Việc nghiên cứu triết học Phật giáo trên cơ sở những văn bản hệ thống
được giữ lại trong các bản dịch Trung quốc đã chiếu luồng sáng mới vào
những vấn đề thế giới quan Phật giáo được biết ở Âu châu, đồng thời đặt
ra một loạt những vấn đề mới mà cho đến nay vẫn còn chưa được đưa ra
trong các công trình về Phật giáo. Nhiều cái đã không có thể biết vì
hoặc thiếu những tài liệu, hoặc tài liệu hiện có không được sử dụng.
Việc làm quen với
Phật giáo theo nguồn tài liệu gốc chủ yếu dựa trên các bản kinh, luật
bằng tiếng Pali; nhưng bản Abhid- harma bằng tiếng Pali vẫn còn chưa
được chú ý. Bản dịch đầu tiên một trong những luận văn cổ nhất xuất hiện
vào năm 1900 là công trình của bà S.Rhys-Davids. Dưới sự chủ biên của
bà, bản dịch tác phẩm truyền thống của Miến Điện thế kỷ X đã ra đời.
Dịch giả Shwe Zan Aung, người được giáo dục theo tinh thần triết học và
khoa học tự nhiên Âu châu hiện đại, đã cố gắng trình bày bằng thuật ngữ
Âu châu các học thuyết trong giáo lý Miến Điện, nhưng nhiều vấn đề cơ
bản vẫn chưa được giải thích đầy đủ. Như vậy, văn học mang tính hệ thống
của Phật giáo Sirilanca cổ đại vẫn còn chưa được nghiên cứu, mặc dù
những tài liệu này có số lượng không phải là ít.
Văn bản của hệ
thống được gọi là Phật giáo "Bắc phương" hay Phật giáo "Sanskrit" còn
được biết đến ít hơn. Thường là những tác phẩm về Phật giáo ở vùng này
đều bắt nguồn từ các công trình của tác giả người Bàlamôn tên là Madava.
Madava là nhà văn của giai đoạn muộn sau này (thế kỷ XIV) và không thể
xem ông ta là người có uy tín trong những vấn đề về Phật giáo. Quả thực,
điều kiện nghiên cứu Phật giáo Bắc phương gặp không ít khó khăn vì tài
liệu Sanskrit bị thất lạc nhiều và Phật giáo Sanskrit chỉ có thể được
tái hiện bằng các nguồn tài liệu Trung quốc và Tây tạng.
Phật
giáo ở Viễn đông được nghiên cứu ít hơn cả. Những lược khảo của Nhật
Bản, kiểu như các công trình của giáo sư Nandzio và Phudzisima về triết
học hầu như không đưa ra một khái niệm nào; còn những tác phẩm như lược
khảo của Suzuki và bản dịch luận văn của Mã Minh (Asvagosa) của ông theo
đuổi nhiệm vụ biện hộ và chứng minh cho tính hơn hẳn của Đại thừa. Mặt
khác, những tác phẩm này muốn cung cấp những tài liệu theo hướng Phật
giáo Ấn Độ, chứ hoàn toàn không theo hướng Phật giáo Trung-Nhật. Ở Âu
châu, Phật giáo hệ thống Trung- Nhật, cho đến ngày nay, không được
nghiên cứu đầy đủ.
Với tình hình như vậy về ngữ văn Phật giáo thì
không thể không ngạc nhiên, nếu như đâu đó, nổi lên những vấn đề về
lịch sử của Phật giáo phương Đông, hoặc tỏ ra băn khoăn về việc bằng
cách nào mà Phật giáo ở phương Đông lại có thể bi thành một cái gì đó
hoàn toàn đối lập với tư tưởng Phật giáo cổ đại. Có ý kiến cho rằng Phật
giáo muộn là Phật giáo "xuyên tạc", "đồi bại", hay sùng bái ngẫu tượng
và cho rằng, trong các tông phải thờ Bồ tát Quán Thế Âm hay Phật Adiđà,
là chịu ảnh hưởng của Thiên chúa giáo còn trong khi đó, Phật giáo "chân
chính” nguyên thuỷ thì không có những yếu tố siêu hình tôn giáo. Việc
nhấn mạnh những tương phản dễ dàng dẫn đến những kết luận như vậy. Vì
những giai đoạn phát triển giao thời còn chưa rõ, nên sự chuyển biến từ
Phật giáo Sirilanca cổ đại sang Phật giáo trung cổ Nhật Bản còn là những
phỏng đoán.
