Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và
Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u
huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ
hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực
thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai
đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn
nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các
tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện
của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc
là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu
trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng
của nhau.
Với tư cách là một thành viên của Phật giáo, chúng ta đã có suy nghĩ
gì về những lời bàn luận trên? Thiết nghĩ, muốn hiểu được, có lẽ chúng
ta phải hiểu được bản chất triết học của Bà-la-môn là gì. Nhưng bằng
cách nào? Ở đây, người viết xin thông qua những phạm trù nhận thức căn
bản nhất của Phật giáo để xem Bà-la-môn giáo đã được hiểu như thế nào?
Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định của một bài viết – không phải là
một bài khảo cứu chuyên nghành – nên sự cho phép ở đây chỉ được giới
hạn trong những điểm cơ bản nhất mà người viết cho rằng thật cần thiết
để đánh giá về một trào lưu tư tưởng đã có quan hệ sâu đậm đối với Phật
giáo trong suốt chiều dài lịch sử.
Sơ lược về tư tưởng Bà-la-môn giáo
Nói đến Bà-la-môn giáo là nói đến cả một hệ thống tôn giáo bao gồm cả
hai mặt: Tôn giáo tính và triết lý tính vô cùng đa dạng và phức tạp.
Nếu căn cứ vào sự tịnh tiến theo chiều ngang của thời gian, Bà-la-môn
giáo được xem là sự tích hợp của một quá trình đi lên và trưởng thành
của dân tộc Ấn, mà trong đó, các thế hệ đi qua luôn là tiền đề để cho
người sau kế tục. Có lẽ chính vì vậy mà nhà nghiên cứu văn hóa Ấn
Macdonell đã nhận xét: “Ngoài Trung Quốc ra, không còn nước nào trên thế
giới có thể tìm được nguồn gốc ngôn ngữ, văn học, tín ngưỡng và lễ nghi
tôn giáo cùng những tập tục tập quán xã hội của mình qua một sự phát
triển không ngừng trong hơn 3000 năm như ở Ấn Độ”.
Thật vậy! Kể từ khi thiết lập nền văn hóa Veda tại vùng Ngũ Hà rồi
tiến xuống định cư tại vùng đồng bằng Ấn – Hằng, người Aryen đã từng
bước xây dựng một Ấn Độ hết sức đặc sắc mà trước hết là sự hình thành
nên các bộ Veda để làm nền tảng. Từ những gì còn được biết ngày hôm nay
cho thấy rằng sự phát triển tư tưởng Ấn được đánh dấu bằng sự ra đời của
các bộ kinh Veda (1000-600 B.C) gồm Rig-Veda, Sama-Veda, Yajur-Veda,
Athava-Veda, sau đó nhờ sự khai triển của các thế hệ người Aryan mà các
bộ sớ giải lần lượt ra đời cùng với sự phóng thích nguồn tư tưởng đã
được ẩn chứa trong đó. Chẳng hạn như sự ra đời của Brahmanas (1000-800
B.C) giải thích những nghi lễ trong Veda. Nó có nhiệm vụ giải thích tại
sao một người Bà-la-môn phải làm như vậy.
Bộ Àranyaka (600-200
B.C) lại giải thích và phụ chú về bộ Brahmanas. Cuối cùng là những bộ
Upanishads (800-500 B.C), đây là phần tinh hoa nhất của giáo lý Veda. Nó
ẩn chứa nhiều thông tin liên quan dến triết học của Bà-la-môn. Chính sự
hoàn thiện của Upanishads đã làm chỗ y cứ để các thế hệ của Veda giáo
triển khai. Hầu như mọi kiến giải về nó được xem là vô tận. Mỗi thời sẽ
có những bậc đạo sư khác thừa kế và mở rộng. Kết quả là có vô số các tập
giải thích và đã được hệ thống trở lại thành những pho mà ngày nay nó
vẫn còn được người Ấn coi đó là một trong những công trình vĩ đại của
toàn tri thức Ấn. Cho nên, có thể nói không quá rằng, nguồn cảm hứng của
sự phong phú trong tư tưởng Ấn Độ chính là ở đây.
Theo Chandradhar Sharma, tiến sĩ triết học trường Đại học Banaras
Hindu, trước khi Upanisads ra đời, các bộ Veda ít mang tính triết học.
Nó chủ yếu được hình thành từ lòng sùng kính đối với tín ngưỡng thần
linh. Nội dung của các bài ca trong Rig-Veda cho thấy, đời sống tinh
thần của người Ấn vẫn còn rất phức tạp nhưng lại đang ở trên bình diện
của sự sơ khai, ít nhất là cho đến lúc người Aryen định cư tại Ấn Hằng.
Những thắc mắc giản đơn về thế giới tự nhiên đã đem đến cho họ những
kích thích nhất định.
Tuy nhiên, sự hoảng sợ trước sức mạnh của
thiên nhiên đã buộc họ phải quan niệm rằng đứng đằng sau các hiện tượng
kia phải là một thế lức có sức mạnh ghê ghớm. Và thế là khái niệm thần
linh ra đời, nó trở thành một thế giới quan chung nhất cho tất cả thành
viên của Veda giáo. Sự ra đời quan niệm thế giới thần linh được mở rộng
về số lượng và vai trò của các vị thần đối với đời sống con người. Chính
điều đó làm cho nó trở thành một tôn giáo của đa thần. Dần dần, với sự
góp mặt của sự tiến bộ nhận thức, thế giới thần linh được đẩy lên bình
diện cao hơn, đó là xu hướng về siêu hình học và triết lý thần học mà
điển hình là các khái niệm về Purusa - chúa tể các vị thần. Từ căn bản
này, Upanisads đã phát triển lên biểu tượng Đấng sáng tạo-Brahman.
