"Nếu dữ kiện kinh nghiệm tất cả là
Không, thì không có sự sinh khởi và sự hủy diệt. Như vậy, chắc
chắn sẽ không có bốn chân lý cao cả." (MK. XXIV.1) "(Nếu
thừa nhận) tánh Không, ngài đẩy đi mất hiện hữu đích thực của
(nhân) quả, của những đức lý thiện và ác, và tất cả trật
tự thực tiễn (Samuyavahàrams) của thế gian." (NK. XXIV. 6)
Nói một
cách vắn tắt, tất cả những nan giải được nêu lên cho tánh
Không luận là người ta có được quyền coi nó như một hư vô
luận hay không? Chắc chắn, tánh Không và hư vô có thể được
hiểu như là đồng nghĩa. Như vậy, đến mức độ nào thì thứ hư
vô luận này được coi như là phương tiện để đạt đến một chân
lý tuyệt đối nào đó; và trong một mức độ nào thì tánh Không
là cứu cánh của phương tiện diễn đạt ấy? Chúng ta không thể
không lầm lẫn giữa phương tiện và cứu cánh; bởi vì, mối tương
quan giữa chúng không gì khác hơn chính là mối quan hệ nhân quả.
Nàgàrjuna nhắc nhở: "Như bắt rắn không đúng cách; như dùng
chú thuật sai lạc, tánh Không bị hiểu nhầm là điều tai hại cho kẻ
trí năng thấp kém." (MK. XXIV. 11)
Nhắc
nhở ấy hình như chỉ là lấy lệ. Ai cũng có thể viện dẫn lời
khuyến cáo ấy để binh vực cho giải thích của mình về tánh Không.
Theo giải thích chung của đa số, trong mức độ mà tánh Không luận
chỉ là phương tiện diễn đạt về một Tuyệt đối bất khả tri nào
đó, thì tánh Không luận cũng đồng với hư vô luận. Ơ?đây,
người ta ưa dùng chữ Phủ định luận hơn. Trong mức độ mà tánh
Không chính là cứu cánh, người ta sẽ coi nó như một thực nghiệm
luận, hay thực hữu luận. Bởi vì, nó thực đến độ người ta
phải nhảy vọt qua tất cả hàng rào danh lý để diện kiến trực
tiếp, vì đây là nơi: "chấm dứt tất cả con đường của ngôn
ngữ; hủy diệt tất cả con đường của tư tưởng". Ở đây,
người ta ưa gọi tánh Không luận như một thứ Tuyệt đối luận.
Nếu kết hợp cả hai, tánh Không vừa là phương tiện và vừa là
cứu cánh, ta có một danh từ tập hợp để chỉ cho nó: Tuyệt đối
duy danh luận. Tuyệt đối, vì tánh Không là cứu cánh phải đạt
đến. Duy danh, vì tánh Không là phương tiện đáng được thể hiện.
Nhưng, hai chữ này, Tuyệt đối và Duy danh (hay giả danh), chống đối
lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Nếu duy danh - như là phương tiện của
tánh Không – mà được khai thác đến triệt để, thì nó tiến
đến nột hư vô luận ở ngay nơi cứu cánh chứ không chỉ ở
phương tiện. Chúng ta giả thiết một quá trình lịch sử về tánh
Không luận để giải thích điều này. trọng tâm của vấn đề là:
từ những dữ kiện thực nghiệm, vì những nan giải nào của nhận
thức và diễn đạt, mà người ta phải tiến đến một hư vô luận
như vậy – bất xét đó là hư vô luận ở phương tiện hay hư vô
luận trong cứu cánh. Vấn đề được rút lại trong câu hỏi :
"cái gì có và cái gì không?" Dể có thể có một trả lời
thích ứng, người ta phải xét đến hai trường hợp: khả tính của
phức thể và khả tính của nhứt thể. Hai khía cạnh này nhằm xác
định một điều: Khả tính của đối tượng. Nhận thức về một đối
tượng tức la nhận thức về một nhất thể; nhất thể hiểu như là
tổng hợp của những phức thể. Thí dụ, vì thế giới của dữ
kiện kinh nghiệm là thế giới của tương quan: "một chút màu xanh
của biển càng xanh khi máu đỏ càng đỏ" nói như nhà thơ Pháp,
Paul Claudel; do đó nhất thể của đối tượng lại được coi như là
tổng hợp của những phức thể. Thí dụ khác, vật chất hữu hình
mà ta thấy đó là sự kết hợp của vô số cực vi; nhưng lý luận
đến kỳ cùng thì sự kết hợp này là điều bất khả: chỉ có tổ
hợo hữu hình nhưng không có yếu tố của tổ hợp; giống như một
vòng lửa, không có hiện hữu đích thực của nhiều đốm lửa để
hợp thành một vòng lửa. Vòng lửa là ảo ảnh về sự liên tục
vận chuyển của một đốm lửa. Tất cả mọi tổ hợp đều là rỗng
không. Như vậy, do ảo tưởng nào mà người ta hứa hẹn khả tính
của nhất thể? Chỉ có nhất thể trong tên gọi, đó là lập trường
duy danh luận; trong lập trường này, đã hàm ý một hư vô luận.