Phật giáo Ấn Độ trong mười thế kỷ đầu công nói
chung, hiện nay vần còn chưa rõ, còn những gì mà nó chinh phục được Á
Đông lại thuộc giai đoạn này, chứ không phải giai đoạn trước và cũng
không thuộc giai đoạn Sirilanca sau này. Phật giáo giai đoạn này đã phải
ứng phố với những học thuyết Bàlamôn ở Ấn Độ, Khổng giáo và Đạo giáo ở
Trung Quốc, với Thần đạo ở Nhật Bản.
Hình thức Phật giáo đã và
đang tồn tại ở phương Đông không bao giờ liên hệ với Phật giáo
Sirilanca. Bởi vậy, để hiểu lịch sử tôn giáo ở phương Đông, Phật giáo
Sirilanca không thể có tác động trực tiếp, hơn nữa, hai giai đoạn phật
giáo này đã tách rời nhau trong suốt 2000 năm, cho nên sự so sánh ở đây,
nói chung, là cực kỳ nguy hiểm. Cuối cùng bản thân vấn đề về sự khác
nhau, về xuyên tạc của Phật giáo, v.v…cần phải nhường chỗ cho các vấn đề
khác thiết thực hơn, như vấn đề về mối liên hệ liên kết Phật giáo của
tất cả các khuynh hướng và tất cả các giai đoạn, về cái cho phép các nhà
đại diện của tất cả các tông phái Ấn Độ và phương Đông tự gọi mình là
những người Phật tử.
Khi xem xét một loạt các tác phẩm nguyên gốc
có trong các bản dịch Trung Quốc, từ bản luận văn của Mahavibasa (thế
kỷ VII), từ các bản luận và chú giải độc lập của người Trung Quốc, đến
những tác giả thuộc các khuynh hướng và tông phái khác nhau của Nhật Bản
trung cổ, - ở đâu, chúng ta cũng nhận thấy một vài điểm chung của những
vấn đề và cách giải quyết làm cho tất cả những vấn đề mà thoạt nhìn là
những hệ thống triết học và tôn giáo khác nhau xích lại gần nhau. Đối
lập ý kiến cho rằng những tông phái khác nhau gần như trở thành nhà tôn
giáo khác nhau, là ý kiến cho những điều đó chỉ là khuynh hướng khác như
của cùng một hệ thống thế giới quan triết học tôn giáo khác biệt một
cách căn bản với những hệ thống khác ở Ấn Độ và phương Đông.
Ở
đây, có thể xuất hiện những vấn đề mà đến nay vẫn chưa được giải quyết.
Nếu Phật giáo, về bản chất khác với Bàlamôn thì cái mới mà nó đưa vào
trong triết học kinh viện Ấn Độ rồi từ triết học Ấn Độ đó sinh ra sẽ
hiểu thế nào?
Bản thân sự việc Phật giáo thoát thai từ triết học
Ấn Độ là không còn có gì để nghi ngờ. Nếu Phật giáo là tôn giáo thì giải
thích như thế nào việc nó phủ nhận Thượng Đế và linh hồn, và không quan
tâm đến những vấn đề siêu hình học, những vấn đề tồn tại chân thực, mà
chỉ dừng lại trong phạm vi đạo đức học của thế kỷ này. Nếu Phật giáo của
tất cả các khuynh hướng được cố kết lại bởi những tư tưởng chung cơ
bản, thì thật là lạ lùng theo văn học Phật giáo vì sao những người Phật
tử lại có người là nhà thực tại, nhà duy tâm, nhà duy vật, nhà hư vô,
v.v... mà những quan điểm triết học của họ không thể kết hợp lại với
nhau được. Vậy bản chất của Phật giáo là ở chỗ nào, nó là tôn giáo hay
triết học mang tính chất đạo đức, hay là một cái gì khác? Tư tưởng trung
tâm của Phật giáo là gì?