Tuy
nhiên, sự hình thành đấng tối cao của Veda giáo không được hiểu theo
nghĩa tập quyền về tay của Đấng tạo hóa mà phải được xác định ở sự biểu
hiện thông qua hình ảnh các vị thần khác của Ấn giáo. Nói như Mark
Muller thì thay vì đi tìm khái niệm cho một đấng tối cao, Veda đã tôn
kính đấng sáng tạo dựa trên sự tôn kính các vị thần khác. Cho nên
Chandradhar Sharma kết luận rằng không có sự phát triển từ Đa thần sang
Đơn thần rồi đến Nhất nguyên luận của Upanisads mà nó là sự thống nhất
tư tưởng từ các Mantra đầu tiên sang Upanisads, nghĩa là nó là sự tiến
bộ từ quan niệm hình tượng sang tư tưởng triết học.
Điều này
thật rõ ràng khi ta biết rằng giữa những hệ thống lễ nghi phức tạp của
tập Bràhmana là sự hiện hữu của vô vàn các triết lý mà các tập Upanisads
đã hệ thống một cách đáng khâm phục. Mối quan hệ giữa Mantra và
Upanisads luôn là một biến số mà trong đó kết quả lại đưa về nhất nguyên
luận với các tập Upanisads là đỉnh cao chứa đựng những tư tưởng này.
Như nhà hiền triết Narada đã hỏi Sanatkumàra: Thưa ngài, tôi biết
Rig-Veda, Yajuh,... Với tất cả điều này giúp tôi hiểu các Mantra và
những cuốn sách thánh, nhưng tôi không biết về cái Tôi bản ngã.. Tôi
nghe nhiều người như Ngài nói rằng, chỉ những ai biết được cái Tôi này
mới thoát khỏi ưu phiền. Hay như Munkada đã nói: “Có hai loại tri thức
mà con người phải thấu hiểu... Loại tri thức thấp là những gì mà
Rig-veda, Yajur,... mang đến, còn tri thức cao chỉ Brahman bất tử mới
biết”.
Như vậy, đi tìm bản chất của bản ngã cùng các quy luật của nó chính
là nội dung mà bao thế hệ Veda đã và đang nỗ lực xây dựng nhằm hoàn
thiện thiên chức thiêng liêng mà Đấng tối cao Brahman đã giáo phó. Và
cũng từ những quan kiến về Bản ngã này mà toàn bộ hệ thống triết lý
Bà-la-môn giáo được hoàn thiện. Nói khác hơn, triết học Bà-la-môn lấy tư
duy hướng ngã làm cơ sở. Đây chính là phạm trù căn bản để từ đó cho
phép chúng ta nhận xét về những đặc tính mà các tư tưởng khác hoặc là kế
thừa, hoặc là phản đối.
Mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo
Cùng bắt nguồn trên mảnh đất của triết lý, lẽ tất nhiên Phật giáo và
Bà-la-môn giáo không thể nào không có những mối quan hệ sâu đậm được.
Nhưng, đó là quan hệ gì? Từ xưa đã có rất nhiều ý kiến, nhận xét được
đưa ra để biện giải cho vấn đề này. Trong đó, với mục đích phân biệt rõ
hơn về hai trào lưu tư tưởng mà đã có ý kiến cho rằng Phật giáo là một
trào lưu độc lập và đã phủ nhận sự minh triết của Bà-la-môn giáo tồn tại
trong Phật giáo. Ngược lại, cũng có người khi nhìn thấy những điểm
chung nhất giữa hai giáo phái đã vội cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp
đỉnh cao của Bà-la-môn giáo. Nói khác hơn, một bên nỗ lực tách riêng còn
một bên cố gắng đưa đến sự hợp nhất mà trong đó cả Phật giáo và
Bà-la-môn giáo chỉ là hai mặt của tư tưởng Ấn.
Tuy nhiên phủ nhận hay khẳng định sự chính xác của một hoặc hai xu
hướng trên không phải là vấn đề ở đây. Vì sao? Vì nếu là phủ nhận hoặc
khẳng định thì điếu đó đã cho thấy rằng nó ít nhiều không khỏi có sự
hiện hữu của sự phiến diện. Nó có thể xuất phát từ những tự ái cá nhân
hoặc tự ái tôn giáo để rồi đưa đến sự thiếu khách quan trong nhận định.
Cho nên, ở đây, mối quan hệ tác động sẽ là đối tượng để chúng ta đề cập.
Lịch sử đã cho thấy rằng, Phật giáo xuất phát chậm hơn các trào lưu
tư tưởng của Bà-la-môn giáo. Nói cho chính xác thì khi Phật giáo ra đời,
nền triết học Bà-la-môn giáo đã đạt đến đỉnh cao của nhận thức tính và
nó đang đi vào sự suy sụp do khuynh hướng của tôn giáo hình thức chi
phối tính triết lý hàm súc trong văn học Veda. Trong khung cảnh sa sút
ấy, Phật giáo ra đời và được xem là sự cải cách lớn nhất đầu tiên trong
lịch sử tư tưởng Ấn. Mọi giá trị của Bà-la-môn giáo đã được xem xét lại
khi thời bấy giờ Phật giáo đưa ra nhiều kiến giải mang tính đột phá cao.
Chẳng hạn, chỉ bằng vào sự phủ nhận tính thực hữu của bản thể Brahman
và thay vào đó là tự tính vô hữu ngã thôi, Phật giáo gần như đánh đổ cả
hệ thống giáo lý của Veda, ít nhất là trên bình diện triết học. Ngoài
ra, ở các phạm trù khác đều tìm thấy những dấu vết của sự bất đồng của
Phật giáo đối với Bà-la-môn giáo.
