1- Một người hiểu rõ sắc là do bốn đại hợp thành, mà sắc hợp thành là pháp VÔ THƯỜNG, mà vô thường là khổ. Do hiểu biết như vậy, nên người ấy không dính mắc và không chấp đắm vào SẮC, tức là không chắp đắm vào thân tứ đại. Không chắp đắm vào THÂN TỨ ĐẠI là người có tri kiến giải thoát thứ nhất.
2- Tướng theo nghiệp mà có, nên NGHIỆP đâu thì xác định TƯỚNG đấy.
Nhờ có tri kiến về tướng, nên chúng ta sống trong CHÁNH NGHIỆP, thường làm những điều thiện và tăng trưởng những điều thiện. Đây là tri kiến về nghiệp tướng. Nhờ hiểu biết về NGHIỆP TƯỚNG, nên thân tâm không làm điều ác, đó là tri kiến giải thoát thứ hai trong đạo Phật.
3- Tri kiến giải thoát thứ ba là tri kiến hiểu về LÒNG HAM MUỐN, về LÒNG SÂN GIẬN, về những Ý SUY NGHĨ LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI. Khi tri kiến hiểu rõ các ác pháp đó, thì khi tâm niệm khởi lên những ác pháp, nó liền diệt và loại trừ ra khỏi tâm.
4- Độc cư là một phương pháp PHÒNG HỘ SÁU CĂN đệ nhất. Người biết sống ĐỘC CƯ là người có tri kiến giải thoát thứ tư.
5- Đến tri kiến giải thoát thứ năm, Phật dạy: Mình nên đem những điều hiểu biết của mình ĐÃ ĐƯỢC GIẢI THOÁT dạy lại cho người khác, để họ cùng giải thoát như mình.
Tri kiến giải thoát thứ năm là thực hiện lòng tốt của mình với mọi người, đem sự lợi ích của mình cho mọi người để cùng nhau lợi ích.
6- Nghi ngờ là một ác pháp, chúng ta hãy cố gắng khắc phục và diệt trừ cho hết tâm nghi ngờ. Hết tâm nghi ngờ là được giải thoát.
Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến dẹp trừ tâm NGHI NGỜ, phá vỡ tâm NGHI NGỜ. Nếu chúng ta có tri kiến giải thoát thứ sáu là chúng ta không còn tâm nghi ngờ.
7- Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến thông suốt PHÁP và LUẬT của đức Phật.
8- Người đến với đạo Phật mà không thông hiểu BÁT CHÁNH ĐẠO là không có tri kiến giải thoát thứ tám.
9- Pháp môn TỨ NIỆM XỨ rất quan trọng cho con đường tu tập của chúng ta đi đến giải thoát. Tri kiến giải thoát thứ chín này là điều chúng ta cần phải học tập cho nhuần nhuyễn.
Khi tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì phải tu tập cho đúng cách của pháp môn Tứ Niệm Xứ. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Phật dạy TRÊN THÂN QUÁN THÂN, nhưng nếu ai chưa tu tập TỨ CHÁNH CẦN, mà vội tu tập TỨ NIỆM XỨ thì ngay đó bị ức chế tâm mà trở thành bị tẩu hỏa nhập ma. Cho nên tu tập Tứ Niệm Xứ là tâm phải hết hôn trầm, thùy miên và loạn tưởng, nếu còn hôn trầm, loạn tưởng thì không nên tu tập Tứ Niệm Xứ.
10- Tri kiến giải thoát thứ mười xác định cho chúng ta biết, làm tu sĩ Phật giáo thì phải BUÔNG XẢ tất cả vật chất xuống hết, đời sống chỉ còn ba y một bát, lúc nào cũng xin ăn; ai cho gì ăn nấy, không nên khen chê. Ăn mặc bằng vải thô xấu, vá víu mới đúng hạnh người tu sĩ ra khỏi cuộc đời.
11- Tri kiến giải thoát thứ mười một là tri kiến TÔN KÍNH, TÔN TRỌNG những bậc tu hành chân chánh, giới luật tinh nghiêm.
Hành động biết kính trên, nhường dưới là tri kiến giải thoát thứ mười một.