Cùng với những vấn đề trên là những vấn
đề khác chi tiết hơn: Giải thích như thế nào về thuyết luân hồi - một
luận thuyết ít gắn với những quan điểm còn lại của Phật giáo; Hiểu như
thế nào ý nghĩa của công thức “thập nhị nhân duyên"; hiểu như thế nào về
học thuyết giải thoát, tư tưởng Niết bàn nếu không có linh hồn?
Có
thể tìm thấy những dự đoán trong các tài liệu về những vấn đề triết học
Phật giáo, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có những câu trả lời trực tiếp
dựa trên cơ sở văn bản luận giáo lý Phật giáo. Tuy nhiên những vấn đề
này là quan trọng không chỉ đối với người quan tâm đến triết học Ấn Độ,
mà cả đối với tất cả những nhà nghiên cứu lịch sử tôn giáo.
Không
thể trả lời tách bạch mỗi vấn đề nêu trên. Vì tất cả những vần đề này
đều xuất phát từ một loạt những định kiến, nên mỗi câu trả lời riêng
biệt, mỗi cố gắng loại bỏ sai lầm của vấn đề này hay vấn đề khác chỉ dẫn
đến sự phức tạp còn lớn hơn.
Câu trả lời duy nhất là quy về
trình bày hệ thống những vấn đề cơ bản mà các văn học triết học Phật
giáo đã xoay quanh. Cần phải chỉ ra sự khác biệt trong những lí giải các
vấn đề này khác ở các đại diện của những khuynh hướng khác nhau, những
biến dạng của những vấn đề khi Phật giáo đi vào đông đảo quần chúng. Nếu
có hiểu biết rõ ràng về Phật giáo, thì nhiều vấn đề và thắc mắc tự biến
mất. Nếu kể đến bình diện trình bày hệ thống, thì việc duy trì sơ đồ
của những tác giả Phật giáo là phong phú nhất; chứ không phải là hệ
thống triết học Phật giáo được diễn giải trong các hệ thống Âu châu nào
đó. Để trình bày cần phải dùng ngôn ngữ giản đơn hơn, tránh những thuật
ngữ chuyên sâu,
Việc đưa vào trong hồ sơ Phật giáo tư tưởng triết
học Âu châu là cực kỳ nguy hiểm, vì sẽ dễ dẫn đến quan niệm lệch lạc về
Phật giáo. Mỗi thuật ngữ chuyên sâu đều có quan hệ nhất định với một
loạt các thuật ngữ khác. Nhưng hai thuật ngữ, một Âu châu, một Phật
giáo, thậm chí tuy chúng rất tương ứng với nhau, cũng có thể hoàn toàn
khác nhau, vì vậy việc dịch các thuật ngữ Phật giáo cũng như các thuật
ngữ triết học của những hệ thống ngoại lai là khó khăn biết nhường nào.
Khó khăn không phải nằm trong những đặc điểm của ngôn ngữ mà trong sự
phong phú của hàng loạt những liên tưởng gắn liền với khái niệm này
trong mỗi trường hợp. Ví dụ, "Artha" hay "Visaya" tương ứng với thuật
ngữ "khách thể" nhưng với tư tưởng "ob-jectum" chúng không có gì là
chung. Khi dịch nguyên văn theo nghĩa từ nguyên học lại đề ra một nguy
cơ mới: Thuật ngữ được dịch chỉ có thể diễn đạt được một nghĩa trong
những nghĩa của thuật ngữ gốc; Vì vậy có thể có sự hiểu lầm hoặc không
đúng văn bản. Việc dùng các thuật ngữ "luật" thay cho "dharma" "dạng và
hình" thay cho "Namarupa", v.v... là những ví dụ điển hình. Trong khi đó
lại rất ít gặp trong tài liệu Trung quốc cũng như trong tài liệu Tây
tạng được dịch từ Sanskrit những điều vô lý như vậy.
Vấn đề về
phương pháp dịch các thuật ngữ Phật giáo vẫn còn xa mới giải quyết được.
Bởi vậy phải có sự xem xét kỹ càng những phương pháp dịch thuật ngữ.
