Đối với các Thiền viện, đây là lần an cư thứ
ba mươi, bắt đầu từ năm 1970 chúng ta an cư tại Chân Không, tới nay là năm
2000.Kiểm lại trong ba mươi năm đó, từ con số an cư đầu tiên chỉ vỏn vẹn mươi
người thôi. Giờ đây tất cả các Thiền viện tụ hội về có thể lên đến bốn năm trăm
người. Như vậy đứng về số lượng, Tăng Ni ngày càng đông, Phật tử cũng càng
nhiều hơn. Nếu đường lối tu của chúng ta không có lợi ích, không có sự an lạc,
thì chắc rằng không thể nào được sự hưởng ứng đông đảo như vậy. Ngày nay mọi
người đều hoan hỉ tu hành, để chứng minh rằng con đường của chúng ta đi rất hợp
với tâm cầu tiến của Tăng Ni và Phật tử. Đó là một lẽ thật.
Được đông đảo Tăng Ni hưởng ứng tu thiền, đó
là một niềm vui. Nhưng tôi cũng có nỗi lo, bởi vì Tăng Ni càng đông thì số tạp
càng nhiều. Vì vậy mong rằng tất cả Tăng Ni tu theo sự hướng dẫn của tôi, nhất
là những vị lớn ở trong các Thiền viện, phải luôn luôn tự kiểm lại sự tu của
mình qua một năm, hay nói gần hơn là qua ba tháng an cư, tiến thối như thế nào
để chỉnh đốn lại cho tốt đẹp hơn. Những gì ưu chúng ta cố gắng làm cho tăng
trưởng, những gì khuyết chúng ta cố gắng chừa bỏ, đừng để những điều xấu dở lẫn
lộn trong tập thể tu hành như vầy. Vì đó sẽ là duyên cớ làm cho đường lối tu
ngày càng suy yếu, ngày càng dở tệ. Như vậy mới xứng đáng là người tu hành cầu
giải thoát sanh tử.
Gần đây, trong khi tu nhìn lại giáo lý tôi
thấy có hai điều hệ trọng khác hơn hồi xưa. Hai điều đó là gì? Một là Tánh
Không. Hai là Chân Không. Lâu nay người ta thường hay lẫn lộn về hai điều này.
Trước tôi nói về Tánh Không. Nhiều vị cho
rằng khi đạt được Tánh Không sẽ có vô số thứ nhiệm mầu, tức là Tánh Không diệu
hữu, như Chân Không diệu hữu vậy. Đó là do không hiểu, không phân biệt được thế
nào là Tánh Không, thế nào là Chân Không.
Thế nào là Tánh Không? Khi nói tới Tánh
Không, chúng ta phải nhớ Tánh Không Duyên Khởi, khi nói tới Chân Không chúng ta
phải nhớ Chân Không Diệu Hữu. Hai từ này nên nhận cho thật kỹ. Tánh Không là
thể tánh của tất cả các pháp. Thể tánh của tất cả các pháp là không, do duyên
hợp nên sanh ra muôn pháp. Vì vậy nói Tánh Không duyên khởi.
Tánh Không đó thế nào?
Thí dụ đây là cái bàn, đây là hư không. Cái
bàn là hữu, hư không là không. Cả hai đều không ngoài Tánh Không, nên biết Tánh
Không không phải là hư không trống rỗng. Lâu nay trong nhà chùa thường nói thà
chấp có bằng núi Tu-di, chẳng nên chấp không bằng hạt cải. Nghĩa là thà chấp
cái gì cũng có hết, có tội, có phước, có thiện, có ác v. v… mà không sao. Còn
chấp không dù chỉ bằng hạt cải cũng là họa, như không tội không phước v. v…
Chúng ta nhận ra tướng có tướng không qua cái
nhìn của mắt. Con mắt thấy đây là có, kia là không. Các tướng duyên hợp nên có
hình có tướng, còn duyên chưa hợp là hư không trống rỗng nên nói không.