Thế nhưng, nếu căn cứ vào đó mà cho rằng Phật giáo không có sự liên
hệ nào cả với Bà-la-môn giáo thì chưa chính xác. Vì, khi đi sâu vào nội
dung của Phật giáo ta rất dễ dàng tìm thấy nhiều yếu tố của Bà-la-môn
giáo mà chính xác hơn là của Veda. Và điểm chung nhất mà ta có thể tìm
thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật giáo so với Bà-la-môn giáo là sự xu
hướng của quan niệm là tư tưởng luân hồi khổ đau và tìm cầu giải thoát.
Có thể nói đây là hai phạm trù không riêng gì giáo phái nào mà hầu như
tất cả những trào lưu tư tưởng Ấn đều đặc biệt quan tâm và luôn tìm cách
tiếp cận. Và do xuất phát từ xu hướng đó mà gần như những danh từ,
những thuộc tính, những phương pháp thi thiết của cả hai giáo phái đều
có biểu hiện cho thấy nó rất gần gũi mà đã không ít người gần như không
còn phân biệt được đâu là của Phật giáo, đâu là của Bà-la-môn giáo. Về
điểm này, Kimura Taken đã nhận xét như sau:
Khi Phật đối đáp với người Bà-La-Môn, Ngài không thể gạt hẳn tín
ngưỡng của họ ra một bên; vả lại, đứng trên lập trường thần thoại mà nói
thì Phạm Thiên cũng luôn luôn được biểu hiện trong Phật giáo, lý do
chính là ở đó. Hơn nữa, theo sự suy định của tôi, tín ngưỡng Văn Thù,
Quan Âm của Đại thừa Phật giáo sau này phần lớn cũng do thần thoại Phạm
Thiên mà ra, về sau đã đóng vai trò rất trọng yếu trong Phật giáo về mọi
phương diện. Do đó khi nói đến Phạm Thiên là vị nhân - cách - thần
trung tâm ở thời đại Phật đã hàm ngụ một ý nghĩa rất trọng yếu trong bề
mặt nghiên cứu Phật giáo sử Ấn Độ.
Một điểm nữa cho thấy rằng
tư tưởng Phật giáo có quan hệ gần gũi với Bà-la-môn giáo, đó là việc Đức
Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo chủ khai sáng Đạo Phật, là một người được
giáo dục trong môi trường của Veda. Từ khi sinh ra, lớn lên và thậm chí
cả khi đi xuất gia tu hành, ngài cũng trang bị cho bản thân bằng những
kinh nghiệm đã được hấp thu từ nền giáo dục của truyền thống Veda. Sự
tham cầu học và đạt được những kết quả tối cao trong phương pháp của hai
đạo sĩ A-la-la và Uất-đầu-ca, sự tìm cầu giải thoát bằng đường hướng
khổ hạnh khốc liệt,... đã cho thấy rõ điều đó. Và mặc dầu, khi đã giác
ngộ được con đường giải thoát hoàn toàn khác với giáo lý Veda, nhưng để
diễn đạt được những gì mà ngài đã tìm được sau hơn 6 năm tìm kiếm đến
với chúng sanh thì bắt buộc ngài phải sử dụng những thuộc từ phổ thông
cho dù theo truyền thống của Veda thì nó có thể được hiểu ở nghĩa khác.
Tóm lại, từ những sự tương đồng và dị biệt cơ bản trên cho thấy giữa
Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự liên hệ hết sức mật thiết về cả
ngôn ngữ lẫn tư tưởng triết lý. Chỉ có điều cần phải nhắc lại rằng, bất
cứ sự đánh đồng nào giữa hai tư tưởng này đều không có nghĩa là nó thuộc
về nhau. Vì sao? Vì ngay trong mục đích căn bản mà mỗi xu hướng đều cho
thấy nó hoàn toàn không phải là một hay có sự vay mượn nào cả, ngoại
trừ sau này, khi Hindu giáo được chấn chỉnh thì mới có sự tổ hợp một số
tư tưởng phi Veda, như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo. . . được
đưa vào và giải thích theo phong cách của Hindu để có thể hiểu được như
là một khía cạnh chính thống của Veda. Một Phật giáo chủ trương vô thật
ngã và xây dựng nền đạo học trên cơ sở ấy, còn một bên là Bà-la-môn giáo
thừa kế tư tưởng đề cao Bản Ngã tuyệt đối và tìm cách lý giải về điều
đó thì làm sao có thể là một hay vay mượn tư tưởng được. Và nếu có đi
nữa thì cũng chỉ là giao thoa trên bình diện ngôn ngữ mà thôi.
Bà-la-môn giáo với hiện tượng luận Phật giáo
Xuất phát từ một nền triết học mang nặng thiên hướng tâm linh nên lẽ
tất nhiên các giá trị về vũ trụ hiện tượng không phải là đối tượng đáng
được các nhà hiền triết của Veda chú ý. Bởi lý do đó mà mặc dù Ấn Độ đã
có lịch sử lâu đời, và họ cũnh chính là người đã đóng góp những phát
minh quan trọng nhưng sự chuyên sâu trong những lĩnh vực về vũ trụ hiện
tượng nhưng vẫn không thể nào bì được với các nền văn hóa phương Tây. Đó
chính là một hạn chế nhất định của văn minh Ấn vậy.