Trong lịch
sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận
về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không?
Sự tranh luận này được khởi đầu vì hình như nguyên thủy, Phật
từ chối về một Bản ngã, nhưng phái Vàtsiputìrya lại chủ trương
phải có Bản ngã và dẫn chứng lời của Phật. Theo lập luận của
phái này, nếu không có sự tồn tại của một Bản ngã, làm sao
người ta có thể truy ức về những hoài niệm đã qua? Những hoạt
động của các tổ chức vật lý và tâm lý phải chịu sự chi phối
của định luật vô thường; nếu không có sự tồn tại của một
Bản ngã ở ngoài định luật này, cái gì duy trì những hoạt động
của các tổ chức vật lý và tâm lý để có thể truy ức về một
quá khứ của chúng? Vả lại, nếu căn cứ trên định luật nhân
quả, với tính cách phổ quát và thường nghiệm của định luật,
người ta bị bắt buộc phải thừa nhận tính cách thường tại của
một Bản Ngã. Bởi vì, phải có một Bản ngã vừa là tác giả
vừa là thọ giả, người ta mới giải thích được mối tương quan
và đồng nhất giữa tác dụng và phản ứng của tác dụng.
Lối lập
luận trên đây nếu được nới rộng, ta sẽ đi đến một Nhất thể
toàn diện và khép kín. Nhất thể đó sẽ là căn nguyên của tất
cả vạn hữu. Nó thỏa mãn câu hỏi: thế nào là khả tính của một
đối tượng? Câu trả lời có thể là: trong tương quan đối đãi
với một Bản ngã thường tại, khả tính của một đối tượng
được xác định từ một Nhất thể toàn diện. Nói theo thuật ngữ:
Ngã pháp câu hữu; Bản ngã và những yếu tố tập hợp của tất
cả phức thể: cả hai không đồng nhất cũng không dị biệt. Tập
hợp các phức thể thành một Nhất thể: Nhất thể không phải là
một bản thể, hay bản ngã, ở ngoài các phức thể. Nhưng ngược
lại, do Nhất thể – xét như một bản thể hay bản ngã – mà
trật tự của các phức thể được duy trì và chúng có thể tác
động theo định luật nhân quả: như vậy, Nhất thể không thể đồng
nhất với phức thể. Nhất thể và phức thể không đồng nhất cũng
không dị biệt: các nhà Vàtsiputrĩyas thành lập một Bản ngã bất
khả thuyết.
Chủ
trương này bị cực lực phản đối. Lý do chính của sự phản đối
này là: bất cứ một chủ trương nào thừa nhận có một Bản ngã
thường tại đều đi ngược với Phật pháp. Trong lý tưởng
"tuyệt đối từ khước" không thể dung dưỡng một Bản ngã
như vậy; dù Bản ngã được hiểu, trong phạm vi thường nghiệm như
một chủ thể tâm lý, hay trong lãnh vực tâm linh như một nguyên lý
siêu hình, như một căn nguyên thực tại.
Ngoài ra
chủ trương đòi hỏi có một Bản ngã thường tại để làm căn
nguyên cho vạn hữu không giải quyết được gì cả. Trước tiên,
nếu coi Bản ngã như một thể tính không chịu chi phối của luật vô
thường, nó không thể là căn nguyên của tác dụng nhân quả; vì
rằng bất động. Ngược lại, những gì có tác dụng nhân quả đều
phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Trong định luật
này, không có đồng nhất tính, do đó không có một thể tính bất
biến nào để có thể gọi đó là một Bản ngã thường hằng.
Những lập luận phản đối chủ trương Bản ngã thường không quên
trích dẫn lời này của Phật: "có tác nghiệp, như không có tác
giả và thọ giả."
