Chúng ta hiện sống một cuộc đời đầy sợ hãi:
sợ chết, sợ tội, sợ bệnh, sợ nghèo, sợ khổ, sợ dốt, sợ chiến tranh, sợ dư
luận... còn rất nhiều thứ sợ không thể kể ra cho hết.
Mọi người đều mong được thoát ra khỏi những
sự sợ hãi đang trực tiếp đe dọa đời sống, nhưng có mấy ai thoát được. Vừa hết
cơn sợ này thì cái sợ kia đã đến, và còn nhiều cái sợ khác thường xuyên ám ảnh.
Vì sợ bệnh nên phải giữ vệ sinh và phải uống thuốc, vì sợ nghèo khổ nên phải
làm việc khó nhọc, vì sợ dốt nên phải học hành chăm chỉ, vì sợ chiến tranh nên
phải củng cố sức mạnh đoàn kết kiến tạo hòa bình, vị sợ dư luận nên phải sống
cho đúng khuôn mẫu, đúng với luân lý đạo đức, vì sợ tội nên việc làm phải đúng
với luật của thế gian cũng như luật thiên nhiên, vì sợ chết nên phải quý mến và
bảo vệ đời sống, vì sợ thất bại nên phải cố gắng thành công, vì sợ điều ác mà
phải làm điều thiện. Tóm lại, chúng ta chỉ tìm cách giải quyết sự sợ hãi bằng
những phương pháp hời hợt bề ngoài để tránh những hậu quả tai hại, mà không
chịu tìm hiểu nguyên nhân của sự sợ hãi và không chịu tìm cách đối phó diệt trừ
sự sợ hãi ngay từ chỗ khởi nguyên.
Chúng ta thường sợ mất những cái gì mà chúng
ta đã có hoặc sợ không có được những cái gì mà chúng ta mong cầu: của cải,
ruộng vườn, nhà cửa; chúng ta phải biết rằng những vật đó không thường còn, lúc
này thuộc của ta, lúc khác về người khác, hoặc bị tiêu tan vì chiến tranh hoặc
thiên tai; nếu nghĩ cho kỹ thì biết thân ta cũng chẳng ra gì, chỉ là cái túi da
bọc những vật nhơ uế bất tịnh, chính ta cũng chẳng làm chủ được cái thân ta,
nay ốm mai đau; thân ta do tứ đại hòa hợp mà thành, hết duyên thì lại tan rã,
thân ta chẳng có tự thể, nó vô ngã, thì những vật ngoài thân có gì đáng quý
chuộng đâu, mất còn chẳng tiếc. Họa phúc ở đời đều do nghiệp nhân gây ra, làm
lành gặp lành, làm ác gặp ác, luật nhân quả vay trả không sai, biết vậy thì
không còn sợ hãi gì nữa, gặp cảnh ngộ nào tâm cũng được an định, dù đắc dù
thất, dù mất dù còn, dù khổ hay sướng, chúng ta cũng bình tâm, thản nhiên chịu đựng,
không còn sợ hãi vẩn vơ nữa.
Chúng ta sợ dư luận, sợ mất danh dự chăng?
Hãy suy gẫm sâu xa thì thấy chúng ta chẳng là gì cả; tên tuổi, chức tước, danh
vọng, tiền của ... chỉ là những tấm bình phong dùng để che đậy cái vô giá trị
của thân tứ đại rỗng tuếch; lời khen, tiếng chê cũng chẳng làm tăng hay giảm
cái rỗng không đó, hoặc chúng ta cố gắng tránh né để thoát ra ngoài cái rỗng
không đó bằng trăm phương nghìn cách, cái rỗng không đó vẫn hiện hữu, không tăng
không giảm; và chỉ khi nào chúng ta trực nhận được chính chúng ta là cái rỗng
không đó, không còn phân biệt năng sở, thì sự sợ hãi tự nhiên không còn, tâm
thức vắng lặng, chân trí hiển hiện.
Vì đâu mà có sự sợ hãi? Sự sợ hãi phát xuất
và hiện hữu vì chúng ta không hiểu chúng ta, vì con người không tự hiểu mình.
Rồi chúng ta lại không chịu tìm hiểu mối tương quan giữa những con người với
nhau, và giữa con người và vạn vật trong vũ trụ.
