Bao nhiêu năm rồi
còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh
cho đời mỏi mệt.
(Trịnh Công Sơn)
Ca từ về cuộc sống nhân sinh, về vòng quay của kiếp người
vẫn muôn thủa vẫn cất lên trong đêm trường mộng ảo. Để đi tìm một con người
chính mình. Tôi là ai? Con người là gì? vẫn luôn là điều mà Triết học – Đông
cũng như Tây, ưu tư, với bao khát vọng tìm tòi, khám phá.
Với tương quan duyên khởi. Đạo Phật chỉ ra rằng: Con người
là một hiện hữu do duyên mà sinh, một quá trình trở thành, cho nên con người
không phải là một thực thể có bản chất thường hằng bất biến. Qua Duyên khởi
tính, con người được thể hiện với đầy đủ những phồn tạp, khúc mắc đa diện, nên
cũng có thể nói Duyên khởi của đạo Phật là đạo của “con người”– Nhân đạo – với
những trái ngược phức tạp nhiều xung động tâm lý đa thù. Nhưng trước sau vẫn là
một “con người” sống thực với những tương quan đa diện. Tương quan Duyên khởi
hiện hữu một cách toàn diện như một con người toàn diện như một cuộc đời toàn
diện, như vạn hữu toàn diện. Như chính lời kinh Phạm động (Trường A hàm). “Đức
Như lai thấu rõ mọi thuyết của các học phái... chỉ cần dùng một cái lưới nhỏ, bủa
trùm xuống một cái ao thì bao nhiêu vật trong ao đều lọt vào lưới chứ không thể
trốn tránh ngả nào”.
Đức thế tôn đã bủa lưới xuống ao lý luận tự ngã, để lôi
lên hết thảy mọi vật, đặt trước trí tuệ bình đẳng, siêu việt, trí tuệ toàn
triệt, để thấu rõ nguyên nhân phát khởi những hiện tượng sai lầm cũng như chân
xác.
Chúng ta đều biết, mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống
nhân sinh đều có tính đa diện, đa tố và đều tương quan với nhau, chúng tương
duyên tương sinh.
...Cái này có thì
cái kia có,
Cái này sinh thi cái
kia sinh,
Cái này diệt thì cái
kia diệt
Cái này không thì
cái kia không...
Tất cả, như mắt lưới để hình thành hiện tượng vạn hữu. Cho
nên, mọi hiện tượng đã thành đều có một lý do tự thân và lý do tương quan của
nó. Chỉ đến khi nào hiểu và thấu triệt được những lý do phát khởi, đoạn diệt
của nó mới có thể chuyển hoá nổi hiện tượng đó. Cho đến khi một hiện tượng đã
chuyển hoá, không ít thì nhiều toàn thể hiện tượng cũng được chuyển hoá theo.
Cũng theo Duyên khởi thì thế giới hiện tượng là do duyên
sinh, là vô ngã, là trống
rỗng. Con người chỉ là tập hợp của năm uẩn, vô ngã và rỗng
không. Con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể tách rời nhau. Sự thật
này đã được đức Phật chứng tỏ trong kinh Mahapunnama (Trung Bộ II) và trong
kinh Giới phân biệt (Dhatuvibhalga, Trung bộ III) rằng: Sắc uẩn gồm có nội sắc
là cơ thể vật lý của mỗi cá nhân, ngoại sắc là thế giới vật lý, điều này có
nghĩa là vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con người. Như thế, thế giới như
thật là thế giới hiện tượng này mà vắng bóng chấp thủ và tham ái của con người.
Đức Phật đã xác định: “Và, này Bhagava, điều này đã đưạc giảng dậy, được tuyên
bố là sai lầm là trống rỗng, là dối trá”.. điều mà Như lai tuyên bố là bất cứ
khi nào mà một người chứng đắc cảnh giới “giải thoát” “thanh tịnh” người ấy
thấy thế giới là “thanh tịnh”.
“Tâm tịnh thế giới tịnh”
(Kinh Duy Ma).
Lời dậy trên đã biểu lộ quan điểm giáo dục của đức Phật là
giáo dục con người giúp con người thoát khỏi phiền não, lậu hoặc bằng cách tu
tập tâm nhằm đạt đến cảnh giới thanh tịnh và bằng cách đó, có thể gây duyên
lành cho ngoại giới. Đối với người “thanh tịnh” ấy hạnh phúc và chân lý xuất
hiện cùng một lúc Chính tại đây ta hiểu rằng thực tại là Duyên khởi, vô ngã.
Thực tại luôn luôn nói lên rằng tinh thần hay vật chất là do duyên mà sinh. Như
sự thật Duyên khởi đã nói. Nếu sắc uẩn không thể tách rời khỏi bốn uẩn kia thì
vật chất cũng không thể tách rời khỏi tinh thần. Cả hai cùng hiện hữu.
Một lần nữa dưới ánh sáng của Duyên khởi, có thể khẳng
định rằng - đạo Phật là đạo của con người - Nhân đạo.
Mục đích tối hậu của giáo lý Phật giáo là giúp con người
chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm hoá Thánh. Điều đó không phải ở đâu xa, chúng
ta có thể tìm thấy ngay tại thế gian này cảnh giới cực lạc nhân gian tại đây và
bây giờ. Đồng thời, mục đích đó phải thực hiện bằng cách tu tập và điều phục,
chế ngự tâm.
Tu, điều phục tâm là đi đến giải thoát và tri kiến giải
thoát. Tu là lộ trình đi ra khỏi sinh tử luân hồi, có nghĩa là đi ra khỏi sự
trói buộc đầy “sương mù” của sự chấp có “Ai” để chứng đắc thực tại “không có ai”.
Chính vì thế mà với một người (có đủ sáu căn và sáu thức)
mà hiểu được lý Duyên khởi của đức Phật. Giác ngộ ngay trên cuộc đời này, thì
thế giới cũng sẽ xuất hiện với hình tướng, danh, sắc như những người bình
thường mà thôi.
Lúc bấy giờ thì núi van là núi, sông vẫn là sông. Nhưng
chỉ có một điểm khác biệt lớn nhất là núi, sông này được nhìn dưới cái nhìn đã
đoạn tận lậu hoặc, đoạn tận chấp thủ.
Đó là cái nhìn của bậc Thánh, của bậc giác ngộ, như lời
của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã gửi lại thông điệp ấy cho chúng ta:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế
gian này cũng không
Có, không bóng
nguyệt dòng sông
Nào ai chấp có chấp
không làm gì...
Hà Thành cuối thu.
(đăng trong Tạp chí nghiên cứu Phật học số 1 )