"Có
tác nghiệp, nhưng không có tác giả và thọ giả": ở đây, tất
nhiên từ khước sự hiện hữu của một bản ngã liên tục
thường tại và đồng nhất hay không? Bởi vì, trong tương quan tác
dụng, khỏi cần có một căn nguyên chung, mà chính do sự giao hỗ của
các hiện thể cũng đảm bảo hiệu quả thiết thực của định luật
nhân quả và lại không chống trái với định luật vô thường. Nếu
thế, phải thừa nhận thể tính của hiện hữu; mặc dù không thể
nhận có bản ngã của hiện hữu. Thể tính đó tức là tính cách
thực hữu của hiện hữu trong giới hạn nào đó của thời gian:
chỉ thực hữu trong hiện tại, hay cả trong quá khứ và vị lai? Ở
đây người ta bộc lộ một vấn đề công khai và quyết liệt: cái
gì có và cái gì không?
Chúng ta có
hai quan điểm:
Thứ
nhất, đặc trưng là phái Sarvàstivàda: "Cái CÓ thì có thấy;
cái KHÔNG thì không thấy". Thứ hai, đặc trưng là phái
Sautrantika: "cái CÓ thì thấy có; cái KHÔNG thì thấy không".
Cái CÓ
thì có thấy; cái Không thì không thấy; tức là, những gì được
xác định là CÓ, chúng phải là đối tượng cho nhận thức hay khả
hữu của đối tượng, cái không xuất hiện như một đối tượng hay
khả hữu của đối tượng, cái ấy là KHÔNG và không thể nghĩ hay
nói về một cái KHÔNG mà không phải là đối tượng như vậy.
Trên tổng quát, lập luận của Sarvàstivàda căn cứ ở định thức
duyên khởi (Pratityasamutpàda) : có cái này vì có cái kia. Khi định
thức này được khai triển, thì bản chất của tri thức là truy nhận
đối tượng; do đó, nếu thừa nhậnhoạt động của tri thức thì
phải thừa nhận sự hiện hữu của đối tượng. Nếu đối tượng
hoàn toàn bất thực, nó không đủ khả năng tác động sự truy
nhận của tri thức. Nhưng, trong trường hợp đối tượng chỉ là một
ảo giác, nó tác động như thế nào?
Để
giải quyết nạn vấn này, các nhà Sarvàstivàda theo như trình bày
của Sanghabhadra, có hai loại hữu: a) thật vật hữu (dravyasat), là tinh
cách thực hữu đạt được trong nhận thức trực khởi hay trực
giác; thí dụ, từng đốm lửa trong một vòng lửa. b) giả danh hữu
(prajnaptisat), là ảo giác đạt được do gán ghép những thực vật
hữu; thí dụ, vòng lửa. Trong thực vật hữu, người ta đạt
được tự tướng của sự hữu. Đó là sự hữu biểu lộ trong
từng khoảnh khắc sát na. Ơ?giả danh hữu, người ta đạt được
cọng tướng hay tổng tướng của sự hữu. Đó là sự hữu trong
một khoảnh khắc sát na nhưng lại biểu lộ như là tất cả mọi
thời; thấy sự hữu bây giờ và ở đây như là thấy nó trong
mọi lúc và mọi nơi. Như vậy, dù đối tượng là ảo giác, nhưng
ảo giác ấy không phải là vô căn vô cố. Thí dụ, khi thấy sợi
dây ngỡ là con rắn; ảo giác này căn cứ sự hữu của chính
sợi dây. Nếu diễn dịch cho đến kỳ cùng, thì sự hữu xét như
thực vật hữu của sợi dây phải là những cực vi kết tụ. Chính
cực vi ấy mới là tự tướng, và chỉ có trong nhận thức trực
khởi. Giải thích này cũng để trả lời cho những nạn vấn của
Sautrantika. Theo những nạn vấn này, thi thức vẫn có thể truy nhận
được cái KHÔNG. Vả lại, khi một nhà tu thiền, họ lấy màu xanh
làm khởi điểm chẳng hạn; đến một lúc nào đó, đối với ông
cả thế giới này đều là màu xanh hết. Màu xanh như vậy cũng
không phải là một sự hữu. Lại nữa, hoặc như trong chiêm bao,
người ta có thể thấy lông của rùa hay sừng của thỏ. Trên tất
cả thí dụ này, Sautrantika đưa ra một nạn vấn tổng quát: nếu cái
KHÔNG nhất thiết không thể là đối tượng của nhận thức, tại sao
trong ngôn ngữ thường nhật người ta vẫn dùng được những danh
từ không chỉ cho một sự hữu nào cả? Đối với những thí dụ
như màu xanh phổ biến hay hình ảnh trong chiêm bao mà Sautrantika đề ra,
các nhà Sarvàstivàda quả quyết rằng, chính trong dữ kiện kinh nghiệm
đã cung cấp cho ta những hình ảnh ấy. Thí dụ, thực sự ta không
hề thấy lông của rùa hay sừng của thỏ, nhưng trong dữ kiện kinh
nghiệm, ta đã từng thấy lông và rùa, sừng và thỏ. Nói tổng
quát, cái giả căn cứ trên cái thực. Với nạn vấn về những
danh từ chỉ trống, họ cho rằng đấy chỉ là mặt phủ định của danh
từ; mặt kia vẫn là khẳng định.
