I.
TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO:
Phật giáo là một
chân lý thực tại[1]; một triết lý vượt ra ngoài mọi triết lý, triết
lý của hành động và dấn thân; một tôn giáo vượt ra ngoài mọi tôn giáo, tôn giáo
của từ bi và cứu khổ; một luân lý vượt ra ngoài mọi luân lý, luân lý của sự
chuyển hoá và thoát ly mọi hệ lụy. Hay nói cách khác, "con đường chánh trí
đưa đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tịnh lạc giải thoát cho tương
lai".
II.
TÍNH THUẦN TÚY CỦA PHẬT GIÁO QUA MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG:
A.
PHẬT GIÁO TRÊN PHƯƠNG DIỆN TÔN GIÁO HỌC:
Muốn tìm hiểu Phật giáo có phải là tôn giáo hay không,
chúng ta hãy tìm hiểu tính chất tôn giáo như thế nào. Tôn giáo được định nghĩa:
"Tôn giáo là một hệ
thống của niềm tin và sự tôn thờ, là sự trực nhận của con người về năng lực chế
ngự siêu nhiên, đặc biệt là ngôi vị thượng đế có uy quyền được tuân phục, là
kết quả trực nhận trong ứng xử,…" (The religion is a
system of faith and worshist; human recognition of super human controlling
power and sespecially of personal God entitled to obedience, effect of such
recognition on conduct,ect.)[2]
Và tiến sĩ Max Müller nhận xét:
"Tôn
giáo được xây dựng trên niềm tin ở thần quyền, xưng tội, cầu nguyện, tế lễ và
hy vọng vào một sự sống vĩnh hằng trong tương lai".[3]
Phật giáo, một tôn giáo không đặt nặng niềm tin vào Thần
linh, Giáo điều, Thần khải mà tin vào chính mình:
Từ
định nghĩa và những nhận xét trên là xuyên qua lăng kính của người Tây phương
để nhận xét về Tôn giáo theo hệ thống Cơ đốc giáo sùng thượng thần linh. Không
một yếu tố nào trong năm yếu tố trên đây được tìm thấy trong Phật giáo nguyên
thủy. Thật vậy, trong Phật giáo hoàn toàn vắng bóng Thần linh vạn năng (god),
không có tánh cách Thần khải (divine dictation) và Giáo điều (dogmas).
Người
Phật tử không phải quỳ lạy và phục vụ một oai lực thiên nhiên cầm quyền thưởng
phạt và kiểm soát định mạng nào hết, mà người Phật tử ý thức được rằng, chừng
nào sự sống có giá trị đích thực khi mà con người ý thức được rằng biết trân
trọng phẩm hạnh chính mình.
Phật dạy: "Con người là chủ nhân của
nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa, là thai
tạng và từ đó con người sinh ra".[4]
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện
tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá
khứ hay bây giờ của chúng ta, không phải do hoạ gởi tai bay hay một đấng thiên
nhiên nào mang đến. Nên biết rằng, cơ hội sẽ không bao giờ đến với người chỉ
trông chờ vào sự may mắn, mà nó sẽ đến với những ai biết tự tạo cho chính mình
cơ hội bằng nỗ lực.
Phật dạy: "Tự mình làm điều ác/ tự
mình làm nhiễm ô/ tự mình ác không làm/ tự mình làm thanh tịnh/ tịnh không tịnh
tự mình/ không ai thanh tịnh ai"[5].
Con người phải tự chịu trách nhiệm về hành
vi tốt hay xấu của chính mình, làm sao một cõi Niết-bàn hoặc một thế giới đầy
thánh thiện nào đó có thể chấp nhận được những con người có tâm địa đen tối,
đầy rẫy những tội lỗi mà có thể sanh về.
Phật dạy: "Khi tôi thanh tịnh, tôi
thấy thế giới thanh tịnh"[6].
Cõi Niết-bàn xem như là một món quà cho
những người sống trọn vẹn một kiếp sống thánh thiện; quốc độ này không thể đón
nhận những kẻ chỉ có lòng ngoan đạo và đức tin thôi, mà phải là: "Không
làm các việc ác/ thành tựu mọi hạnh lành/ giữ tâm ý trong sạch/ y theo lời Phật
dạy"[7].
Hơn nữa: "Trí tuệ là yếu tố tiên quyết
để vượt khổ, trừ mê; là sự bình an trong kiếp sống hiện tại và mai sau"[8].