Điều trở ngại vừa nêu trên rất có ý nghĩa vì nó luôn nhắc ta: tính chung
của hầu như tất cả những tư tưởng là hiển nhiên, nhưng mỗi tư tưởng
được phản ánh theo một cách. Giải quyết các vấn đề của các Phật tử, cũng
như của hệ thống Âu châu gần như nhau, nhưng phương pháp lại khác nhau.
Giá trị triết học của Phật giáo cũng như của triết học Ấn Độ nói chung
chỉnh là ở chỗ, những vấn đề mà chúng ta
Đã biết được phân tích
theo một cách khác. Bởi vậy duy trì việc trình bày theo sơ đồ Phật giáo
nguyên bản, chứ không phải trình bày tư tưởng Ấn Độ theo hệ thống Âu
châu là cực kỳ quan trọng. Tuy các hệ thống Ấn độ và Âu châu có những
tương đồng, nhưng khó có thể quy các hệ thống Phật giáo vào một hệ thống
nào của Âu châu.
Các sơ đồ của Thế Thân (Vasubandhu) được trình
bày trong Abhidharmakosa và Vjinanamatrasastra là những sơ đồ nổi tiếng
nhất trong tất cả sơ đồ giáo lý. Cả hai sơ đồ này đặc biệt là sơ đồ thứ
nhất, cho đến nay, vẫn là sơ đồ kinh điển. Trong những sơ đồ này cũng
như trong tất cả những sơ đồ khác của Thế Thân, những học thuyết siêu
hình - đối tượng chính của những cuộc tranh luận tư biện - chiếm một vị
trí cực kỳ quan trọng.
Vấn đề về mốiquan hệ của Phật giáo đối với
siêu hình học, tức đối với vấn đề tồn tại chân thực hay tuyệt đối là
một trong những vấn đề rất quan trọng.
Trong các tài liệu Âu châu
rất phổ biến ý kiến cho rằng Phật giáo cổ đại, đặc biệt là người sáng
lập, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã không quan tâm và nghiên cứu những vấn
đề bản thể luận. Tất cả những sơ thảo của Âu châu về phật giáo đều nhấn
mạnh điều này. Dẫn chứng của họ là việc Đức Phật từ chối trả lời 14 câu
hỏi liên quan tới bản thể luận.
Những học thuyết khác rõ ràng
mang tính siêu hình có trong những lời thuyết pháp của Đức Phật, chẳng
hạn như thuyết luân hồi, thuyết "thập nhị nhân duyên" thì bị khước từ
như một cái gì đó "không phù hợp với học thuyết cơ bản" của Phật giáo.
Bằng cách nhấn mạnh và đề cao tầm quan trọng phần đạo đức của phật giáo
đã thực sự gây ra một ấn tượng là thoạt đầu, trong phật giáo, không có
siêu hình.
Tuy nhiên, ở đây, còn một vấn đề khó hiểu là: Bằng
cách nào phật giáo có thể thoát ra khỏi nền triết học Ấn Độ trước đó mà
lại không có quan hệ gì đối với những vấn đề siêu hình, một trong những
vấn đề hàng đầu của Bà la môn giáo.
Linh hồn, "cái tôi", "atman"
có tồn tại không? Câu trả lời của phật giáo là: không có linh hồn, theo
nghĩa của người thường và của các nhà triết học Sankhya hay vaisesika.
Điều quan trọng cần nhận thấy là, các phật tử khi luận chiến, không nhắc
đến triết học Vedanta. Câu trả lời như vậy chỉ có thể có với một quan
điểm có căn cứ rõ ràng về một vấn đề liên quan hiển nhiên đến lĩnh vực
siêu hình.
