Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ 
của chúng ta được phát khởi từ khái niệm chủ yếu của Phật giáo và sự 
đóng góp của Phật giáo cho tư tưởng thế giới. Khái niệm chính của Phật 
giáo thường được gọi chung là Duyên khởi hoặc Duyên sinh. Hầu hết người 
ta cho rằng Phật giáo như một tôn giáo.Tuy nhiên, Phật giáo có một 
truyền thống phát triển cao của tư tưởng triết học dựa trên các nguyên 
tắc của nhân và quả (inga) và được biểu hiện trong nguyên lý Duyên 
khởi..
Giáo lý này xuất hiện trong đầu khi tôi đọc một cuộc đối thoại giữa 
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Vị Viện trưởng của tu viện Nishi Hongwanji-Koshin 
Ohtani trong một sự kiện gần đây của tạp chí Shunju Bungei (1-2008). 
Trong cuộc đối thoại này, vấn đề của Tánh Không cũng là một khái niệm 
rất quan trọng trong Phật giáo Đại thừa đã đưa ra. Đức Đạt Lai Lạt Ma 
giải thích rằng Tánh Không được dựa theo nguyên tắc của Duyên khởi. 
Koshin Ohtani đã trình bày quan điểm Đông Á về Tánh Không như là một 
nhận thức kinh nghiệm, đạt được xuyên qua việc thực hành thiền định 
trong Zen hoặc các truyền thống khác. Đây là kinh nghiệm bản thể Không 
có đối đãi. Có lẽ chúng ta có thể phân biệt các quan điểm hợp lý trong 
sự tương phản với thần bí. Trong khi nhiều người có thể không dễ dàng 
trải nghiệm trong tính không nhị nguyên, họ có thể hiểu được cơ sở hợp 
lý của Tánh Không và xuyên qua sự phản ánh nhận thức có ý nghĩa và tầm 
quan trọng hiện thời của nó đối với cuộc sống của chúng ta.
Tánh Không của sự vật được trình bày bởi  Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập 
đến sự nhận thức rằng tất cả mọi thứ trong thế giới của chúng ta là 
duyên hợp. Muôn sự có thể được phân tích thành nhiều thành phần mà nó 
làm nên. Xe Ô tô được làm từ các bộ phận khác nhau, bánh xe, động cơ 
v.v. Ví dụ, động cơ có thể được phân tích tiếp với các bộ phận của nó và
các kim loại đã làm ra nó. Các kim loại có thể được chia nhỏ với các 
yếu tố, nguyên tử, sau đó là neutron và proton hoặc những tiền tố nằm 
bên dưới thế giới quan sát của chúng ta. Cuối cùng tâm hoạt động với một
sự bí ẩn khi chúng ta không thể thâm nhập vào tính nguồn vũ trụ của thế
giới kinh nghiệm.
 
 Tuy nhiên, kết luận của Phật giáo là không 
có gì sở hữu tự bản chất tối thiểu của chính nó, nhưng tất cả mọi thứ 
phụ thuộc vào những cái khác cho sự tồn tại của nó. Vì vậy, tất cả mọi 
thứ là trống rỗng, sự trống rỗng của thực thể nội tại và giá trị nội 
tại; tất cả sự tồn tại là quan hệ. Thực thể cuối cùng của tất cả sự vật 
đó là không thể diễn đạt và bất tư nghì, do đó trống rỗng. Tất cả sự 
phát sinh xuyên qua sự hợp tác của nhiều nguyên nhân và điều kiện. Sự 
hiểu biết về các nguyên tắc Duyên khởi có cả ý nghĩa tôn giáo và triết 
học. Cho dù người ta quan sát tiến trình từ quan điểm logic hoặc kinh 
nghiệm, cả hai đều nhắm đến sự chuyển đổi đối với quan điểm của một 
người về thế giới và cuộc sống.
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học 
thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự 
tồn tại của con người và thế giới. Về mặt tích cực của Phật giáo Đại 
thừa, lý Duyên khởi làm căn bản cho giáo lý thuyên chuyển công đức , 
theo đây mỗi người chia xẻ lợi ích của hành động tốt với những người 
khác. Học thuyết về nghiệp có nghĩa là thái độ hoặc hành động và giải 
thích tình trạng của chúng ta trong cuộc đời này, trong khi lý Duyên 
sinh thúc đẩy mọi người làm việc tốt để có được công đức để đạt được 
cuộc sống tốt hơn cho bản thân và những người khác trong tương lai, 
trong tiến trình luân chuyển. Giáo pháp này được phản ánh trong câu 
chuyện của Bồ tát Dharmakara (Hozo-PhápTạng) trong truyền thống Tịnh Độ.
Những lời nguyện của Ngài nhằm xây dựng một cõi Tịnh Độ nơi mà tất cả 
chúng sinh có thể đạt được giác ngộ với sự thể hiện các nguyên tắc của 
sự tương duyên. Mỗi lời nguyện chỉ ra mối quan hệ của tuệ giác Bồ tát 
(Bodhisattava) với sự đạt được giác ngộ bởi tất cả chúng sinh. Ngài 
không thể đạt được nó trừ khi chúng sinh đạt được nó cùng với ngài. Tất 
cả chúng ta đều có sự liên đới lẫn nhau.