Đức Phật luôn dạy đệ tử phải biết tư duy và
thẩm định về giáo pháp, ngay cả những lời dạy của Ngài. Bước vào đạo lộ tu tập,
chúng ta bắt gặp ngay những yếu tố đầu tiên "chánh kiến" và
"chánh tư duy". Đây là những yếu tố quan trọng trong suốt lộ trình tu
tập, làm nền tảng cho tuệ phát sinh, xác chứng được sự thật của sự vật, để phá
trừ "ngã chấp" và "khổ đau".
Và nếu nhìn nhận bằng trí tuệ cũng nên biết
rằng: "Chân lý mà đức Phật nói ra là con đường diệt khổ, và đức Như Lai
cũng chỉ là bậc Thầy chỉ đường (Akkātaro-tathāgato)"[9].
Nếu chân thật mà nhìn nhận về đức Phật, thì
phải biết rằng: "Ngài là một vị hữu tình không còn si ám, sinh ra ở đời vì
hạnh phúc nhân loại, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho chư thiên và loài người"[10].
Trên hành trình tu tập, nỗ lực luôn là yếu
tố hàng đầu, luôn được đức Phật đề cao: "Hãy ẩn náu nơi chính ta như là
một hải đảo, như một chỗ nương tựa; hãy ẩn náu nơi giáo pháp như một hải đảo,
một nơi nương tựa; không nên ẩn náu từ nơi bên ngoài"[11].
Để minh chứng cho sự thật này, đức Phật đã
đưa ra nhiều dẫn chứng về sự thất bại và vô nghĩa của con người, khi giải quyết
những vấn đề nhân sinh như "sống-chết, hạnh-phúc và khổ-đau,… chỉ trông
đợi vào thần linh bằng những phương thức tế đàn"[12]. Tại sao phải tin
vào một đấng thần linh trừu tượng xa xăm nào đó mà mình không thể hình dung
nỗi, trong khi chúng ta quên đi sự thực chính mình!!? Những niềm tin này làm tê
liệt ý chí phấn đấu và vươn lên của con người. Ngài dạy, để giải quyết những
thực tại của cuộc sống đang đè nặng lên thân phận con người là phải đối mặt
cuộc sống, nhận diện cuộc đời như thật chính nó (yathabhutamī) để rồi hoá giải,
chứ không phải quay lưng trốn chạy.
Phật giáo, một tôn giáo của giác ngộ, trí tuệ, từ bi và vô
ngã:
Hơn nữa, Phật giáo là một chân lý sống giữa
cuộc đời, chứ không phải lời Thần khải từ trên trời xanh rơi xuống mà là một sự
thật, một lẽ sống không ai có thể làm cho khác đi được.
Đức Phật khẳng định: "Này các Tỳ kheo,
dầu chư Phật có xuất hiện hay không, một nguyên tắc nhất định, một định luật
thiên nhiên, là tất cả các vật hữu lậu đều vô thường (anicca), khổ não (dukkha)
và vô ngã (anatta)"[13].
Nếu chân lý các tôn giáo khác là qui chiếu
(frame), là ước lệ (condition), là giáo điều (dogmas) hay thần khải (divine
dictation) thì Phật giáo chỉ là sự thể nghiệm[14], là một chân lý
thực tại, mà giá trị đó nằm ngay con người chứ không phải là thần linh. Phật
giáo giúp cho chúng ta chuẩn bị tâm lý đối mặt với sự sống và trực diện với cái
chết một cách thanh thản và bình an.
Với Phật pháp, những ý tưởng về duy thần,
duy vật, duy tâm,v.v… đều không phù hợp với cách nhìn của Phật giáo. Chừng mực
nào đó, lời nhận xét của nhà Bác học Albert Einstein về Phật giáo có thể chấp
nhận:
"Tôn
giáo tương lai sẽ là tôn giáo của toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều
và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên,
đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện trên trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng một cách đầy
đủ các điều kiện ấy". (lời phát biểu của Bác học Albert Eistein)
(The religion of the future will be a cosmic
religion. It should transcend a personal God and avoid dogmas and theology,
convering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious
sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a
meaningful unity. Buddhism answers this description. – Einstein’s testament)[15].
B. PHẬT GIÁO TRÊN PHƯƠNG DIỆN TRIẾT HỌC:
1.