Như vậy trong cái có không phải là thật có,
trong cái không cũng không phải là thật không. Tại sao? Chúng ta cứ cho rằng
cái bàn khít khao chặt chẽ, không có kẽ hở nên nói nó có, còn chỗ trống rỗng
hoàn toàn không có gì cả nên nói nó không, nhưng sự thật không phải vậy. Nếu
nhìn kính hiển vi, chúng ta sẽ thấy trong cái bàn vẫn có những kẽ hở trống, tức
là cái không. Còn trong hư không có vô số bụi bặm vi trùng v. v… nhưng vì nó
quá nhỏ nên tầm mắt chúng ta không thấy, rồi nói là không. Nên nói thật có thật
không đều không đúng. Trong nhà Phật gọi thấy như thế là biên kiến, tức chấp
một bên, không đúng lẽ thật.
Hiện giờ đa số chúng ta đều nặng trên hình
thức hoặc có hoặc không. Những hình thức nào mắt thấy được gọi là có, hình thức
mắt không thấy được gọi là không. Nếu phân tích vi tế hơn, sâu sắc hơn, trong
cái không vẫn có cái có, trong cái có vẫn có cái không nên cho rằng "sắc
tức thị không, không tức thị sắc", nghĩa là trong hư không có bụi bặm tức
là có cái có, trong cái bàn có những khoảng trống tức là có cái không.
Trong con người chúng ta cũng vậy. Nếu từ đầu
đến chân khít khao không có một chỗ hở trống thì chúng ta đã chết rồi. Hai lỗ
mũi nếu không trống thì hết thở, miệng không trống thì hết ăn. Tất cả các cơ
quan luôn luôn có cái không lẫn trong cái sắc. Ngược lại ngoài hư không, cái
sắc cũng có trong cái không. Không với sắc lẫn lộn nhau nên Bát-nhã nói sắc tức
thị không, không tức thị sắc là vậy.
Các hình thức hoặc trống không hoặc có sắc
chất đều được chúng ta nhìn thấy bằng mắt. Trong kinh Phật dạy thân này do tứ
đại hoặc lục đại, thất đại hợp lại thành. Tứ đại gồm đất, nước, gió, lửa, ai cũng
biết. Lục đại tức tứ đại cộng thêm hai thứ nữa là Không và Thức, thất đại thì
thêm Kiến. Các hình thức trống không như đã nói ở trên chính là Không đại.
Không đại trong con người hay sự vật đều do mắt thấy.
Từ cái không thô đối với cái có thô, chúng ta
thấy được nên nói có, nói không. Đến cái không tế nằm lẫn trong sắc, hoặc sắc
lẫn trong không, tuy mắt không thấy nhưng dùng kính hiển vi cũng sẽ thấy. Như
vậy cái không, cái có đó đều là đối đãi từ hình thức, chưa phải "sắc tức
thị không".
Thế thì "sắc tức thị không" trong
kinh Bát-nhã chỉ cho cái không nào? Như tôi đã nói "Tánh Không duyên
khởi", căn cứ theo các kinh A-hàm Phật dạy tất cả pháp không tự có, mà do
duyên hợp mới thành. Bởi duyên hợp mới thành nên không một pháp nào tự có
nguyên thể của nó, mà đều từ cái không, duyên hợp thành có.
Thí dụ đống cát, ban đầu không có gì, do gom
cát tụ lại thành đống, gọi là đống cát. Nếu phân tán số cát này ra hết, thì
đống cát không còn. Như vậy đống cát có là do duyên tụ lại mà có, đống cát
không có là do duyên tan ra thành không. Duyên tụ duyên tán, thành có thành
không. Nếu đống cát trước đó tự có nguyên thể thì không phải đợi nhiều hạt cát
tụ lại mới thành, đống cát đã có sẵn. Nhưng có đống cát nào nguyên sẵn không?
Thật thể của đống cát vốn không, cái không này Bát-nhã gọi là Tánh Không.
Cũng vậy, con người nếu trước tự có thì không
đợi cha mẹ sanh, còn đợi cha mẹ sanh mới có tức do duyên hợp. Như vậy hình sắc
con người, tánh nó vốn không, duyên hợp mới có. Nói tóm lại, tất cả sự vật từ
nhỏ tới lớn trong vũ trụ này đều không có nguyên thể ban đầu, phải đợi duyên
hợp mới có, đó gọi là Tánh Không.