Phương pháp triết học với giáo pháp Duyên khởi còn được gọi là 12 mắc
xích liên kết nhân quả. Những mắc xích này phân tích sự tồn tại của con
người hoặc muôn loài như là kết quả của một quá trình bằng 12 khía 
cạnh, mô tả sự hình thành của một cuộc sống hoặc có thể quan sát một 
cuộc sống thông qua ba lần sinh. Quan điểm này rất là quan trọng bởi vì 
nó cung cấp một sự hiểu biết của tiến trình sống và tái sinh hay luân 
chuyển, cung cấp nền móng cho các giá trị và sự quyết định bằng sự hiểu 
biết các điều kiện khác nhau liên quan đến mạch nguồn sự sống.
Những mắc xích làm nhân duyên là: 1) Vô minh-ngu dốt: là sự mù lòa 
căn bản đối với sự thật của tự thân và tình trạng cuộc sống. Đó là một 
sự thiếu hiểu biết mà hôm nay chúng ta gọi là “sự từ chối”. 2) Hành: 
hành động ý chí bao gồm các sự thúc đẩy và động cơ phát sinh của chúng 
ta từ sự ngu dốt của chúng ta trong các hình thái hận thù, tham lam, 
thành kiến ... 3) Thức: nhận thức, bao gồm cả vô thức hoặc tổng thể 
của  sự nhận thức về các sự vật. Xuyên qua nhiều sự  ảnh hưởng hay những
hạt giống được lưu trữ ở đây mà chúng ta phát triển các xu hướng tốt 
hoặc xấu. 4) Danh và Sắc: Tên và  hình thể là các khía cạnh tinh thần và
thể chất của chúng ta. Đó là, cơ thể vật lý và tính cách hoặc tính đồng
nhất. 5) Lục nhập: sáu năng lực của giác quan: tâm và năm giác quan vật
lý. 6) Xúc: Sự liên hệ xuyên qua các giác quan với các đối tượng. 7) 
Thọ: Cảm giác hoặc nhận thức và kinh nghiệm đối với mọi điều. 8) Ái:  là
tham muốn, bắt nguồn từ cảm giác của chúng ta, vì kinh nghiệm lặp đi 
lặp lại chẳng hạn như chúng ta không có thể chỉ ăn một khoanh mỏng của 
khoai tây. 9) Thủ: bám hoặc nắm bắt và dính chặt. Chúng ta không thể 
buông bỏ. 10) Hữu:Trở thành là ước muốn sâu xa cho cuộc sống, phản chiếu
trong những sự phấn đấu của chúng ta bằng việc tự bảo tồn. 11) Sinh: Sự
sinh ra hoặc tái sinh. 12) Lão tử:  Tuổi già (Decay) và cái chết, quá 
trình bắt đầu lúc mới sinh và trở nên rõ ràng hơn như thời gian-vô 
thường-sự tiếp tục.
Theo tiến trình này, chúng ta bị ảnh hưởng bởi những ảo giác và sự 
thiếu hiểu biết cơ bản và do vậy chúng ta mù lòa đối với thực tại đích 
thực. Đó là chúng ta không thể nhìn thấy sự vật như chúng thực sự là. 
Chúng ta biết rằng các giác quan của chúng ta có thể bị lừa gạt như 
trong ảo giác quang học. Kết quả là, chúng ta phát triển những cảm giác 
sâu sắc của tham lam, hận thù và thành kiến, bản chất ích kỷ căn bản của
chúng ta. Xuyên qua ý thức nằm dưới và các hoạt động của tâm chúng ta 
và các giác quan của chúng ta, chúng ta thể hiện hành động trên thế 
giới, tạo ra khổ đau hay tốt đẹp. Chúng ta bám vào những điều mà chúng 
ta nghĩ rằng có lợi ích cho cái tôi của chúng ta hoặc bảo vệ nó. Do đó, 
chúng ta khởi tưởng một sự tham muốn sâu xa để tiếp tục cuộc sống của 
chúng ta (trở thành). Nghiệp được tạo ra thông qua quá trình này dẫn đến
sự tái sinh kế tiếp và chu kỳ của sinh-lão và tử. Tất cả chúng sinh 
trải qua tiến trình này cho đến khi họ tìm đường ra khỏi bánh xe luân 
chuyển hoặc con sông của sinh và tử, được gọi là vòng luân hồi trong 
giáo lý Phật giáo.
Giáo lý về Mười hai nhân duyên thúc đẩy sự  nỗ lực tìm kiếm cho sự 
giác ngộ để nhận ra sự giải phóng từ tiến trình này. Việc phân chia 
thành ba đời sống: quá khứ, hiện tại và tương lai biểu lộ rằng sự nô lệ 
tinh thần của chúng ta tiếp tục tái sinh trong quan điểm của Phật giáo 
về luân hồi. Trong sự giảng dạy truyền thống, vòng luân chuyển không kết
thúc với ba chu kỳ. Thay vào đó, nếu tình dục và sự thiếu hiểu biết của
chúng ta chi phối tính chất của chúng ta trong cuộc sống thì tiến trình
đau khổ tiếp tục. Sự đa dạng của các truyền thống Phật giáo đã cung cấp
các đạo lộ để giúp chúng ta vượt qua tiến trình này và trở thành giác 
ngộ, đạt được niết bàn hay Phật tánh.