Với
lối lý luận đặc trưng như trên, các nhà Sarvàstivàda đi đến một
chủ thuyết về Hữu toàn diện, đúng như tên gọi của nó: Nhất
thiết hữu bộ (Sarvàstivàda); họ chấp nhận luôn đến cả thực
tại tính của giấc mộng. Trong truyền thống này, nếu ta thành lập
một tánh Không luận, phải chăng đó là cưỡng từ đoạt lý?
Bởi vì, tánh Không là một phủ định, mà mặt khác chắc chắn là
khẳng định . Như vậy, khái niệm về Không chỉ là một giả tưởng.
Nếu vậy, ta phải hiểu thế nào với giải thích thông thường về
tánh Không luận, rằng "vì Không cho nên Có" để không
vướng khỏi cái lưới hữu toàn diện mà Sarvàstivàda đã bũa ra
đó?
Bây
giờ xét đến chủ trương của Sautrantika: "cái CÓ thì thấy có;
cái KHÔNG thì thấy không." Ở trên chúng ta có nhắc đến một
ít nạn vấn mà họ nêu lên cho Sarvàstivàda để buộc phái này
phải nhận rằng có thể có nhận thức về KHÔNG. Nạn vấn của họ
hình như được giải đáp thỏa đáng. Chúng ta không có các văn
kiện của Sautrantika để thấy rõ lập luận của họ. Nhưng Harivarma,
trong truyền thống của Sautrantika, cũng trả lời lại cho câu giải
đáp của Sarvàrtivàda. Đối với Harivarma, định thức duyên khởi
cố nhiên phải thừa nhận, nhưng bản chất của tri thức là hoạt
động liên khởi với đối tượng, thì CÓ thấy rằng CÓ và KHÔNG
thấy rằng KHÔNG, có gì trở ngại? Vả lại, căn cứ trên một chút
màu xanh mà thấy tất cả đều xanh, thì trong cái thấy ấy, đối
tượng trực tiếp của tri thức không phải là cái "màu xanh
một chút" nhưng là cái "màu xanh tất cả"; và màu xanh
như vậy là một sự trống không. Khi các nhà Sarvàstivàda diễn kịch
đến tự tướng cực vi và đặt biên tế của thực tại hữu ở
đây, thì cực vi thực ra cũng chỉ là một giả tưởng; nó chỉ là
hệ luận có vẻ hợp lý của lý luận diễn dịch. Bởi vì, người ta
không thể giải thích được tính cách tập hợp của cực vi. Khi truy
nhận về một tập hợp sắc, mà tập hợp ấy lại không có các
phần tử cực vi tụ hội lại, thì tập hợp ấy há không phải là
một tập hợp trống không? Và như vậy, cái KHÔNG vẫn có thể hiện
diện như là đối tượng của nhận thức. Đây là hậu quả hợp
lý của một thứ hư vô luận. Nhưng xét cho kỳ cùng, ta vẫn có thể
nói ngược lại. Khi các nhà Sarvàstivàda, thì hiển nhiên họ treo
một thứ hư vô luận lơ lửng trên đầu. Trong khi đó, các nhà
Sautrantika cố tìm cách đặt cái KHÔNG vào hoạt trường của nhận
thức, rõ ràng họ đẩy hư vô ra khỏi bóng tối để trở thành
một thứ duy thực triệt để.
Đấy là kinh
nghiệm rút ra từ lịch sử của tư tưởng – một thứ lịch sử
giả thiết: khi nói về cái CÓ thì nói trong sự bao dung của cái
KHÔNG; khi nói về cái KHÔNG thì nói trong sự bao dung của cái CÓ.