Thế nhưng, bù lại, nền triết học Ấn lại giúp cho nhân loại khám phá
được những quy luật của hiện tượng. Chính những quy luật này, thông qua
cách triết lý của Ấn Độ, nó đã hình thành nên những quan niệm về thế
giới hiện tượng mà trong đó trục xoay chính là con người và đời sống của
họ. Riêng Bà-la-môn giáo còn đi xa hơn khi đã tạo nên một khung cảnh vũ
trụ mà trong đó nó chịu sự đạo diễn bởi các thần linh. Chính các thần
linh này khi đã được hình tượng hóa thì đã lộ rõ một bức tranh của cuộc
sống con người không hơn không kém.
Và có lẽ dựa trên nền tảng
này mà Upanisads đã để cho Atman - đại diện cho con người – được đồng
nhất tính với Brahman – biểu trưng cho vũ trụ. Sự đồng nhất này, trước
hết vẫn là một biểu tượng vị nhân của triết lý Ấn. Trong Chàndoya
Upanisad, đạo sĩ Uddàlaka trả lời Svetaketu: “Như vậy, con ơi! Cái thực
thể tế vi mà con không nhận thức được, chính nhờ cái thực thể tế vi ấy
mà cây lớn này đã mọc và tồn tại được. Con ơi! Con hãy tin rằng, cái
thực thể tế vi ấy tràn ngập trong toàn thể vũ trụ. Đấy là chân lý. đấy
là Tự ngã. Cái ấy là Con, hỡi Svetaketu”.
Như vậy, đứng trên lập trường nhân sinh để quy định tính chất vũ trụ,
Bà-la-môn giáo đã diễn dịch một hệ thống vũ trụ to lớn nằm trọn trong
tiểu vũ trụ là con người. Một điều thú vị là Phật giáo cũng nhất trí
rằng vạn pháp đều do tâm con người biểu hiện. Tư tưởng này từ lâu đã nổi
tiếng với câu kệ của kinh Hoa Nghiêm:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy Tâm tạo.
Nói cách khác, sự nhất quán về nhân sinh chủ quan giữa Bà-la-môn giáo
và Phật giáo là một sự thật không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nếu như
Bà-la-môn giáo với đặc trưng là tư tưởng Veda đã cho sự cấu thành của
hiện tượng nằm trong những quy luật của thần thánh thì sự khác biệt của
Phật giáo lại thuộc về quy luật nhân duyên. Atharva Veda nói: “... Chỉ
hơi thở của Người đủ thành sinh khí cho toàn đại vũ trụ, đủ tạo nên vạn
vật, sự chi phối hoàn bị đến độ đều nằm sẵn trong từng cá thể vi ti nhỏ
nhặt nhất”. Trong Yajur Veda cũng bảo rằng: “... Vạn vật phát hiện tự
nơi ngài và vũ trụ đã có sẵn trong ngài.... cũng như cây sồi có sẵn
trong hạt sồi, cũng như trái cây có sẵn trong mầm hạt cây, sẵn sàng nảy
nở và phát triển, muôn vật hữu hình đã có sẵn ở Brahman và mọi mầm mống
đều phát sinh tự nơi Ngài”. Ngược lại những quan niệm đó, kinh Phật Tự
Thuyết, nguyên lý Duyên khởi được Thế Tôn tóm tắt:
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Quy luật nhân duyên là mối quan hệ chính yếu mà Phật giáo đề cập khi
biện giải về hiện hữu hữu thể. Nó cho biết rằng tất cả các hình thái
biểu hiện của hiện hữu đều nằm trong một tổ hợp và các giá trị trong tổ
hợp đó hoàn toàn không được khẳng định ở sự thực hữu, mà ngược lại nó
mang trên mình những biến thiên nhất định tùy thuộc vào những điều kiện
có liên quan.
Trong Bà-la-môn giáo, sự khắng khít theo quy luật
nhân duyên không phải là không được tìm thấy. Nếu như trong Phật giáo,
sự liên hệ nhân duyên đưa đến các biểu tướng sanh, trụ, dị, diệt thì
trong Bà-la-môn giáo sự biểu hiện đó lại thuộc về ba ảnh dụ của ba vị
thần Brhamas - tượng trưng cho sáng tạo (sanh), Vishnu - vị thần bảo hộ
(trụ và dị) và Shiva - vị thần hủy diệt (diệt). Chính sự đấu tranh của
ba vị thần này cho thấy rất rõ về quy luật tác động lên nhau của
Bà-la-môn giáo khi quan niệm về hiện tượng là nguyên lý thứ hai tồn tại
song song với nguyên lý tối cao thứ nhất.
Và gần như một quy
tắc, chính sự tranh đấu trong nguyên lý thứ hai mà thế giới hiện tượng
được liên tục hình thành và biến chuyển. Chỉ có điều, sự biến chuyển
này, theo Veda giáo thì con người không thể thấu triệt được bản chất của
nó, vì đơn giản là nó thuộc về những quy tắc của nguyên lý tuyệt đối,
mà đã là như vậy thì hiển nhiên chỉ có Brahman mới có đủ thẩm quyền để
biết mà thôi. Sự triết lý như thế thì những quy luật thần thánh chính là
cơ sở để có thể thuyết minh về hiện tượng, mặc dầu nó vẫn đi theo quy
luật của nhân duyên.
Phật giáo thì khác hơn khi xác nhận sự vận động trong phạm vi của
luật nhân duyên, các hiện hữu không được hiểu là do một năng lực tiên
nghiệm nào sáng tạo và duy trì. Nó là kết quả của các năng lực được tích
hợp từ vô số các trạng huống mà các nhân duyên đã không ngừng vận động.