 
 Nó cũng đưa ra một sự 
nhận thức thúc đẩy cuộc sống cá nhân của chúng ta. Phật giáo dạy rằng đó
là một sự kiện hy hữu khi được sinh ra làm một con người có được khả 
năng quyết định và thực hành giáo lý và đi đến giải thoát. Phương hướng 
triết học của giáo lý tập trung sự chú ý rằng không có gì có giá trị 
trong và của chính nó. Tất cả mọi thứ là ghép hợp và là vô thường. Tất 
cả mọi thứ đều trải qua một quá trình thay đổi, rõ ràng nhất trong cuộc 
sống của chính chúng ta. Bởi vì mọi thứ đã không có giá trị thiết yếu, 
sự mong muốn và bám víu của chúng ta gây cho chúng ta nhiều đau đớn khi 
chúng ta gặp phải một cái gì đó mà chúng ta không thích hoặc mất một cái
gì đó chúng ta quí báu. Sự hiểu biết về bản chất thay đổi sẽ hỗ trợ 
chúng ta trong việc xây dựng đời sống tinh thần.
Một cách triết lý hơn, học thuyết này biểu hiện Tính không hay bản 
chất rỗng tuếch của tất cả mọi thứ. Học thuyết này áp dụng đối với lịch 
sử hoặc tự nhiên, nó chỉ ra rằng tất cả chúng ta là duyên sanh, là những
con người thuộc về lịch sử, cũng như các nền văn hóa và văn minh của 
chúng ta, chúng nó không phải là tuyệt đối có giá trị và được duy trì 
nếu không có óc phê bình. Trong sự kết nối với thiên nhiên, Phật giáo là
tương thích với khoa học, bởi vì nó hiểu được nguyên tắc nhân quả và 
bản chất phát triển của sự vật. Tất cả sự thực là một dòng chảy có năng 
lượng cần thiết xuyên qua tiền tố nhỏ nhất, hoặc làn sóng trong sự phân 
giải của vi mô khoa học, hay sự tiến hóa của sự sống và sự nới rộng của 
vũ trụ trong thế giới vĩ mô.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc này nhấn mạnh tính chất phụ thuộc 
lẫn nhau của quan hệ xã hội cũng như sự bổ sung đối với tất cả cuộc sống
và sự việc thực tế. Ở Trung Quốc, biểu tượng Âm và Dương của Đạo Lão 
cũng thể hiện nguyên tắc này. Với sự bổ sung của Âm và Dương, Dương cũng
có trong Âm và Âm cũng ở trong Dương, được hiển thị bằng một dấu chấm 
nhỏ trong các lĩnh vực tương ứng. Các hình thức vòng tròn cho thấy phía 
này chảy vào phía khác, tạo ra nhiều sự biến chuyển đối với thực tế.
Sự tương duyên cũng  cho thấy sự hỗ tương cần thiết cho quan hệ con 
người hiệu có quả và tích cực. Tất cả chúng ta được kết nối với nhau. 
Giáo lý Phật giáo cung cấp một nền tảng cho cuộc sống và cộng đồng xã 
hội, kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiến trình này bao hàm sự 
 tôn kính tổ tiên cũng như sự quan tâm cho các thế hệ tương lai.
Hình tướng và sự hiểu biết về Duyên khởi sẽ đưa đến việc thu nhỏ 
những sự méo mó của chủ nghĩa cá nhân hung hãn và quan điểm cạnh tranh 
hống hách của chúng ta trong xã hội phương Tây. Nó cũng sẽ vượt qua hình
ảnh xung đột đã định hình xã hội phương Tây, chúng ta phải có một kẻ 
thù và luôn luôn có chiến thắng. Học thuyết Nhị nguyên của văn hóa 
phương Tây, thiện và ác, xác thịt và linh hồn là tự chuốc lấy thất bại 
cuối cùng.
Tựu trung, tầm quan trọng của giáo lý Duyên khởi có thể được nhìn 
thấy trong các lĩnh vực khác nhau của sự ứng dụng, tôn giáo, hay triết 
học. Nó là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh đã 
viết: "Tất cả các giáo lý của Phật giáo là dựa trên lý Duyên khởi, Nếu 
một sự giảng dạy không phù hợp với nguyên tắc Duyên khởi, nó không phải 
là lời dạy của Đức Phật "(Thích Nhat Hanh: "The Heart of the Buddha's 
Teaching-The Two Truths.")
Tiến sĩ Alfred Bloom, Giáo sư danh dự ngành Tôn Giáo, Đại học Hawaii
 Thích nữ Tịnh Quang chuyển ngữ