Tánh Không được thấy bằng gì? Đó là chỗ tôi
muốn nhấn mạnh. Tánh Không được thấy bằng trí tuệ. Bát-nhã là trí tuệ, chỉ có
trí tuệ mới thấy được Tánh Không. Bởi vì Tánh Không không phải là cái không
trống rỗng của hư không. Vì sự vật không có cái nguyên thể trọn vẹn từ ban đầu,
đợi duyên hợp mới có, nên gọi là Tánh Không. Nó không phải là không đối với có,
nên chúng ta đâu thể dùng mắt để thấy Tánh Không được. Có, không do duyên hợp
thì có tụ có tan, còn Tánh Không không có tụ tán.
Kinh Kim Cang, đức Phật dạy muốn được giác
ngộ phải biết "Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai". Hết
sức đơn giản, thấy các tướng không có tướng thật, đó là thấy Phật. Tại sao? Bởi
vì tất cả tướng đều là duyên hợp, hư giả, không có tướng thật là phi tướng.
Thấy như vậy là thấy đúng sự thật nên nói thấy Phật, tức là dùng trí tuệ giác
ngộ để thấy.
Trí tuệ giác ngộ là trí thấy biết đúng như
thật. Chúng ta biết thân này duyên hợp, hư dối thì còn chấp ngã, chấp ta thật
không? Bởi từ lâu chúng ta sống trong mê lầm, vô minh nên không thấy được tánh
thật của các pháp thành ra chấp ngã chấp pháp. Từ chấp ngã chấp pháp mà sanh
đấu tranh, tàn sát lẫn nhau. Bây giờ nhờ trí tuệ Bát-nhã, ta nhìn thấu đáo biết
tất cả pháp duyên hợp đều là hư giả. Thân này duyên hợp nên hư giả, cái bàn
duyên hợp nên hư giả, tất cả sự vật trên thế gian này do duyên hợp nên đều hư
giả. Như vậy thì còn chấp cái gì nữa?
Nên kinh Kim Cang Phật dạy:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Dùng trí tuệ Bát-nhã soi thấu tất cả pháp như
mộng huyễn, như bọt như sương, như điện chớp, không có gì thật hết. Thấy như
vậy gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã. Nếu thấy mình thật người thật, tất cả mọi
thứ đều thật hết thì phiền não cả ngày. Vì mình thật thì được mất cũng thật,
vui buồn cũng thật nên khổ. Còn thấy mình hư dối thì tất cả mọi thứ chung quanh
cũng đều hư dối, hư dối thì được mất đâu có khổ. Sống chết chỉ là trò chơi
thôi, có gì đâu quan trọng.
Cho nên trí tuệ Bát-nhã là gốc, là nền tảng
của sự tu. Sở dĩ ở Thiền viện đêm nào cũng tụng Bát-nhã là vì thế. Nếu nhìn tất
cả pháp đúng như thật, tức là duyên khởi, Tánh Không duyên khởi nên sự vật hiện
có đều hư dối không thật. Biết rõ như vậy, thấy đúng như vậy, chúng ta cười cả
ngày không có gì phải buồn, phải khổ. Giả sử ta bệnh, nghe ai nói mình sẽ chết
trong nay mai cũng cười thôi. Có hợp thì có tan, lý ấy như vậy không có gì phải
sợ phải lo. Đó là ta sống được tự tại, giải thoát rồi.
Thử kiểm lại, nếu con người là thật, thì tổ
tiên mình tới bây giờ lẽ ra vẫn còn. Nhưng tổ tiên chúng ta đã đi hết rồi, tới
ông cố bà cố, ông nội bà nội, cha mẹ mình cũng đi, và đến phiên mình cũng phải
đi. Có ai sống mãi đâu, hết tụ rồi tan, không có gì thật cả. Vậy mà con người
cứ ngỡ là thật, có phải mê lầm không?
Nên biết trí tuệ và mê lầm ở cạnh nhau thôi.