Bản thân của các yếu tố được gọi là nhân, là duyên lại một lần nữa
không có các thực hữu thể. Và Phật giáo kết luận Không tánh là thực tánh
của các pháp. Đức Phật đã hơn một lần khẳng định về điều đó:
Chư Phật, Lưỡng Túc Tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùy duyên sanh
Thị cố thuyết nhất thừa.
Vì là không tánh nên quy luật nhân duyên được vận hành và trở thành
năng lực chi phối sự vận động của các pháp. Sự chuyển vận này làm kéo
theo các hệ quả mà sanh trụ dị diệt, có, không,… là những biểu tướng
phải có.
Thế nên, trên bình diện tổng quát, hiện tượng luận của
Bà-la-môn giáo vẫn được hiểu bằng quy luật nhân duyên của Phật giáo.
Nhưng sự khác biệt vẫn nằm ở bản chất nền tảng của Bà-la-môn giáo được
quy nạp vào quy luật thần tính và sự bất khả tri của con người. Chính
điều đó làm cho sự vận động mất đi tính khách quan vốn có và đưa nó trở
thành phụ thuộc vào ngoại tại tuyệt đối. Đây là điểm khác biệt rõ nhất
khi Phật giáo chủ trương các pháp vận động phụ thuộc vào chính những
điều kiện nằm trong hệ quy chiếu mà nó đang hiện hữu. Thiết nghĩ, khi so
sánh về phạm trù ấy, chúng ta chắc hẳn phải lưu ý đến điểm này.
Bà-la-môn giáo và Bản thể luận Phật giáo
hư đã nói ở trên, thế giới hiện tượng trong Bà-la-môn giáo chẳng qua
cũng chỉ là biểu hiện của bản thể Brahman, sự xu hướng về Thực thể Tiên
nghiệm đã làm cho nó hoàn toàn đồng nhất tính với nguyên lý tuyệt đối và
không bao giờ đi ra khỏi sự chi phối của nguyên lý đó. Advaita Swami
Dayananda, đạo sĩ nổi tiếng của Advaita Vedanta, một hình thức cách tân
của Bà-la-môn giáo, đã tán dương như sau:
Cả thế giới vũ trụ chỉ là Một. Cái Một đó là Brahman và cái Một đó là
đơn nhất và toàn bộ chứ không phải được cấu thành bằng những bộ phận
hay yếu tố nào hết. Đó là Brahman, cái tuyệt đối. Và bản thân anh, người
đang tìm tòi Brahman cũng là Brahman. Bởi lẽ Brahman khác biệt với anh
thì Brahman sẽ không còn là Brahman nữa, và sẽ là nhị nguyên, không phải
nhất nguyên. Anh sẽ là chủ thể và Brahman là khách thể. Anh không còn
là cái toàn bộ (the Whole).
Triết thuyết Advaita bắt nguồn từ
các Thánh điển Vedas, mà truyền thống xem là sách thần khải, được trao
truyền cho các bậc minh triết thời xưa, gọi là rishis. Sách Upanisads là
bộ phận kết thúc của thánh điển Vedas, không những bàn luận về Brahman
mà còn giảng dạy một cách có hệ thống về Brahman nữa… Theo tôi, nghiên
cứu thánh điển Upanisads chính là phương pháp trực tiếp để thành tựu cái
Ta chân thật, tức Atman, cũng tức là Brahman. Và thành tựu cái Ta thật
tức là phát hiện cái Ta thật đó chính là cái toàn bộ, là Thượng đế, là
cội nguồn của tất cả.
Theo Chandradhar Sharma phạm trù Brahman được hiểu theo hai nghĩa.
Một, nó được xem là sự rộng lớn, hiểu thấu tất cả, bao hàm tất cả các
tính chất tốt đẹp – Saprapancha, Saguna và Savishesa. Nó được
Shankaràchàrya cho là thuộc về thượng đế hữu hình hay là Brahman cấp
thấp. Ngược lại, nghĩa thứ hai cho rằng, Brahman là tầm thường, không có
gì đặc biệt, mơ hồ không rõ ràng, và nó được xem là lý tánh tuyệt đối.
Nếu như ý nghĩa về Thượng đế là biểu trưng cho quan niệm vật chất của
cái tuyệt đối thì ý nghĩa tuyệt đối lại là bản thể của hiện tượng.
Cả
hai đan xen vào nhau, như là Một mà không phải một; tuy không phải một
nhưng chính là Một. Nhưng làm sao để có thể từ một cái bản ngã Atman mà
lại đồng nhất với đại ngã Brahman? Câu trả lời đơn giản chỉ ví cả bản
ngã lẫn đại ngã đều thuộc về những biểu hiện của cái tuyệt đối mà thôi.
Sự nhận biết cái tuyệt đối bằng Ý thức tự ngã là việc bất khả thi và là
một điều kiêng kỵ của người Bà-la-môn mỗi khi phải lý giải về điều này.
Cho
nên có thể thấy rằng, sự đồng nhất tất cả hiện tượng là kết quả của một
Brahman duy nhất. Từ đó, mọi sự khu biệt dù đang ở dạng nào thì nó vẫn
chỉ là sự biến động về hiện tượng nhưng trong sâu thẳm của tuyệt đối, nó
vẫn cứ là một phần không thể thiếu của quy luật đồng nhất tính. Đây
chính là cơ sở mà theo Giáo sư Lương Duy Thứ nhận định rằng, nó là của
tất cả nguyên lý khác thuộc triết học Bà-la-môn giáo.
