở thành thù nghịch và sẵn sàng giết nhau, mặc dù không có mối hận thù 
cá nhân riêng biệt. Như thế mới hiểu được cái tai hại khi chúng ta gán 
cho người khác cái nhãn hiệu mà không hiểu được sự thật. Chuyện như thế 
xảy ra rất nhiều và thịt rơi, máu đổ cũng vì hiểu lầm. 
 
Nhìn lại lịch sử con người, ta thấy những trường hợp như vậy xảy ra
rất thường xuyên. Khi một chính phủ hay một cơ quan tôn giáo xác nhận 
một nhóm người khác là “kẻ thù” hay “ngoại đạo” rồi thì sự sát nhân hàng
loạt xảy ra rất dễ dàng. Thời Trung cổ có tòa án dị giáo (inquisition 
tribunal) giết chết hàng loạt người không theo Thiên Chúa giáo, rồi đến 
Thánh chiến (Crusade). Thời thực dân (colonial), người da trắng coi 
người da đen là dòng giống kém và đến châu Phi bắt cóc họ làm nô lệ cho 
các đồn điền. Vào đệ nhị thế 
chiến, Hitler ra lệnh giết hàng loạt 
người Do Thái (holocaust). Gần đây hơn thì chế độ kỳ thị Apartheid ở Nam
Phi vẫn không công nhận quyền lợi bình đẳng của người da đen.
 
 
Sở dĩ vô minh xảy ra vì tư tưởng và trí khôn loài người chưa phát 
triển để đạt đến khả năng trực nhận thực tế (danh từ Phật giáo gọi là 
giác ngộ). Sự truyền đạt thông tin của tư tưởng rất hạn chế. Có lẽ vì 
thế con người thích có một khuôn mẫu hiểu biết có sẵn để nương theo. Ở 
những xã hội sơ đẳng (lúc đó chưa có những phương tiện truyền thông như 
TV và radio) thì ca dao tục ngữ là những công thức cho dân gian kém học 
thức nương nơi đó mà cư xử với nhau cho thích hợp. Ngoài ca dao tục ngữ 
thì có những chuyện cổ tích để cho người ta noi theo gương tốt. Những 
phương pháp truyền đạt kiến thức kể trên rất đơn sơ và chỉ thích hợp với
một số nhỏ người, hạn chế ở địa lý cư ngụ của những người đó. Thí dụ 
như ca dao về mùa màng ở miền nhiệt đới không thích hợp với dân miền ôn 
đới.
 
 
Ðộc giả nên phân biệt giữa hiểu biết và diễn đạt hiểu biết. Hiểu 
biết của ông thầy có thể diễn ra trong nháy mắt, nhưng khi người thầy 
giáo dùng tư tưởng, suy nghĩ để giải thích sự hiểu biết đó cho học sinh 
thì phải mất nhiều thời giờ hơn. Ngoài ra, sự truyền đạt hiểu biết qua 
tư tưởng và lời nói không thể nào trung thực và đạt được 100% dữ kiện 
chứa trong cái trực hiểu của ông thầy.
 
 
Tệ hơn, đôi khi người nói một đường, kẻ hiểu một ngả. Càng cố chấp 
trên suy nghĩ thì sự hiểu lầm càng sâu hơn. Nếu người sở hữu kiến thức 
(trò) áp dụng một cách cứng rắn thì khả năng đáp ứng thực tế của họ càng
kém hơn người (thầy) tạo ra kiến thức đó. Vì thế, muốn xã hội tiến bộ 
thì trò phải hơn thầy. Nếu ông thầy sợ học trò hơn mình và không truyền 
đạt hết kiến thức, và người học trò không hiểu hơn thầy mình thì xã hội 
sẽ đi lùi. Hiểu như thế, tinh thần vô ngã là thái độ cần có để xã hội 
phát triển.
 
 
 
Các mạch thần kinh ở não bộ con người khác với mạch máu. Mạch máu 
có đường đi nhất định. Những mạch thần kinh có khả năng kết nối với nhau
một cách uyển chuyển (plasticity of the nervous system). Những người bị
tai biến mạch máu (stroke), mất hết một phần của não bộ nhưng vẫn có 
thể phục hồi một phần nào chức năng cơ thể vì các tế bào thần kinh ráp 
nối với nhau tạo ra mạch thần kinh mới để thông qua những tế bào thần 
kinh bị chết, từ đó bệnh nhân có thể sử dụng trở lại những bắp thịt bị 
tê liệt. Cũng như thế, khi ta không cố chấp thì khả năng kết nối của hệ 
thống thần kinh ta dồi dào hơn. Khi sự kết nối nhiều thì khả năng hiểu 
nhiều khía cạnh của một sự kiện tăng theo.
 
