Điều nghịch lý là, rõ ràng Khoa học là một sự tỏa sáng, là vinh quang
của Tinh thần. Thế nhưng, cuối cùng thường xảy ra là nó chối bỏ Tinh
thần. Thứ hai, chính bởi phương pháp tiến hành Khoa học, mà rốt cuộc,
Khoa học bỏ quên Tinh thần. Vì sao?
Câu chuyện ngụ ngôn “Con
hổ và con trâu với người trai cày” trong quyển Quốc văn giáo khoa thư -
bậc Tiểu học, (Việt nam Tiểu học Tùng thư) từ những năm 40 của Thế kỷ
XX, chắc chắn vẫn còn hằn sâu vào ký ức tuổi thơ ấu của lớp người, nay
đã quá tuổi bảy mươi.
Chuyện rằng, Một con hổ to khỏe ngồi rình
trên bờ ruộng… Nhưng nó chợt băn khoăn một điều kỳ lạ mà nó không thể
hiểu nổi: Tại sao một con trâu mộng, với cặp sừng khỏe nhọn thế kia, mà
phải cúi đầu lầm lũi trước một con người nhỏ bé như vậy? Nó quyết định
lên tiếng hỏi trâu:
- Này trâu, sao mày to xác thế kia mà chịu để
người hành hạ sai khiến vậy hả?
- Vì Người có Trí khôn! , trâu
trả lời. Hổ quay sang hỏi anh trai cày:
- Này người kia! Trí khôn
của mày đâu cho tao xem thử.
- Trí khôn tôi để ở nhà. Anh trai
cày đáp.
- Mày về lấy đi!
- Tôi về để cho ông thịt mất
trâu của tôi à?
- Không, tao thề là tao không ăn mất trâu của mày
đâu!
- Tôi không tin! Anh trai cày lạnh lùng đáp.
- Vậy
tao phải làm gì để mày tin?
- Ông thuận lòng để tôi trói ông vào
gốc cây gạo kia một lúc vậy. Nhà tôi cũng gần đây thôi!
Hổ bằng
lòng. Sau khi trói hổ vào gốc cây gạo xong, anh trai cày quay lại tháo
lấy chiếc bắp cày, cứ nhè vào hổ mà bổ tới tấp: Trí khôn tao đây! Trí
khôn tao đây!
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây, nếu chỉ suy ngẫm từ
góc độ triết lý dân gian, thì nó chứng tỏ rằng, từ xa xưa, tầng lớp bình
dân cũng đã nhận thức được sức mạnh của lòng dũng cảm, một phương diện
cụ thể của Tinh thần.
Dù tự xưng là Chúa tể muôn loài, con hổ kia
vẫn cứ là ngốc nghếch khi đòi xem một thứ vô hình, mà theo bản năng, nó
chỉ tin ở đôi mắt. Có lẽ triết lý hay nhất ở đây là hành vi của anh
trai cày: Trước cái uy của hổ, anh bình thản đến lạnh lùng bằng cái tự
chủ Ta vẫn là ta, nghĩa là trong anh, cái Tự do giản dị trọn vẹn và
thanh khiết đang ngự trị. Chính vì thế, anh Sáng tạo một bài học cho hổ,
mà cũng là cho “Đời”, rằng cái vô hình không tuyệt đối đồng nghĩa với
cái hư vô trống rỗng.
“Trí khôn tao đây!” chứ không phải là “Tao
giết chết mày!”, là một thông điệp nhân tính, chỉ đủ để cho hổ thốt lên:
“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!” mà thôi, chứ không vì tham bộ
xương quí và bộ da lông vàng tàu cau rực rỡ mà giết chết đời nó.
Nếu
nhận dạng từ gương mặt Triết học của câu chuyện này, thi khái niệm Tinh
thần là khái niệm trừu tượng, thuộc phạm trù Siêu hình, chỉ cảm nhận về
mặt ngữ nghĩa chứ chẳng ai nhìn thấy hình thù nó ra sao cả. Vì thế, nếu
không lý giải, thì không thể nhận thức một cách tức thời, sức mạnh cải
tạo Thế giới, thúc đẩy Thế giới phát triển bằng chính ý chí tự do và
sáng tạo của nó. Đó chính là cái mà người ta gọi là Giá trị Tinh thần,
và được nhận thức như là nguyên nhân của Giá trị Vật chất.