Thấy thân thật, các pháp bên ngoài thật, đó là mê lầm. Nếu căn cứ trên Tánh
Không duyên khởi thì không có một pháp thật. Chúng ta tu muốn đi tới chỗ an lạc
tự tại phải thấy rõ được Tánh Không của các pháp. Như vậy muôn sự muôn vật
không có gì trói buộc được mình, không có gì làm phiền lụy được mình.
Qua đó đủ thấy trí tuệ Bát-nhã là sức mạnh
phi thường giúp chúng ta phá tan hết mọi khổ đau, phiền lụy. Chúng ta tụng
Bát-nhã hoài mà không ứng dụng được trí tuệ này nên không hết khổ. Nếu hiểu
thấu và thể nhập được chân lý đó rồi, thì sống giữa đời này không có gì đáng
sợ, không có gì đáng phiền hết. Cuộc đời là như vậy, có gì đâu quan trọng.
Chiếc thân hữu hình hữu hoại, lúc nào cũng chực tan rã mà người ta cứ tưởng
thật, vô lý làm sao! Cuộc sống trên thế gian này là một dòng sanh diệt không
dừng, lớp người trước đi qua, lớp người sau nối tiếp. Cứ như vậy mà sanh diệt
không dừng, thì thật ở chỗ nào?
Cho nên chúng ta tụng kinh Bát-nhã là để thấm
nhuần lý Tánh Không duyên khởi, chớ không phải để chấp không. Người hiểu thấu
được lý Bát-nhã không bao giờ chấp không. Chấp đây không kia có là đại si mê.
Bởi vì tất cả pháp do duyên hợp mà có, duyên hợp thì Tánh Không. Như ngôi chùa
Thường Chiếu này là do duyên hợp hay có sẵn? Trước năm 1975 ngôi chùa không có,
bây giờ lại có, rõ ràng do các duyên tụ lại nên có ngôi chùa. Chùa đã là của
duyên thì gặp duyên ngược lại tức sẽ tan hoại, chớ đâu thể còn hoài. Dù kiên cố
mấy, cũng có duyên làm cho nó hoại không bao giờ còn nguyên mãi được. Hiểu như
vậy là chúng ta mở sáng con mắt trí tuệ Bát-nhã, nên nói sống bằng trí tuệ
Bát-nhã là giác ngộ, giải thoát.
Hiểu được lý Tánh Không là hiểu được lý duyên
hợp hư dối. Lý duyên hợp phát xuất từ kinh nào? Từ kinh A-hàm. Kinh A-hàm nói
các pháp duyên hợp, cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh,
cái này diệt nên cái kia diệt v. v… đều là lý nhân duyên tương quan giữa cái
này với cái kia, chớ không có nguyên sẵn một thứ riêng.
Xét theo đó thì thấy từ lý Nhân duyên hòa hợp
của hệ A-hàm tới Tánh Không của hệ Bát-nhã có gì khác nhau đâu. Nói duyên hợp
cho người nghe dễ hiểu, nói Tánh Không để chỉ thẳng bản chất của các pháp. Biết
được Tánh Không thì biết duyên hợp là hư dối. Như tôi co năm ngón tay lại thì
có nắm tay. Nếu nắm tay có sẵn từ thủy chí chung thì đâu đợi năm ngón co lại
mới thành nắm tay. Như vậy nắm tay nguyên tánh nó vốn không, đợi năm ngón co
lại thành có. Có là do duyên hợp, nếu năm ngón buông ra kiếm nắm tay trước có
còn không? Rõ ràng không còn. Như vậy Tánh Không duyên hợp mới thành tướng,
duyên hết thì tướng phải mất. Thế thì nắm tay thật hay giả? Nó chỉ có một thời
gian thì làm sao thật được.
Tăng Ni tu hành bao nhiêu năm, có thấy được
các pháp duyên hợp hư dối không? Nếu thấy được là trí tuệ Bát-nhã, còn thấy
chưa được là vô minh. Tu mà chưa lột được xác vô minh, bị nó trói chặt kéo lôi
thì thật là đáng tiếc. Muốn giác ngộ nhất định phải lột bỏ xác vô minh mới được.