Riêng Phật giáo, quan niệm Bản thể luận chỉ thật sự được chú trọng
khi trào lưu phân hóa tư tưởng đã bước vào đỉnh cao. Chính trong thời
đại đó, các phạm trù triết học Phật giáo như Duyên Khởi, Tánh Không,
Chân Như, Niết Bàn,… được đẩy mạnh về phương diện triết lý hóa và làm
xuất hiện nhiều luận giải có giá trị và ảnh hưởng rất lớn cùng các bậc
luận sư nổi tiếng một thời như Mã Minh, Long Thọ, Vô, Trước, Thế
Thân,... Từ trong trào lưu đó, bản thể luận của Phật giáo, đặc biệt là
truyền thống Bắc truyền, đã giải thích và biện luận về con đường được
các nhà Đại thừa xem là phản ánh chân chính những lời dạy của Phật.
Nó
cho rằng, các pháp không phải chỉ được biểu hiện bằng sự vô thường,
khổ, không như lập luận của Tiểu thừa Phật giáo, mà còn có khả năng được
thể nhập nếu đương sự siêu vượt được khái niệm về tính tương đối và
tuyệt đối của vạn vật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng: Nhữ đẳng
Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà
huống phi pháp . Nghĩa là: Này các Tỳ Kheo, các ông phải biết rằng, pháp
của Như Lai nói ra giống như chiếc bè qua sông vậy. Chánh pháp còn phải
“bỏ” huống gì là không phải chánh pháp.
Sự siêu vượt này còn được đề cập trong rất nhiều kinh luận khác nhau.
và có điều thú vị là hình như điều đó có mối quan hệ nào đó khi ta so
sánh với tư tưởng về bản thể luận của Bà-la-môn giáo ở trên. Điều này
cũng được Kimura Taken tán đồng rằng:
Phật giáo tuy không thừa nhận Thần và Phạm là thật tại hình nhi
thượng nhưng trên thực chất, lại có cái khí vị tự giác và an lập hình
nhi thượng học: “Ta là Phạm”(Aham Brahmàsmi) và “cái ấy là ngươi”(Tat
tvam aci) của Áo-Nghĩa-Thư; và Phật tự xưng là Phạm Thân(Brahmakaya) và
Phạm Thành(Brahmabhuto) lý do cũng chính là ở đó. như vậy, ta thấy, một
mặt Phật giáo đối kháng Bà-la-môn, mặt khác lại dùng ngôn ngữ của
Bà-la-môn giáo để biểu minh sự tự giác có tính chất hình nhi thượng...
Sau này, tư tưởng Pháp Thân dần dần đã mang đầy đủ ý nghĩa hình nhi
thượng học chính là đã lấy tư tưởng trên làm bối cảnh.
Tuy nhiên, sự giống nhau về các phạm trù được xu hướng là điều dĩ
nhiên một khi nó đã được đẩy lên bình diện của sự siêu vượt khái niệm.
Trong hệ quy chiếu mà không còn có trục xoay, hay nói đúng hơn là không
còn chỗ trụ – như Kinh Kim Cang đã nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” -
thì tất cả sự so sánh đều không còn có ý nghĩa. Và chúng ta có thể gọi
nó là gì cũng được hoặc là Brahman hay Phật tánh, Chân Như, Thiên chúa
hay Đạo,... thì nó vẫn không vì thế mà bị đặt để vào trong sự bất đồng
của chúng ta. Điều quan trọng ở đây chính là phải nhận biết được rằng,
với Bà-la-môn giáo, quy tắc đồng nhất giữa bản thể và hiện tượng được
quy định bởi tư tưởng thật hữu và tất nhiên phương cách đưa ra vẫn chủ
yếu là sự hướng về, trở về với thực hữu tuyệt đối ấy.
Còn trong Phật giáo, sự đồng nhất lại chính là sự nhận ra chứ không
phải trở về. Vì sao? Vì Đức Phật đã khẳng định rằng: “Các ngươi là Phật
sẽ thành/ Ta đây là Phật đã thành”. Và vì thế nên Kinh Pháp Hoa mới nói
rằng: “Chư Phật Thế tôn vì nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế, Khai
thị chúng sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến”. Thật không còn gì để mà hướng
đến khi đệ tử Phật biết rằng chính bản thân mình đã là một bản thể hoàn
chỉnh.
Đây chính là điểm đặc sắc và tiến bộ nhất làm cho Phật
giáo tuy đã có sự tương đồng với Bà-la-môn giáo về mặt danh từ của Hình
nhi thượng nhưng vẫn khẳng định được đặc tính tự lực thể nghiệm và thành
tựu Pháp thân Phật của chính mỗi người. Và cũng chính vì thế mà trong
Phật giáo, những giá trị tế lễ, cầu cúng hay van xin để được hoàn thiện
đều bị phủ nhận, mà điều đó lại chính là phương pháp rất được các thế hệ
Bà-la-môn giáo, không những từ thời sơ khai mà còn tận hôm nay, đặc
biệt ưa chuộng và xem đó như là một con đường đưa đến sự hội nhập với
bản tánh Brahman.
Quan điểm giải thoát của Bà-la-môn với Phật giáo
Đi từ trong bản thể luận đến hiện tượng luận, cả Phật giáo lẫn
Bà-la-môn giáo đều thống nhất rằng, cuộc đời này là sự giả tạm, là đau
khổ. Bởi thế cho nên, sự giải thoát khỏi lĩnh vực đó chính là yêu cầu
cấp thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng Ấn Độ đều nỗ lực tìm kiếm.
Tuy nhiên, do sự thú hướng của tư tưởng khác nhau nên lịch sử Ấn đã cho
thấy có rất nhiều những quan niêm về lĩnh vực này.