Khi chúng ta học hỏi và nhận thức một điều mới lạ thì những tế bào 
thần kinh sẽ liên kết với nhau nhiều hơn. Khi ta cố chấp vào một sự việc
thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận 
biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi, 
chỉ thấy được một phần nhỏ của con voi và tranh chấp cãi lộn với những 
người khác thấy những phần khác của con voi. Vì thế, ở kẻ mê tín dị 
đoan, não bộ của họ mất sự uyển chuyển kể trên. Chính đây là nền tảng cơ
sở khoa học não bộ của vô minh. Cái khó khăn là người vô minh không bao
giờ nhận ra tâm trạng đó. Cũng giống như người bị điên (psychosis), cho
rằng kẻ khác bất bình thường, còn mình thì hoàn toàn bình thường.
 
Làm sao ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của vô minh khi mà người vô minh 
không nhận ra họ bị vô minh. Rồi một nhóm người vô minh tranh cãi biện 
luận với nhau để giành phần đúng về mình. Họ tạo thành nhiều băng đảng 
chính trị, chủ nghĩa quốc gia hay niềm tin tôn giáo khác nhau. Suy nghĩ 
càng biệt lập và khác biệt thì lòng tin tưởng lẫn nhau giữa loài người 
suy giảm trầm trọng và lòng lo sợ, hận thù tăng hơn. Nếu sự lo sợ tăng 
đến nỗi người ta mất khả năng dùng lý trí để thay đổi nhận thức thì nó 
trở thành cực đoan và bịnh hoạn (paranoid delusion). Ðây là những cách 
người ta bảo vệ cái chủ nghĩa tư tưởng mà họ cho là đúng. Nói tóm lại, 
trong sự bảo vệ quá đáng đó, họ thiếu 
lòng tin và 
sự suy nghĩ sáng suốt một cách trầm trọng.
 
Hiểu như vậy thì không có gì lạ khi hai tôn giáo chính của thế giới
đề cao lòng tin (Ki tô giáo) và suy nghĩ sáng suốt (Phật giáo). Chúa và
Phật có thể được coi là những bậc thánh nhân và cũng là những bác sĩ 
tâm lý đại tài. Sở dĩ những ấn tượng trên tâm lý của hai đạo này tồn tại
đến ngày nay, có lẽ vì các vị thánh nhân này đã thấu hiểu được căn bệnh
về tâm lý của loài người và nói trúng tim đen của loài người. Những vị 
này muốn mở đường hướng dẫn nhân loại - nói theo khoa học não bộ ngày 
nay - sử dụng não bộ của họ một cách hữu hiệu để tránh loài người dùng 
trí khôn sáng tạo vũ khí tự tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt quả địa cầu.
Khi trị được si mê thì tham và sân tự nó biến đi. Chính vì tham và sân 
là sự hiểu lầm do si mê gây ra.
 
 
 
Có cách nào nhanh nhất để trị cơn si mê, giấc mộng ngàn đời của 
nhân loại? Như ta thấy, khi nào con người còn có suy nghĩ đúng sai thì 
lúc đó sự tranh chấp sẽ không dừng. Suy nghĩ có thể vẽ ra ngàn lối khác 
nhau. Một khi suy nghĩ vẽ ra rồi thì ít khi nó chịu rời bỏ sản phẩm của 
nó. Con người phải tập vượt qua cái ý nghĩ chấp đúng sai. Con người phải
tập lắng nghe chính mình và lắng nghe người khác. Chấp đúng sai là vội 
khóa mình trong một kết luận nông cạn. Khi còn suy nghĩ đúng sai thì cái
suy nghĩ đó sẽ làm nhiễm (contaminate) cảm nhận sự thật. Suy nghĩ là 
hình bóng chứa dữ kiện của một hiện tượng đã qua. Khi ta giữ cái hình 
bóng đó trong tâm thì sự đáp ứng tức thời và khả năng nhận ra sự thật bị
giảm đi rất nhiều.
 
Thí dụ như ông A vừa mới cãi lộn xong với vợ mình và bực bội lái xe
ra khỏi nhà. Trong tâm trí ông còn những suy nghĩ lẩn quẩn về câu 
chuyện không vui vừa xảy ra. Tâm ông bị phân trí và suýt nữa ông vượt 
đèn đỏ gây ra tai nạn. Khi vào sở, ông nạt nộ với nhân viên trong sở gây
ra nhiều căng thẳng. Ở trường hợp trên, ông A vì suy nghĩ về chuyện quá
khứ nên mất khả năng nhận ra hiện tại, như đèn đỏ và không đáp ứng với 
hoàn cảnh hiện tại trong sở (nhân viên không có lỗi lầm mà bị nạt).
 