Khái niệm về triết học:
"Triết
học (philosophy) là khoa học nghiên cứu về qui luật chung nhất của thế giới và
sự thật của thế giới; những quan niệm chung nhất về những vấn đề nhân sinh và
xã hội"[16].
Nhìn
chung triết học chuyên nghiên cứu về Vũ trụ quan (Weltanschauung) và Nhân sinh
quan (Menschauung); mà nền tảng của mọi hệ tư tưởng triết học đều được định
hình trên cơ sở "lý đoán", cũng gọi là hệ tư tưởng "duy
lý", hoặc là "thực dụng", cũng gọi là hệ tư tưởng "duy nghiệm".
Mục tiêu hàng đầu của triết học không ngoài nâng cao tri thức và hướng đến chân
trời hạnh phúc và an lạc cho con người. Tuy nhiên, đôi khi triết học cũng có
lúc lao mình ra khỏi quỹ đạo nhân sinh và rơi vào không gian siêu hình lý luận
mênh mang, tạo thành làn tư tưởng chủ nghĩa, những ý thức hệ cực đoan đầy xung
đột, thành kiến lẫn nhau, như chủ nghĩa Duy nghiệm Anh trước thời Kant
(Pre-Kantian British Emprisism) và chủ nghĩa Duy vật sau thời Kant và Hegel
(Post-Kantian and Post-Hegelian Materialism). Ở điểm này, triết học xã hội còn
được gọi là "tư biện"[17].
2.
Phật giáo, nền triết học nhân tính bao gồm cả mọi phương diện tự nhiên lẫn siêu
nhiên:
Đạo Phật không đề cao chủ nghĩa duy
nghiệm-duy vật[18], cũng không đề cao
chủ nghĩa duy lý. Đức Phật bác bỏ mười câu hỏi siêu hình[19] của 62 luận thuyết
ngoại đạo. Triết học Phật giáo không nhìn về con người và thế giới một cách
phiến diện như vậy mà toàn diện hơn, như Duyên sinh vô ngã, Tánh không…
Một trong những ngành Tâm lý học Phật giáo,
"Duy thức học đã phân tích tâm lý con người một cách có hệ thống và rất
chi tiết, mối quan hệ giữa năm giác quan con người (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân)
và sự vật (sắc, thanh, hương, vị, xúc) cùng với Tâm thể (nhãn thức, nhĩ thức,
tỉ thức, thiệt thức, thân thức). Ngoài ra, còn có giác quan thứ sáu (Ý), khi
tiếp xúc với Pháp trần tạo ra Ý thức. Nó có công năng nhận thức sự vật này hay
sự vật khác và làm chủ cuộc sống của chúng ta. Ngoài Thức thứ sáu còn có Thức
thứ bảy (Mạt na thức: khát vọng sanh tồn) và Thức thứ tám (Alaya thức: chứa
đựng chủng tử). Bao gồm những yếu tố này là hoạt động sự sống tồn tại của một
con người. Đạo Phật không dừng ở đó mà còn chia chẽ chi ly thành trăm pháp: 8
Tâm pháp, 11 Sắc pháp, 51 Tâm sở hữu pháp, 24 Bất tương ưng hành pháp và 6 Vô
vi pháp"[20].
3.
Đạo Phật, nền triết học nhân vị thực tại:
Luận chứng về triết học biện chứng pháp
(dialectique) của Phật giáo vượt ra ngoài duy vật và duy tâm. Với trăm pháp
này, Đạo Phật đã trình bày một cách mạch lạc về căn thân (sinh lý), thế giới
hiện tượng (vật lý) và Tâm lý xung động đang trôi chảy như một diễn dịch pháp;
Đạo Phật đã trình bày trên nguyên lý chung Sắc pháp không ngoài Tâm pháp mà có,
tức công nhận hình thức phải chịu dưới hệ thống tổ chức của tinh thần. Hơn nữa,
Hiện tượng và Tâm tưởng không thể tách rời nhau mà tồn tại, tức biện chứng pháp
muốn qui nạp "hiện tượng" với "tâm tưởng" cùng một bản thể,
mà bản thể ấy có trong các đơn vị hiện tượng. Nhưng tất cả nhận thức và cảm
nhận của con người đều do ý làm chủ, ý quyết định; tốt-xấu, lành-dữ,… đều do ý
mà ra.