Đối với Bà-la-môn giáo, sự giải thoát chính là sự trở về với bản thể
Phạm Thiên. Nhưng tại sao phải trở về? Bởi vì tiểu ngã Atman đã ngày
càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo. Nguyên nhân là do linh
hồn đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi lăn trong sanh
tử luân hồi không bao giờ trở về được nữa. Muốn diệt được dục vọng, vô
minh thì không gì khác hơn là dùng Yoga để đạt được những trạng thái
thiền định.
Chính trạng thái thiền định này giúp cho người
Bà-la-môn hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của Ý thức, cái mà
họ cho rằng chính nó là nguyên nhân của sự phân biệt đối đãi, vô minh,
ham muốn. Bởi thế, Bà-la-môn giáo chủ trương dùng trí tuệ đạt được bằng
cách thể nhập các loại định Yoga để loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý thức, lúc
đó sự giải thoát mới có thể được xảy ra và bản ngã hoàn toàn được thể
nhập vào đại ngã Brahman. Một ảnh dụ thường được các Bà-la-môn dùng để
ám chỉ điều này là sự không mộng mị của một giấc ngủ. Câu chuyện giữa
Indra và Prajàpati trong Upanisads kể lại trong một lần đối đáp,
Prajàpati đã trả lời câu hỏi của Indra rằng, người được hưởng giấc ngủ
say không mộng mị là bản ngã.
Còn đối với Phật giáo, phạm trù giải thoát bao gồm: đối tượng để giải thoát, phương pháp và kết quả:
1. Đối tượng để giải thoát
Về đối tượng, Phật giáo đồng ý với Bà-la-môn giáo khi cho rằng cuộc
đời của con người là đau khổ. Và nỗi khổ này không có nguyên nhân nào
khác ngoài vô minh, ái dục. Muốn hết khổ thì phải loại bỏ những nguyên
nhân ấy. Tuy nhiên, quan điểm về vô minh của Phật giáo khác với
Bà-la-môn giáo ở chỗ, nếu Bà-la-môn cho rằng vô minh là do mối quan hệ
giữa Ý thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê đắm mà đánh
mất tính chất thanh cao của Bản ngã nên bị luân hồi sanh tử, thì Phật
giáo lại cho rằng “Bất tri Đệ nhất nghĩa đế vị chi vô minh”.
Theo
Phật giáo Nam truyền giải thích, vô minh là không liễu tri được Tứ Đế,
còn Bắc truyền Phật giáo thì cho rằng không giác ngộ được bản chất như
thật của các pháp gọi là vô minh. Bản chất như thật ở đây tức là bản
chất không thật tánh của các pháp và Phật tánh viên dung của chúng sanh.
Và Phật giáo cho rằng muốn giải thoát thì trước hết phải liễu tri được
Đệ nhất nghĩa đế ấy. Cho nên, đối tượng giải thoát tất nhiên là con
người, nhưng đi sâu vào nội dung thì Bà-la-môn giáo chú trọng ở vấn đề
đưa bản ngã con người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý thức, còn Phật giáo
thì lại phát triển Ý thức lên đỉnh điểm của nhận thức, tức là Diệu Quan
Sát Trí để chuyển hóa tâm thức và giác ngộ thật tánh các pháp.
2. Phương pháp giải thoát
Do hướng đến sự thể nhập của bản ngã vào Đại ngã làm đối tượng nên
các phương pháp của Bà-la-môn giáo để tiếp cận bao gồm thực hành các lễ
nghi, nghiên cứu Veda và thực hành Yoga với mục đích hạn chế Ý thức để
đạt được giải thoát. Trong khi đó, Phật giáo lại cho rằng giác ngộ được
các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát. Điều này đã
được đức Phật dạy rằng: “Yah pratìtysamutpàdam paysyati so dharmam
pasyati, yo dharmam pasyati so buddham pasyati” (Ai thấy lý Duyên khởi,
người ấy thấy Pháp. Ai thấy Pháp, người ấy thấy Phật”). Bởi vậy, trong
Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền,
đả thất,… tất cả đều lấy việc việc nâng cao sự nhận thức của tâm thức
lên đến tột đỉnh của sự giác ngộ. Nói khác hơn, tất cả chỉ vì hoàn thiện
tính năng tự hoạt của tâm, mà một trong các đại diện của cái tâm ấy là Ý
thức.
3. Kết quả
Để nói về kết quả của sự giải thoát, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đều
rất ít nói về kết quả. Bởi đấy là chuyện “ẩm thủy tự tri” cho nên thật
khó để có thể trình bày những gì mà cả hai trào lưu tư tưởng đã đạt đến.
Trong Bà-la-môn giáo, Chàndogya Upanisads đã phải dùng đến câu
chuyện giữa Prajapati và Indra. Trong câu chuyện này đề cập đến 4 giai
đoạn thể nghiệm Atman của Indra. Bốn giai đoạn đó là:
- Thức(Vishva)
- Mộng(Taijasa)
- Ngủ say không mộng(Pràjna)
- Ý thức tâm linh(Turiya)
Với sự hoàn tất cả bốn giai đoạn trên, người Bà-la-môn có thể được
đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận hưởng hạnh phúc của sự vĩnh
hằng. Đây là thực tại mà theo Bà-la-môn giáo, nó không thuộc về phạm vi
của ngôn từ. Cho nên, mọi sự cố gắng để diễn tả về nó đều vô ích.