Trong mười hai nhân duyên, vô minh là đầu mối là gốc. Dòng sanh tử gốc từ vô
minh mà ra, chưa thoát được cái vỏ này thì không thể nào giải thoát sanh tử
được.
Ai cũng nhận thân này duyên hợp nhưng lại
không dám nói hư dối, vô lý làm sao! Như vậy có hết vô minh chưa? Vô minh thật
sâu thật đậm, mà cứ ngỡ mình tu hết vô minh rồi. Ai đó lỡ nói huynh vô minh quá
liền nổi giận đùng đùng, đâu biết giận đùng đùng tức đã thú nhận ta vô minh.
Người ta nói mình vô minh mà mình không vô minh thì thôi, có gì phải giận.
Chúng ta tu nếu không nắm vững cái gốc đó, thì sự tu làm sao tiến được.
Cho nên Tánh Không đây không phải không nhãn,
nhĩ, tị, thiệt, thân, ý… lý Tánh Không là do trí tuệ Bát-nhã thấy. Biết lý đó,
bởi các pháp Tánh Không đợi duyên hợp thành có, cho nên nó là hư giả. Tánh
Không không phải là cái không đối với cái có. Nói tóm lại, Tánh Không là để chỉ
tất cả sự vật tự thể không có, đợi duyên hợp mới có. Thế thì, tôi xin hỏi lại
Tánh Không là gì? Không là cái gì hết, nên không tất cả các pháp, sáu căn, sáu
trần đều không, kể cả Tứ đế, Thập nhị nhân duyên cũng không.
Phật vì đối bệnh cho thuốc, bệnh hết thì
thuốc cũng bỏ. Tánh Không là một lý thật để chúng ta nhân đó nhìn thấy sự vật,
tướng duyên hợp là hư dối, thấy rõ như vậy. Người nào thừa nhận thân này là
duyên hợp, thì phải thừa nhận nó là hư dối. Đó là một lẽ thật.
Nếu chúng ta nắm được lẽ thật ấy rồi, sẽ thấy
công dụng của nó rất phi thường. Như thấy thân này duyên hợp hư dối thì có còn
khổ nữa không? Nếu thân này hư dối, người ta chửi mình, mình đâu có buồn. Cả
ngày cười hoài không bận bịu gì hết, phiền não từ đâu mà ra.
Giáo lý Nguyên thủy nói thân này vô ngã, năm
uẩn hợp là vô ngã. Đến Bát-nhã thì nói Tánh Không duyên hợp hư dối, đó là một
lẽ thật, hết sức chân thật. Nhưng tội nghiệp thay chúng ta do mê lầm từ muôn
kiếp, nên Phật nói thì tin mà nhận thì không dám nhận. Tin Phật nói mà mình ưng
sống với mê hơn là trí.
Vì vậy chúng ta tu khó trăm bề. Nếu tỉnh thức
như lời Phật dạy thì tu không có gì khó hết. Tất cả phiền não khiến tâm bất an
đều từ chấp thân thật, tâm thật, cảnh thật. Khi biết rõ không có một pháp thật
thì phiền não theo đó rơi rụng hết. Cho nêân ngài Huyền Giác đã nói trong Chứng
Đạo Ca:
Đại trượng phu bỉnh tuệ kiếm
Bát-nhã phong hề kim cang diệm.
"Đại trượng phu bỉnh tuệ kiếm", bậc
đại trượng phu cầm kiếm tuệ, tức kiếm Bát-nhã. "Bát-nhã phong hề kim cang
diệm", Bát-nhã là trí tuệ sắc bén hay chặt đứt tất cả. Kim cang là một thứ
kim loại không có chi phá được, nên ví nó như đống lửa cháy rần rần, quăng vật
gì vô cũng tan nát hết. Như vậy trí tuệ Bát-nhã chính là trí tuệ kim cương hay
phá tan mọi thứ phiền não, mà không gì có thể phá được trí tuệ này cả. Ngài nói
tiếp:
Phi đản năng tồi ngoại đạo tâm
Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm.