Cái gì có và cái gì không: CÓ và KHÔNG là một song quan luận đã
điều động tất cả lịch sử tư tưởng Phật giáo. Đấy vẫn là
một thứ lịch sử của giả thiết. Bên trong giả thiết là môi
trường diễn đạt của ngôn ngữ. Và, hình như bên trên tất cả
sự giả thiết ấy, một chân tính nào đó cần phải được thể
nghiệm, mà không thể nói bằng lời. Cái chân tính ấy như là căn
nguyên. Rõ ràng đây chỉ là một hệ luận hợp lý, vẫn ở trong
vòng chi phối của diễn đạt ngôn ngữ:
"Tất cả
đều hợp lý vì hợp lý với Tánh Không. Tất cả không hợp lý
vì không hợp lý với tánh Không." (MK. XXIV. 14)
Nếu tánh
Không được hiểu như một hư vô luận; thì ở đây mọi cái hợp
lý đều không phải là hợp lý do đối chiếu với một căn tính
nào đó, mà hợp lý vì tương quan đúng, vì kết hợp được mạch
lạc giữa nguyên nhân và hiệu quả. Hợp lý không phải vì mọi
sự hữu đều có nguyên nhân hiện hữu, nhưng vì là tương quan
hiện hữu. Như thế, tất cả đều là hữu của giả danh, vì bản tính
của hữu là Không. Trong phương tiện, trong dữ kiện thường nghiệm,
hữu là giả danh. Trong cứu cánh, tính thể của hữu là tánh Không.
Ta có kết luận: đấy là lý luận để đưa đến một tánh Không duy
danh luận. Trong con mắt của những nhà Yogàcàra, thứ tánh Không
luận ấy không thể chấp nhận được. Thứ nhất, nếu đặt nó
thành một tiền đề luận lý, tiền đề ấy không thể xác định
được đúng hay sai, một tiền đề vượt ngoài tương quan nhân quả.
Thứ đến, với thứ tánh Không luận ấy, người ta không tạo nổi
một nội dung cho giả thiết. Như vậy, mọi luận thuyết sẽ diễn ra như
một trò chơi chữ. Lankavàtàra, với một cố gắng dung hợp hơn,
chấp nhận tánh Không luận ấy, nhưng khuyên là đừng nên đặt nó
thành một tiền đề của luận lý. Hình như Nàgàrjuna bất chấp tất
cả những điều ấy. Chúng ta đã biết Nàgàrjuna nói gì về những
nan giải cho tánh Không luận trong Vigrahavyàvartànì. Tại sao các nhà
Yogàcàra không xét đến, dù họ là những người đi sau
Nàgàrjuna? Lại nữa, ngay cả Aryadeva, một đồ đệ thân cận nhất
của Nàgàrjuna, cũng yêu sách tánh Không luận phải hội đủ cà hai
phương diện là phá hủy và kiến thiết. Chính Nàgàrjuna trong chươgn
XXIV của Madhyamika-Kàrikà, hình như cũng nói rằng tánh Không luận
gồm đủ cả hai phương diện là phá hủy và kiến thiết. Cuối cùng,
người ta không thể giải thích khác hơn là nói rằng tánh Không
luận chì được hiểu như hư vô luận ở mức độ phương tiện mà
thôi. Như thế, tận cùng của lịch sử tánh Không luận vẫn là lãnh
vực của một "nhất thiết Hữu", Hữu toàn diện. Trong cái
lãnh vực Hữu toàn diện này, bất cứ dữ kiện thường nghiệm
nào cũng có khả năng dẫn khởi hạt giống Giác ngộ. Nhưng, tất
cả dữ kiện thường nghiệm đều phải chịu sự chi phối của định
luật vô thường, sự dẫn khởi của hạt giống Giác ngộ lại là
sự sáng tạo liên tục; liên tục trong từng ý niệm liên tục.
Trong mọi
trường hợp, đối với chúng ta, tánh Không luận chỉ mới được
hiểu như là một phương thức tư tưởng, một phương tiện diễn
đạt; hay nói gọn, nó chỉ là một pháp thức luận lý nào đó.
Nếu ta coi nó như là ngón tay chỉ mặt trăng; thì mặt trăng đang lơ
lững ở phương nào? Trước câu hỏi ấy, ta đối đầu với một hư
vô luận nữa. Tánh Không là phương tiện; nhưng tánh không cũng là
cứu cánh. Đấy là tánh Không duy danh luận trong một lãnh vực Hữu
toàn diện? Hay đấy là một thứ hư vô luận triệt để, từ đầu
đến cuối? Mượn trả lời của Nietzsche: "thà chun qua lỗ khóa
còn hơn qua những cánh cửa mở rộng".