Thật
vậy, toàn bộ những giá trị vật chất, những thành quả lao động mà nhân
loại thành tựu được, đều là những công trình của Tinh thần, những tượng
đài và kiến trúc của tài năng nhân loại. Dù đó là một tháp chuông, một
mái vòm của nhà thờ, những bản vẽ của đồ án máy bay, con tàu Vũ trụ,
những bản giao hưởng của các thiên tài âm nhạc, thuyết Tương đối, các
bích họa cổ điển, hoặc những ý tưởng cao cả thúc đẩy các dân tộc, thì
mọi công trình của Tinh thần đều biểu lộ một ý chí sáng tạo vĩnh cửu.
Cho dù Thời gian và Lịch sử tàn phá những niềm hy vọng ấy, thì Tinh thần
sáng tạo ấy vẫn trường tồn cùng nhân loại. Tất cả đều là những giá trị
tinh thần, được sản sinh từ một Thế giới huyền diệu: Thế giới Siêu hình!
Chúng
ta thường đinh ninh rằng, Thế giới này, cuộc sống này, số phận của
chúng ta đây, là do “Tạo hóa đã ra tay xếp đặt”, Tạo hóa là siêu phàm,
là siêu việt. Ngài ở đâu đó trong Thế giới Siêu hình để dẫn dắt cuộc
sống của muôn loài. Nhưng chúng ta không một chút đinh ninh rằng, cái
Thế giới Siêu hình đó chính là Thế giới Tinh thần, là ý chí tự do, là
khát vọng sáng tạo trong mỗi chúng ta. Vậy nên, cái phải được tôn vinh
không phải là Tạo hóa, mà là chính con Người chúng ta.
Nhưng tại
sao phát sinh xu hướng chối bỏ Tinh thần? và tại sao Khoa học ưu ái Vật
chất? Chúng ta sẽ thấy những chứng cứ lịch sứ về điều đó từ Thế kỷ XVIII
cho đến nhưng năm đầu Thế kỷ XX. Trong thời gian đó, Khoa học đã tạo
điều kiện cho học thuyết Duy vật củng cố địa vị của mình, nhờ đó mà các
gương mặt khác nhau của học thuyết Duy vật thắng thế. Bằng cách nào mà
Khoa học đã tạo điều kiện hình thành ý niệm Vật chất ?
Thứ nhất,
Khoa học là một công trình của Trí tuệ của thiên tài con người. Nền văn
hóa khoa học là một trong những yếu tố chính của đời sống Tâm linh. Việc
thực hiện Khoa học cũng giống như việc thực hiện Nghệ thuật là chiến
thắng của Tinh thần con người.
Điều nghịch lý là, rõ ràng Khoa
học là một sự tỏa sáng, là vinh quang của Tinh thần. Thế nhưng, cuối
cùng thường xảy ra là nó chối bỏ Tinh thần. Thứ hai, chính bởi phương
pháp tiến hành Khoa học, mà rốt cuộc, Khoa học bỏ quên Tinh thần. Vì
sao? Vì nền tảng của Khoa học là tính khách quan. Tính khách quan ấy có
hai hình thức: Một là tính khách quan của đói tương được nghiên cứu, hai
là tính khách quan của nhà khoa học, cũng chính là tính khách quan của
Chủ thể, của Tinh thần.
1. Với đối tượng được nghiên cứu, thì
lịch sử của Khoa học là lột bỏ dần khỏi đối tượng những gì còn bị tính
chủ thể trộn lẫn. Chẳng hạn, theo từng giai đoạn lịch sử: Bước đầu tiên
là loại bỏ thuyết “Nhân hình” của tư tưởng tiền luân lý, kiểu như Thượng
đế, Thần linh v. .v.. Khám phá Tự nhiên như đối tượng của Khoa học.
Giai đoạn này được thực hiện từ sự thức tỉnh của Khoa học Hy lạp, từ Thế
kỷ thứ V và thứ VI trước Công nguyên, mà tiêu biểu là trường phái
Hippocrate. Bước thứ hai là thành lập khoa Luân lý hình thức, đó là công
cụ nhận thức đối với Aristote. Tiếp theo, bước thứ ba là loại bỏ tính
cứu cánh và “những hình thức thuộc bản thể”, đồng thời trao cho Tự nhiên
những mục tiêu có tính ý hướng. Đó là công trình của Pascal và
Descartes. Bước thứ tư là mở rộng tính cơ giới và thành lập thuyết tất
định vào Thế kỷ XVIII và XIX v.v…
Tất cả những bước đi đó nhằm
theo đuổi một cuộc thanh lọc đối tượng của Khoa học. Nghĩa là loại bỏ
triệt để tính chủ quan và quan điểm nhân văn trong Khoa học.