Tồi phục là dẹp trừ, tảo tằng là sớm từng.
Trí tuệ Bát-nhã chẳng những hay dẹp trừ được tâm ngoại đạo, mà còn sớm từng làm
cho thiên ma phải rụng mật khiếp vía nữa. Để thấy lý Bát-nhã này không ngoại
đạo nào phá vỡ được.
Khi biết các pháp Tánh Không duyên hợp hư
giả, là thoát khỏi được các thứ chấp hai bên như chấp có, chấp không, gọi là
biên kiến. Với con mắt Bát-nhã có là giả có, vì giả có nên không phải không, mà
cũng không phải thật có. Không thật không, không thật có mà hiện tiền mắt thấy,
tai nghe, đó là lý trung đạo.
Nhà thiền thường dùng hình ảnh mặt trăng ở
dưới hồ. Mặt trăng dưới hồ có hay không? Xác định là không cũng không được, xác
định là có thật cũng không được. Nó chỉ là bóng, là huyễn hóa. Nói mặt trăng có
thật dưới hồ là ngu xuẩn. Nói mặt trăng không ngơ, tại sao mắt mình thấy? Chẳng
qua đó là tướng duyên hợp hư giả, là bóng không phải thật. Không thật mà chấp
thật là ngu mê. Thân này, sự vật chung quanh này cũng vậy.
Chúng ta si mê cho các pháp là thật nên dễ bị
nó kéo lôi dụ dỗ. Dụ dỗ bằng cách nào? Thí dụ: Người hiếu sắc khi thấy sắc đẹp
liền bị mềm lòng, người hiếu danh hiếu lợi khi thấy danh lợi liền chạy theo.
Nhưng nếu chúng ta biết rõ những thứ đó không thật, không chạy theo nó thì ma
nào có thể dụ dỗ mình nổi, kể cả thiên ma còn phải vỡ mật nữa là khác. Lý Kim Cang
Bát-nhã hay như vậy mà chúng ta không dùng, giống như người có kiếm bén mà
không biết dùng, đành chịu chết dưới tay giặc.
Có trí Bát-nhã thì đi tới Niết-bàn dễ như trở
bàn tay. Đạo Phật được gọi là đạo giác ngộ vì thấy tột cùng lẽ thật, chớ không
phải thấy nửa chừng, thấy mơ màng. Lâu nay chúng ta tu thật lơ là. Cho nên
người tu cần phải lãnh hội cho sâu lý Tánh Không, một lần tỉnh là không được mê
trở lại nghe, chớ còn tỉnh tỉnh mê mê thì muôn đời cũng không ra khỏi sanh tử.
Kế đến, tôi nói về Chân Không. Nói Tánh Không
là tánh của tất cả pháp, nói Chân Không là Tâm thể của tâm. Một bên thuộc về
pháp, một bên thuộc tâm. Cho nên Tánh Không thì duyên khởi còn Chân Không thì
diệu hữu, chúng ta cần phải nắm cho thật vững chỗ này. Tại sao Chân Không là diệu
hữu?
Lục Tổ khi trình kệ cho Ngũ Tổ, Ngài kết luận
bằng hai câu:
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai.
Xưa nay không một vật, đó là Chân Không. Về
điểm này chư Tổ đều thấy như nhau. Như Tổ Huệ Khả sau khi có chỗ vào, thời gian
sau Ngài bạch với Tổ Đạt-ma: "Bạch Hòa Thượng con đã dứt hết các duyên.
" Tổ bảo: "Coi chừng rơi vào không. " Ngài thưa: "Rõ ràng
thường biết, không sao được. " Tổ Đạt-ma liền khen: "Ông như vậy, ta
như vậy, chư Phật cũng như vậy. " Đó là Tổ đã ấn chứng cho ngài Huệ Khả
rồi. Chỗ rõ ràng thường biết mà không có một vật chính là Chân Không. Từ Tổ Huệ
Khả thấy được lý Chân Không không một vật. Đến Tổ Huệ Năng thì thấy "bản
lai vô nhất vật" cũng không một vật. Đó là trên thể của tâm mà nói. Tuy
không có một vật mà rõ ràng thường biết, cho nên nói Chân Không diệu hữu.