Cuối cùng, tất cả đạo đức học phật giáo được xây dựng
trên tư tưởng "giải thoát", tức đạt đến niết bàn và thuyết luân hồi,
trừng phạt. Ở đây, có nói đến cuộc sống đã được trù định trước khi sinh,
cũng như sau khi chết. Đó lại là những câu trả lời cho những vấn đề
siêu hình. Tất cả những thuyết này không chỉ thấy trong phật giáo đại
chúng, mà cả trong các bản luận và trong chính những lời dạy của Đức
Phật. Bởi vậy, đề cập đến chúng, như một cái gì đó "không phù hợp" với
học thuyết căn bản của Đức Phật là không có cơ sở. Thậm chí cả trong
trường hợp, có cho là bản thân Đức phật không nghiên cứu siêu hình học
thi vẫn còn lại một sự kiện là: Học thuyết siêu hình học của Đại thừa
bắt đầu từ Mã Minh (Asvghosa) và Long Thọ (Nagarjuna) liên quan đến thời
cổ đại, rồi toàn bộ phật giáo sau này của Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản
đã đưa chính những vấn đề tồn tại tuyệt đối lên bình diện đầu tiên. Như
vậy, phật giáo, trên toàn bộ chiều dài lịch sử của mình, đã xâm nhập
bằng siêu hình học, như mọi tôn giáo khác.
Phật giáo dân gian,
đặc biệt ở phương Đông, ngay từ đầu, đã là tôn giáo của cầu nguyện và
niềm tin hoặc vào tha lực cứu vớt của các Đức Phật và các Bồ Tát, hoặc
vào Đức Phật Adiđà, vào Quán Thế âm Bổ Tát (Avalokitesvsra), V.V. .. hay
vào sự hồi sinh trên thiên đàng, trong "tịnh thổ". Ở Nhật Bản cổ đại,
người ta coi các nhà sư, các nhà phật tử uyên bác như các saman (phù
thủy). Trong các sử truyện và biên niên sử của Nhật bản cổ đại, nói
nhiều đến việc ở trong cung đình người ta đọc các bài giảng về triết học
của Long Thọ với mục đích cầu mưa khi trời đại hạn. Những yếu tố saman
giáo (phù thủy) vẫn còn trong phật giáo Nhật Bản cho đến ngày nay. Trong
quan hệ này, phật giáo không khác chút nào với những hệ thống tôn giáo
khác trong việc thỏa hiệp và tiếp nhận những yếu tố trong mê tín dị đoan
dân gian. Những cái gọi là bằng chứng về việc Đức Phật không nghiên cứu
những vấn đề siêu hình, vị tất có thể xem là đúng trong thực tế.
Từ
chối trả lời 14 câu hỏi hoàn toàn không chứng minh được sự thờ ơ lãnh
đạm của Đức Phật đối với vấn đề về tồn tại thực tại mà ngược lại đã nhấn
mạnh rằng Đức Phật đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này, đã xem xét nó.
Những vấn đề nêu trên được, đề cập tỉ mỉ trong tập 19 của Abhi-
dharmakosa (Kiến giải của Huyền Trang) phân loại những câu trả lời trong
những cuộc tranh luận có tính chất biện chứng. Đầu tiên Thế Thân đưa ra
những ví dụ mà hiện nay còn được tranh luận trong các giáo trình phật
giáo về phép biện chứng. Những câu trả lời đó có 4 loại: khẳng định; trả
lời có điều kiện; đặt câu hỏi sơ bộ trước khi trả lời nhằm mục đích làm
rõ hơn về cái mà câu hỏi đặt ra; và từ chối, trả lời hay im lặng. Ở đây
từ chối không trả lời được xem là trả lời.
1. Toàn thể chúng
sinh có chết hay không? - Trả lời khẳng định: có, chết.
2 . Tất cả
những người chết liệu có được hồi sinh hay không? - Trả lời có điều
kiện: Có và không: những người chưa hết dục vọng sẽ sinh, - những người
còn lại sẽ không sinh.
3. Con người mạnh hay yếu? - Câu hỏi sơ bộ :
Trong quan hệ với cái gì? So với chứng sinh bậc thấp nó mạnh, so với
thần thánh, nó yếu.
4. Skanda (nhóm các yếu tố tạo nên cá nhân) và
chúng sinh, tức là "cái tôi" có là một hay không? - Trả lời trệch đi:
Cái được gọi là "chúng sinh" trong thực tế hoàn toàn không có, bởi vậy
về nó không nên nói là nó đồng nhất với một cái gì đó. Câu "sự đồng nhất
hay không đồng nhất của chúng sinh" với một cái gì đó là rất mơ hồ, hệt
như câu: "con trai của một người đàn bà không sinh nở" hay "màu trắng
của bông hoa đen".