Muốn tự hiểu mình, chúng ta hãy suy gẫm lời
Phật dạy: Con người cũng như vạn vật danh sắc (nama rupa) hợp thành, do nhân
duyên sinh khởi, chịu sự chi phối của luật vô thường, tất cả đều vô ngã. Vô ngã
là không có cái ta trường tồn bất biến, không có chủ thể, không có linh hồn bất
diệt. Cái ta đã không thì những vật của ta (ngã sở) cũng không luôn, những ý
niệm về của cải, danh lợi... nhờ đó mà tiêu tan, không còn ràng buộc con người
trong vòng nô lệ nữa. Cái ta riêng biệt đã không thì tất cả đều dính chùm với
nhau, liên quan với nhau; không những con người có liên quan với tất cả vạn vật
trong vũ trụ; tất cả đều cùng chung một nguồn gốc, một bản thể.
Một khi đã hiểu và nắm vững lý Vô Ngã thì
chúng ta giải quyết dễ dàng mọi sự sợ hãi; hơn nữa sự sợ hãi vốn không có thật
thì việc gì phải e ngại và chống đối. Khi chúng ta sợ, chúng ta nhận là cái ta đang
bị đe dọa, có một cái ta là chủ (năng) và cái đe dọa là đối tượng (sở). Cái ta
phải chống cự, chiến thắng, hoặc tránh né đầu hàng sự đe dọa đó. Nếu nhận được
cái ta là không thì sự tương quan năng sở tiêu tan, làm gì còn sự sợ hãi nào
nữa. Sự sợ hãi chỉ hiện hữu khi nào chúng ta không cảm thông với mọi sự kiện
xảy ra; còn khi đã đối diện với một sự kiện nào đó, chúng ta nhìn thẳng vào nó,
không tránh né, không suy luận, mà quán sát, phân tích, tìm hiểu, thì lúc đó
những ảo ảnh của tâm thức đang che đậy sự thật sẽ tan biến, chân lý hiện bày và
sự sợ hãi không còn nữa.
Chính những ý kiến, ý tưởng, kinh nghiệm,
kiến thức của chúng ta, chính tâm ta đã tạo ra sự sợ hãi. Vì một niệm bất giác
nổi lên che lấp chân tâm nên vọng thức phân biệt có ta và những cái không phải
ta (năng sở), rồi diễn đạt sự kiện thành ngôn từ, đặt tên cho mọi sự mọi vật,
rồi phán đoán là đúng hay sai, thiện hay ác, sướng hay khổ, tốt hay xấu... từ
chỗ đó phát sinh ra mọi điều tranh chấp, và kết quả là chúng ta gánh chịu những
chấp trước, mang nặng những sợ hãi thường xuyên đe dọa đời sống con người. Nếu
sự sợ hãi do tậm tạo thì chính cũng nhờ cái tâm đó mà chúng ta phá trù sự sợ
hãi. Chúng ta lắng tâm suy nghĩ, can đảm nhìn thẳng vào sự thật, ngược dòng
thời gian và không gian, phăng lần ra gốc rễ của sự sợ hãi, rồi dùng gươm trí
tuệ mà chặt đứt lưới vô minh, thấu hiểu lý Vô Ngã, thì chúng ta sẽ thấy sự sợ
hãi không thật có, nó chỉ là sản phẩm của vọng thức mà thôi.
Chúng ta chỉ được hoàn toàn tự do thoát khỏi
sự sợ hãi khi nào biến đổi vọng thức thành chân trí có khả năng trực nhận chân
lý mà không cần phải diễn dịch sự kiện, không cần phải đặt tên hay dán nhãn
hiệu cho sự kiện đó. Việc này thật là khó vì chúng ta có thói quen đặt tên cho
mỗi vật, rồi dựa vào ký ức để phán đoán là đẹp hay xấu, lành hay dữ. Chúng ta
hãy cố gắng tập nhìn thẳng vào sự vật mà không phán đoán, không đánh giá, không
suy luận bằng vọng thức, mà phải dùng chân trí thâm nhập vào bản thể của sự
vật, thì lúc đó mới không còn sợ hãi nữa: mà muốn hiểu mọi vật, hãy tự biết
mình trước đã. Chúng ta chỉ có thể chấm dứt được mọi sự sợ hãi khi mình tự biết
mình. Đó là khởi điểm của sự sáng suốt, sự bừng tỉnh đưa đến chỗ Đại-Ngộ mà
Thái-Tử Tất-Đạt-Đa đã chứng được dưới cội Bồ-Đề, sáng sớm ngày Thành Đạo.
Chúng ta đều có Phật tánh, đều có khả năng
thành Phật, chúng ta hãy nắm vững lý Vô Ngã, sống trong lý Vô Ngã, thoát ra
khỏi mọi sợ hãi vô minh, thì chúng ta đã được giải thoát hiện tiền, sống trong
cảnh an vui tự tại./.