2.
Với Tính khách quan của Nhà khoa học, đó là sử dụng công cụ Toán học và
phương tiện kỷ thuật để loại bỏ khỏi thực nghiệm sự can thiệp cá nhân
của các Nhà khoa học. Thực nghiệm Khoa học có giá trị phổ quát và tất
yếu. Tự do và nhân cách của Nhà khoa học không liên quan gì đến Thế giới
của tính tất yếu Khoa học. Dù rằng, chính nhân cách, ý chí và tự do của
Nhà khoa học thiết kế và tạo dựng nên mô hình thí nghiệm. Nhà khoa học
suy tư về nó và thực hiện nó, nhưng lập tức ông ta biến mất khi quá
trình thực nghiệm bắt đầu: Nhân cách và ý chí của ông ta, không bao giờ
được thể hiện trong phương trình hay công thức sau cùng của cuộc thí
nghiệm đó.
Mặt khác, Tinh thần luôn luôn hòa trộn trong Thế giới
hiện thực. Cho nên khám phá Khoa học bao giờ cũng đương đầu với bất
định, với ngẫu nhiên tự phát, đi cùng với cái tất yếu trong hiện thực
đó. Vì vậy, Khoa học phải thực hiện một sự phân ly triệt để và thận
trọng sự hòa trộn ấy. Hệ lụy đương nhiên là Nhà khoa học nhận lấy trách
nhiệm về những gì liên quan đến ngẫu nhiên tự phát, chỉ còn để lại tính
tất yếu thuần túy làm thành quả Khoa học mà thôi.
Kết luận:
Nếp
gấp tư tưởng do sự phân ly triệt để khách quan và chủ quan trong phương
pháp luận Khoa học cổ điển, đã và đang còn hằn sâu, ảnh hưởng không nhỏ
đến nhận thức luận Thế giới hiện đại.
Việc lọc bỏ chủ quan một
cách cứng nhắc trong thực hành Khoa học, cùng với thuyết Tất định, đã
làm cho tự do và trách nhiệm của nhà khoa học biến mất khỏi phương trình
của Thế giới. Vũ trụ không linh hồn, mà người ta xây dựng ra lúc bấy
giờ, sẽ đè bẹp Nhân tính.
Vì lẽ đó, mà thiên tài của con người
dường như gắn liền với sự tiêu vong. Từ giữa Thế kỷ XX, các nhà bác học,
các Triết gia đã bắt đầu xúc động về điều đó, họ đã mạnh mẽ khước từ sự
phi nhân bi thảm của thực tại: Cùng với tuyên bố của A. Einstein, G.
Marcel đã cho công bố tác phẩm “Nhân loại chống tính Người” , gây một
chấn động không nhỏ trong dư luận khoa học.
Tuy nhiên, ảnh hưởng
ấy vẫn còn trói buộc tự do nhà khoa học ngay trong Thế kỷ XXI. Ví dụ như
trong Ngành Điều khiển học: Nhà khoa học chế tạo ra một Người máy. Đó
là sản phẩm của lao động sáng tạo, một suy tư nghệ thuật, một công nghệ
và một Khoa học đẳng cấp cao.
Nó là kết quả của trí tưởng tượng
tự do bay bổng, của thiên tài tính toán trùng khớp giữa trừu tượng với
hành vi Người máy. Tóm lại, cái đáng kinh ngạc khi trình diễn Người máy,
chính là tài năng của Nhà khoa học. Thế nhưng, tác giả trình bày thành
tựu của mình chỉ như kết quả tương tác của các qui luật tự nhiên, của
tính tất định Khoa học, nghĩa là ông ta rút lui khỏi công trình của
mình.
Người máy của ông chỉ còn lại tính khách quan mang dấu ấn
của tính tất yếu. Vì hành vi của Người máy rất giống hành vi con người,
cho nên kéo theo một sự xác tín nguy hiểm rằng, mọi hành vi con người là
hệ quả có cùng bản chất. Cho nên, thay vì tôn vinh Tinh thần của nhà
sáng chế, người ta sẽ nói: Mọi hoạt động sinh học và mọi tư tưởng đều là
những áp dụng khác nhau các qui luật điện tử!
Theo: Chungta.com