Sau đấy Thế Thân lại giải thích tỉ mỉ các biến
dạng của những câu trả lời đó bằng những thí dụ khó hơn được lấy ra từ
triết học, và từ kinh A-hàm (Agamasatra), ở đấy, chính Đức Phật giải
thích bốn biến dạng của những câu trả lời. Những câu hỏi, như Đức Phật
nói, là không thể trả lời được gồm:
1- 4) Thế giới là thường tồn
hay không thường tồn ? Hay vừa thường tồn vừa không thường tồn ? Hay vừa
không phải là thường tồn vừa không phải là không thường tồn?
5-8)
Thế giới có phải là hữu hạn (trong thời gian) hay không ? Hay vừa hữu
hạn vừa không hữu hạn? Hay vừa không hữu hạn vừa không không hữu hạn?
9-12)
Đức phật sau khi chết có tồn tại hay không? Hay vừa tồn tại vừa không
tồn tại? Hay vừa không tồn tại vừa không không tồn tại?
13-14) Cuộc
sống và thân thể (cá nhân) có phải là một không? Hay không phải?
Nhà
chú giải Phuguan cho rằng, không nên trả lời những vấn đề này, bởi vì
"thế giới", "Đức Phật" và "cuộc sống" như người hỏi hiểu, không là gì
khác hơn là cái tôi được biểu thị một cách gián tiếp, tức là, người hỏi
hiểu "thế giới" là thế giới bên ngoài, như một cái gì đó độc lập với
"cái tôi" kinh nghiệm, mà anh ta không nghi ngờ gì về tính thực tại độc
lập tuyệt đối của nó. Người hỏi ngụ ý hiểu Phật là "cái tôi" của người
thầy Thích Ca Mâu Ni, tức là linh hồn của Ngài, như một cái gì đó tách
khỏi thế giới được Ngài xúc cảm. Cũng như vậy, người hỏi hiểu "cuộc
sống" như một cái gì đó tách rời, có thể đổng nhất với cá nhân kinh
nghiệm.
Đức Phật đã luôn dạy rằng không có "cái tôi" độc lập như
vậy không có thế giới tách rời "cái tôi", không có "những vật thể" độc
lập không có "cuộc sống" tách rời, - tất cả những cái đó là - những
tương tác bền chặt và chỉ bị tách khỏi nhau trong tưởng tượng. Người hỏi
yêu cầu Đức Phật mô tả thuộc tính cái mà Ngài phủ định sự tồn tại của
nó, tức yêu cầu Ngài có một nhận xét khẳng định về cái đó. Đức Phật im
lặng. Nói theo ngôn ngữ lôgíc Phật giáo của Digunga, lập luận "thế giới
hữu hạn" không được Đức Phật đặt ra với tư cách là "luận đề", bởi vì Đức
Phật "không thừa nhận" luận đề 'thế giới". Trong trích yếu lôgíc của
Dignarama học trò của ông là Sankarasvamin soạn, có khái niệm "luận đề"
như sau: Luận đề là cái mang chất lượng (S) được thừa nhận, và chất
lượng được thừa nhận (P), trong trường hợp khi chúng quy định lẫn nhau,
tức được đặt trong mối liên hệ lẫn nhau trong cùng một lập luận. Luận đề
là "sai lầm" tức vô ích đối với lập luận khi một phần nào đó của một
trong những mặt được tranh luận không được thừa nhận. Trong trường hợp
nay, chúng ta mắc sai lầm do không thừa nhận luận đề chủ, ví dụ như việc
người theo học thuyết Sankhya mà lại nói với người Phật tử rằng, "cái
tôi" - đó là tính tích cực của ý thức. Kuidzi trong "Đại chú giải" đã
giải thích quy tắc này như sau: Vị từ "centana" (tính tích cực của ý
thức không được cả hai phía thừa nhận, bởi vì trong những yếu tố mà Đức
Phật dạy, có nhắc tới yếu tố này. Chủ từ "tôi" không được thừa nhận bởi
đa số những người Phật tử, bởi là không tồn tại cái mà không được thiết
lập trực tiếp bằng các phương thức nhận thức đúng đắn, tức hoặc bằng
cách quan sát trực tiếp nội trạng và ngoại thể, hoặc bằng cách suy luận
tư biện .