Chúng ta nếu tỉnh táo, một mình ngồi lại năm
ba phút, không có niệm nào dấy lên. Mắt, tai, mũi, lưỡi… toàn thân hiển nhiên
như vậy, lúc đó biết hay không biết? Chim kêu nghe, người đi thấy, gió thổi
biết, rõ ràng thường biết mà vẫn không có một niệm. Thế có phải là Chân Không
không?
Ngược lại chúng ta biết bằng cách duyên theo
bóng dáng người và sự vật, biết bằng cách phân biệt chia chẻ, đó là cái biết
của sanh diệt. Cái biết sanh diệt ta lại dùng, còn cái biết không sanh diệt,
thường nhiên thì lại bỏ. Vì vậy chư Phật chư Tổ dạy mình tu đến chỗ không còn
một niệm vọng tưởng mà vẫn hằng tri hằng giác, đó là chỗ chân thật. Chỗ đó
không phải kiếm ở đâu xa, chỉ cần đừng dấy niệm, đừng chạy theo cảnh thì cái
biết ấy rõ ràng.
Vì cái biết ấy không có hình tướng, nên chúng
ta dễ quên. Có mà không nhận, như kẻ cưỡi trâu đi tìm trâu, dưới sông mà kêu
khát nước. Trái lại, chúng ta nhận thân duyên hợp hư dối là thật, tâm nghĩ
tưởng lăng xăng là mình. Cả ngày mình sống với tâm khỉ vượn, phóng chạy tứ
tung. Vì sống với tâm ấy nên hết phê bình người này, lại chê trách kẻ khác, tạo
không biết bao nhiêu thứ nghiệp, bao nhiêu khổ đau.
Như vậy mới thấy chúng ta mê lầm rất đáng
thương. Cái thật đang có lại không nhớ, nhớ những cái giả dối tạm bợ, cho đó là
mình. Vì vậy Phật nói chúng sanh muôn kiếp muôn đời trôi lăn trong sanh tử.
Kinh Pháp Hoa dụ chúng ta là con ông Trưởng giả, bỏ cha đi lang thang làm kẻ ăn
mày rồi kêu khổ. Đến khi trở về, thấy cha mà không dám nhận mình là con Trưởng
giả, lại nhận kiếp bần hèn, thật đau xót.
Cũng vậy, chúng ta cho tâm lăng xăng sanh
diệt là tâm mình nên suốt đời khổ hoài. Nếu không nhận tâm ấy là mình thì đâu
có khổ. Sở dĩ chúng ta khổ vì người kia chê, người nọ nói xấu mình. Việc không
đáng làm, không đáng nghe mà cứ làm, cứ nghe, chạy theo cái giả bỏ cái thật thì
không khổ sao được. Chỉ cần buông hết những tâm niệm lăng xăng lộn xộn đó, thì
cái chân thật hiện tiền. Thật ra, lúc nào tâm chân thật cũng hiện tiền chớ
không phải vắng, nhưng vì mình quên thành ra nó vắng.
Trong nhà thiền các Thiền sư có khi tự gọi,
tự "Dạ" để nhắc mình có ông chủ đang nghe đó. Nếu không có ông chủ
làm sao nghe, làm sao thấy. Như đưa phất tử lên để nhắc mình có cái hiện tiền
đang thấy, không phải suy nghĩ gì cả. Hoặc khi các ngài hỏi, học nhân vừa cúi
đầu suy nghĩ các ngài liền tát tai, đập gậy, sao tàn nhẫn vậy? Thật ra các ngài
thương đáo để, từ bi đáo để, không muốn cho người sau nhận giả làm thật, rồi
bám vào đó mà đánh mất cái chân thật đang hiện sờ sờ trước mặt.