Trong Phật giáo, sự giải thoát tuy là rất khó nói nhưng không phải
mang màu sắc của huyền thoại như trong Veda. Nó đã được đức Phật và chư
vị Đại đệ tử Phật chứng ngộ một cách rõ ràng. Trong kinh Trung Bộ, đức
Phật đã mô tả lại những gì Ngài đã thành tựu được sau 49 ngày nhập định
quán sát. Nó có thể được tóm tắt vào những giai đoạn:
- Giai đoạn Sơ thiền: diệt trừ dục và các bất thiện pháp, đi kèm với tầm và tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
- Giai đoạn Nhị thiền: diệt tầm và tứ, phát triển nội tĩnh và nhất tâm, một trạng thái hỷ lạc do định sanh.
- Giai đoạn Tam thiền: diệt hỷ, chánh niệm tỉnh giác với một lạc thọ về thân.
- Giai đoạn Tứ thiền: diệt trừ các cảm thọ lạc và khổ, ly hỷ và ưu, phát triển xả và niệm thanh tịnh.
Sau khi đã thanh tịnh tâm, Ngài phát triển tâm về các phạm trù mà nó
đã đem đến cho những thành tựu mà sau này được gọi là sự chứng ngộ của
bậc Thánh.
Như vậy, sự chứng ngộ trạng thái giải thoát trong Phật giáo là một sự
thật rất rõ ràng như là một kinh nghiệm đã được từng trải. Nhưng Phật
giáo rất ít khi nói về điều đó, hay nói khác hơn, đạo Phật ít quan trọng
đến việc trình bày trạng thái ấy như là một cái gì. Tại sao? Thứ nhất
là kinh nghiệm giác ngộ trong Phật giáo có nhiều tầng bậc khác nhau tùy
thuộc vào nỗ lực dụng công thanh lọc tâm của hành giả nên nó không có
một tiêu chuẩn nhất định, vì vậy, nếu trình bày những kinh nghiệm chứng
ngộ ấy tất sẽ có hại cho những người chưa có sự trải nghiệm và dẫn đến
sự phỉ báng hay cố chấp. Thứ hai là nó thuộc về lĩnh vực của thực
nghiệm, nên sự nói về sẽ có thể trở ngại cho người học. Bởi thế nên
trong Phật giáo rất thận trọng khi nói về những kinh nghiệm này.
Kết luận
Tóm lại, căn cứ trên cái nhìn của Phật giáo, Bà-la-môn giáo với tư
tưởng Veda vẫn xứng đáng là nguồn cảm hứng cho sự bộc phát những tư
tưởng triết học của dân tộc Ấn. Và Phật giáo cũng nhìn nhận rằng, trong
một giới hạn nào đó, giữa Bà-la-môn và Phật giáo đã tìm thấy nhau ở
những điểm chung:
- Công nhận cuộc đời là đau khổ và đưa ra những phương pháp để hỗ trợ chúng nhân được giải thoát khỏi những đau khổ ấy.
- Lấy con người làm trung tâm để khảo sát mặc dù Bà-la-môn giáo vẫn cho rằng con người là một phần thuộc về cái Tuyệt đối.
- Đều lấy sự phát triển trí tuệ làm cơ sở để diệt trừ vô minh ái
dục, là những nguyên nhân đưa con người vào vòng sinh tử luân hồi.
- Đối với hiện tượng và nhân sinh, cả hai đều chấp nhận quy luật nhân duyên nghiệp báo chi phối cuộc sống con người.
- Sự chung đụng về ngôn ngữ đã dẫn đến những sự giao thoa không thể
tránh khỏi khi cả hai cùng phát triển trên một mảnh đất của triết lý
này.
Tất cả những điểm trên đây, dù chưa được đầy đủ, nhưng rõ ràng là một
sự thật không thể nào chối cải được. Tuy nhiên, không phải vì thế mà
cho rằng Phật giáo là một phần của hệ tư tưởng Bà-la-môn như có nhiều
người đã lầm tưởng. Vì sao? Vì dù đã phát triển chậm hơn và phải chịu
những tác động của hệ tư tưởng này nhưng Phật giáo vẫn không ngừng thể
hiện mình trong toàn bộ những gì còn để lại của nền triết học Ấn Độ. Và
để phản ánh được những cái riêng của mình trong một tổng thể to lớn của
nền văn minh Ấn Độ ngàn năm, Phật giáo đã phải thể hiện mình ở những nét
đặc sắc nhất.
Chính những nét đặc sắc đó đã nói lên rằng giữa
Phật giáo và Bà-la-môn giáo vẫn là hai trào lưu tư tưởng với hai mục
đích khác nhau, nhưng lại giống nhau ở xu hướng. Đó là khẳng định khả
năng thành tựu mục đích tối hậu của con người ở sự giải thoát khỏi mọi
khổ đau, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trào lưu lại đưa ra một
phong cách rất khác nhau như đã phân tích ở trên. Vì vậy không có lý do
gì để cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp đỉnh cao của tư tưởng Ấn Độ.
Để kết thúc xin được mượn lời của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh để khẳng định lại tính cách của một Phật giáo đúng nghĩa:
Ở bất cứ một giáo hệ nào của Phật giáo, ta cũng thấy rằng tính cách
thực dụng linh động của đạo Phật. Ta không bao giờ thấy những câu như:
"Chân lý là thế nầy, chân lý là thế kia", mà chỉ thấy tinh thần của
những câu như: "Nếu làm như thế nầy, ta sẽ đến chỗ này; nếu làm như thế
kia, ta sẽ đạt đến chỗ kia", hay "Nếu muốn đi đến đó thì phải hành động
như thế này, nếu muốn đi đến chỗ kia thì phải hành động như thế kia".
Lìa tính cách thực dụng ấy, tất cả những lý thuyết nào được mệnh danh là
Phật giáo đều không phải đích thực là Phật giáo.