Điều đó có nghĩa: "Cái tôi" mà chủ nghĩa thực tại ngây
thơ không nghi ngờ sự tồn tại của nó, là không thể nhận biết bằng kinh
nghiệm. Bởi vậy không cần thiết đưa vào trong những yếu tố tiên nghiệm
thuần túy cái thực tại đặc biệt, linh hồn hay "cái tôi" để lý giải một
hiện tượng hư ảo như vậy. Cái được gọi là "cái tôi" kinh nghiệm hoàn
toàn được lý giải bằng những yếu tố và những quy luật khác nhau trong
những liên tưởng của chúng. Do đó những vấn đề bị trệch đi hoàn toàn
không do chúng là siêu hình, mà vì không thể trả lời chúng về mặt lôgíc.
Đức Phật đứng trên quan điểm đó.
Có cần ngạc nhiên hay không khi
Đức Phật đã không giải thích cho những ai tò mò hỏi Ngài bằng quan điểm
phê phán hay bằng quan hệ của mình đới với vấn đề về tồn tại? Người
không chuyên tâm vào những học thuyết triết học sẽ không hiểu Ngài ngay
được.
Những lời của Đức Phật về "sự không quan trọng" của những
vấn đề này gợi nhớ tới những lời của Kant: "hoàn toàn không cần để mọi
người nghiên cứu siêu hình học". Trong mọi trường hợp, những học trò và
những người kế tục Đức Phật rất nhiều lần đã hỏi, đã viết về những vấn
đề này và đã kiên định trích những lời của Thầy. Ta sẽ tự hỏi, vậy phải
giải thích như thế nào điều mà các tác giả Âu châu cứ một mực phủ nhận
tính siêu hình của Phật giáo nguyên thủy. Phần nào, hiện tượng đó có thể
được lý giải theo hai khuynh hướng. Một mặt, các tác giả những nhà
truyền giáo của đạo thiên chúa, một cách vô ý, đối khi cố ý đã nhấn mạnh
tính phản siêu hình của Phật giáo để chứng minh tính vô căn cứ và không
hoàn thiện theo nghĩa hệ thống tôn giáo của đạo Phật.
Mặt khác,
hình như việc không có siêu hình học trong Phật giáo đã được chỉ ra như
một ưu thế, vì Phật giáo được đặt ra như một hệ thống có khả năng thay
thế tôn giáo nhưng không đối lập với thế giới quan khoa học hiện đại.
Không nên quên rằng, khởi đầu của việc nghiên cứu Phật giáo trùng với
thời kỳ triết học siêu hình suy thoái và các hệ thống thế giới quan duy
vật thì hưng thịnh ở Âu châu. Cái gọi là sự trùng hợp của học thuyết
Phật giáo với kết quả của khoa học hiện đại được nhấn mạnh đặc biệt
trong các tác phẩm thần bí gần với Phật giáo. Sự khẳng định của những
nhà Sanskrit học như Oldenberg, Rhys-Devids, Pisel, v.v ... có lẽ đã vô
tình dựa trên khuynh hướng bảo vệ Phật giáo khỏi những phê phán về mặt
siêu hình, tức là muốn đặt Phật giáo như là một hệ thống đáng được sự
chú ý của những người phủ nhận triết học tư biện.
Nguyên nhân
chính của việc hiểu không đúng triết học Phật giáo chính là do các văn
bản mang tính hệ thống trong suốt một thời gian dài không được nghiên
cứu. Một khi đã biết tới các tác phẩm kinh viện của Phật giáo cổ đại thì
điều khẳng định Phật giáo cổ đại phủ nhận những vấn đề siêu hình là
hoàn toàn không có cơ sở.
Nguyễn Hùng Hậu & Ngô Văn Doanh
dịch
Theo: Phật giáo - Những vấn đề triết học