Chúng ta thử sống với cái thật chừng một ngày
thôi, xem thử có buồn giận không? Hay là sẽ được thảnh thơi tự tại, thấy vẫn
thấy, nghe vẫn nghe, giờ ăn thì ăn, giờ ngủ thì ngủ, không có gì buộc ràng,
không có gì bận lòng. Các Thiền sư hồi xưa thường bảo với đệ tử: Ông dâng cơm
thì ta nhận, ông xá thì ta gật đầu, chỗ nào không chỉ tâm yếu cho ông. Rõ ràng
có lúc nào thiếu vắng cái chân thật ấy đâu, chỉ tại mình không chịu nhận, lại
chạy theo những gì văn hoa, bóng bẩy bên ngoài, thành ra mất mình.
Vì quên hẳn tâm thể nguyên vẹn không sanh
diệt ấy nên phiền não kéo lôi chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Kiếp này tu
nhắm mắt cũng luân hồi, kiếp khác tu nhắm mắt cũng luân hồi, không thoát được
vì quên gốc theo ngọn, quên chánh theo tà. Người tu phải thấy tường tận chỗ đó.
Đức Phật khi sống với tâm chân thật rồi thì
Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v. v… đầy đủ. Đó là
"Chân Không mà diệu hữu". Cái có trong nhiệm mầu phi thường, chớ
không phải có trong cái thường. Không phải trở về đó rồi chúng ta khờ khạo
không biết gì, mà trở về được thì diệu hữu hiện tiền. Diệu hữu ấy là dụng của
tâm, cho nên quan trọng ở chỗ trở về được thể thì dụng chính là diệu hữu.
Thấy được Tánh Không, thấy được Chân Không
chúng ta còn việc gì phải làm nữa không? Thiền sư Huyền Giác trong bài Chứng
Đạo Ca đã nói "Pháp thân giác liễu vô nhất vật". Vô nhất vật chính là
chỗ không một vật của Lục Tổ, là Pháp thân, là Chân Không vậy. "Bản nguyên
tự tánh thiên chân Phật", chữ thiên này không phải trời, mà thiên là sẵn
có. Nói bản nguyên tức là nói nguồn gốc ban đầu. Nguồn gốc ban đầu của chúng ta
chính là ông Phật sẵn có từ muôn đời đó.
Khi giác ngộ thì thấy: "Ngũ uẩn phù vân
không khứ lai. Tam độc thủy bào hư xuất một. " Thấy được, nhận được pháp
thân thì thân năm uẩn này cũng như mây nổi, qua lại trong hư không, chẳng có
nghĩa lý gì hết. Chỉ vì chúng ta không nhận ra được pháp thân, nên thấy thân
năm uẩn là quí. Khi ngũ uẩn đã như phù vân, thì tam độc cũng như bong bóng
nước.
Người tu thấy tột như vậy thì việc tu không phải
là khó, không phải là chuyện xa vời, mà nó rất gần rất thực tế. Sống được với
Chân Không tức là sống được với Pháp thân. Sống được với Pháp thân thì không
còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì làm gì đi trong luân hồi nữa. Đó là giải
thoát rồi.
Rõ ràng chỉ cần nhận chân được hai điều
"Tánh Không duyên khởi" của các pháp, "Chân Không diệu hữu"
của tâm thể thì đời tu chúng ta vững như hòn núi. Ngược lại cứ chạy theo bên
ngoài, nghe chỗ này hay, chỗ kia lạ thì tu suốt kiếp cũng chỉ lẩn quẩn trong
sanh tử, không đi tới đâu hết.
Nên nhớ hai điều này không thể lẫn lộn nhau
mà hỗ tương cho nhau. Thấy các pháp Tánh Không thì duyên khởi hư giả, thấy như
vậy nên phiền não lặng, từ đó Chân Không mới hiện. Chân Không hiện, nhìn lại
thân này hư dối còn gì nữa mà tham sân si. Cho nên trước phải dùng trí Bát-nhã
dẹp hết phiền não thì "ông chủ"û mới hiện ra.
Mong rằng Tăng Ni tu hành thấy đúng như thật,
đừng bị vô minh che mờ nữa, để trên đường tu dễ tiến mới có thể thoát ly sanh
tử được. Đó là mục tiêu của chúng ta nhắm.
Giảng tại Thiền Viện Thường Chiếu
Mùa Hạ năm Canh Thìn 8-2000