 
Ở mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, nếu ta làm chủ được những dòng tư 
tưởng suy nghĩ hiện ra trong đầu, không dùng những dữ kiện của quá khứ 
để đối phó với hiện tại hay phỏng đoán tương lai thì khả năng nhận thức 
tức thời tại thời điểm hiện tại (here and now) sẽ rất nhạy. Phát triển 
cái nhận thức tức thời không qua suy tư được gọi là thiền. Nghiên cứu 
cho thấy não bộ con người phản ứng với những hình bóng suy nghĩ dựng ra y
như sự thật trước mặt. Rồi như thế chưa đủ, con người cố gắng diễn tả 
những hình bóng suy nghĩ đó bằng nghệ thuật điện ảnh. Khán giả thật sự 
vui buồn với cái ảo giác. Nếu ai cũng xem cái thực tế của phim ảnh là 
những hình bóng màu mè phản chiếu lên màn ảnh thì công nghiệp điện ảnh 
sẽ bị phá sản từ lâu rồi.
 
 
Bây giờ độc giả hãy tưởng tượng rằng chỉ có một màn ảnh mà có đến 
nhiều người muốn đồng lượt chiếu phim của mình lên trên đó. Như thế 
những hình bóng trên màn ảnh rất rối loạn, chính sự rối loạn đó là vô 
minh. Ai cũng muốn la lớn là tôi hay, tôi đúng, mọi người nên theo tôi. 
Không ai nghe ai và không ai chịu khó tìm hiểu người khác. Ðó là vô 
minh. Ðây là thảm trạng của xã hội hiện giờ, sự thành công được đo bằng 
mình trội hơn người khác. Có ai biết tại sao sản phẩm tiện nghi của khoa
học càng nhiều, nhưng ngược lại với dự đoán, stress và những bịnh do 
căng thẳng tinh thần xảy ra nhiều hơn chăng? Bây giờ muốn cho mọi người 
nhìn thấy ánh sáng thì chúng ta phải tắt hết phim lại.
 
Tắt hết phim lại là để cho tâm tĩnh lặng. Khi tâm tĩnh lặng rồi thì
người ta mới có cơ hội cùng nhìn về một hướng và hiểu một chuyện. Nếu 
tâm loạn động thì chỉ có hai người thôi mà xảy ra biết bao nhiêu chuyện 
phức tạp. Chỉ có một chuyện mà bị méo mó biến ra mười chuyện khác nhau. 
Cho nên để tâm tĩnh lặng thì màn vô minh bị mỏng dần và khả năng nhận 
định sự thật và thông cảm lẫn nhau tăng hơn. Khi vô minh mỏng dần thì 
tham biến thành trí tuệ thích hiểu biết và sân biến thành sự dũng cảm 
dám thay đổi tính tình (tu). Khi vô minh mỏng dần thì não bộ sẽ có khả 
năng kết nối với những vùng mới lạ. Và từ đó đời sống tâm linh của nhân 
loại sẽ được phát triển và phong phú hơn.
Tâm tĩnh lặng không phải là một cái gì trừu tượng mà hiện nay khoa 
học có thể dùng điện não đồ EEG để đo được. Khi ta thư giãn để tâm tĩnh 
lặng thì tần số rung động của não bộ giảm xuống khoảng 8- 10 Hz, tần số 
này gọi là tần số Alpha. Những nghiên cứu cho thấy não bộ hoạt động hữu 
hiệu nhất ở tần số này. Ðây cũng là cái tần số của tâm “vô ngã”. Ðó là 
một tâm trạng sáng suốt với ý thức mở rộng để hiểu mình và hiểu người. 
Khi ta tập tâm tĩnh lặng ở tần số này, để mặt trời ý thức hiện ra thì 
những tư tưởng mây đen cố chấp của vô minh sẽ ít dần. Chúng ta rất may 
mắn sống ở thời điểm này. Với những kiến thức mới của khoa học não bộ, 
cái ranh giới giữa tôn giáo và khoa học sẽ mỏng dần. Hy vọng sẽ có một 
ngày người ta không còn giết lẫn nhau vì sự khác biệt tín ngưỡng. Ngày 
đó đa số con người sẽ sống với tần số Alpha và sẽ có tâm trạng “vô ngã”,
biết lắng nghe và thông cảm lẫn nhau. Hòa bình thật sự chỉ có thể xây 
dựng được từ trong tâm mà thôi. 
Thái Minh Trung, M.D/Nguyệt san Giác Ngộ 185