"Ý dẫn đầu các pháp/ ý chủ, ý tạo tác/
nếu với ý ô nhiễm/ nói năng hay hành động/ khổ nào sẽ theo sau/ như xe theo
chân vật kéo"[21].
"…/ nếu với ý thanh tịnh/ nói năng hay
hành động/ hạnh phúc sẽ theo sau/ như bóng không rời hình"[22].
Hơn nữa, Ngài còn dạy: "Tâm thức giống
như một nghệ sĩ vì nó có tác dụng thiên hình vạn trạng nghiệp quả". (Citta
is like an artist because it effests manoforld Karma.)[23]
Hoặc:
"Tâm khó thấy tế nhị/ theo các dục quay cuồng;/ người trí phòng hộ tâm/
tâm hộ an lạc đến."[24]
Vì
vậy, đức Phật luôn đề cao ý thức con người, Ngài mổ xẻ chi ly để chúng ta hiểu
một cách tường tận, không mắc phải sai lầm, luôn tỉnh giác và lựa chọn một cách
thích đáng cho cuộc sống chính an lành và hạnh phúc hơn.
Trên
đây, chỉ đơn cử một vài khía cạnh tiêu biểu về triết học Phật giáo. Ngoài ra,
còn có nhiều thuyết như: Duyên sinh vô ngã, Tánh không,v.v… là những triết
thuyết uyên thâm khơi nguồn cảm hứng cho những triết gia hiện đại, là những ánh
đuốc thiêng trong bầu trời Triết học nhân loại. Như lời khẳng định của Giáo sư
Hyxley:
"Đức Phật đã bác bỏ hoàn toàn cả đến cái bóng hiện hữu trường
cửu, bằng một sức mạnh siêu hình hữu ích cho những Sinh viên Triết học,… Đức
Phật đã có cái nhìn sâu xa hơn các nhà Duy tâm vĩ đại nhất. Khuynh hướng về một
tư tưởng giác ngộ, ngày nay trên khắp thế giới, không những nghiên về Triết
học, Tâm lý."
(Gotama got rid of even that shade of a shadow
of permanent existence by a mentaphysical tour de force of great interest to
the student of Phisolophy,… Gotama should have seen deeper than the great
thought of all today over the world is not towords theology, but Phisolophy and
Phychology.)[25]
Phật
giáo, nền triết học không đặt nặng lý luận siêu hình mà là nền triết học phản
ảnh thực tại sự sống đang là (To their appearances as they really are), vượt ra
ngoài những kiến chấp nhất nguyên, nhị nguyên, đa nguyên, duy vật, duy tâm,...
C. PHẬT GIÁO TRÊN PHƯƠNG DIỆN LUÂN LÝ
HỌC:
a. Khái niệm về luân lý học:
"Luân lý là những qui tắc về quan hệ đạo
đức giữa người và người trong xã hội"[26].
Trong
đời sống xã hội, luân lý luôn đóng một vai trò quan trọng, tạo thế thăng bằng
và ổn định cho sinh hoạt cuộc sống cộng đồng như pháp luật, điều lệ, qui
ước,v.v… mà mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ. Cũng vậy, Giáo lý đức
Phật có phần luân lý tuyệt hảo dành cho Tại gia lẫn Xuất gia; tuy nhiên, Phật
giáo không phải là một hệ thống giáo huấn về luân lý thông thường.
b. Phật giáo, nền luân
lý thoát ly hệ lụy đưa đến an lạc và là bước đầu trên đạo lộ giải thoát:
Một
trong ba môn học vô lậu giải thoát: Giới học (Adhisīlā-sikkhā), Định học
(Adhicitta-sikkhā) và Tuệ học (Adhipaññā-sikkhā) thì Giới học chính là luân lý
học. Tuy nhiên, đây không phải là yếu tố sau cùng của Phật giáo, mà Giới chính
là một trong ba yếu tố quan trọng trong tiến trình giải thoát (Patimokkhā). Nhờ
Giới giúp cho người Phật tử có một nếp sống trong sạch, không mắc phải sai lầm,
nhờ không mắc phải sai lầm mà tâm hồn được an tịnh (Định: Dhyana), nhờ tâm hồn
được an tịnh nên ý chí mới sáng suốt (Tuệ: Paññā). Như vậy, giới là yếu tố đầu
tiên tạo tiền đề cho Định và Tuệ phát sinh. Giới, Định và Tuệ luôn có mặt và hỗ
trợ cho nhau trong suốt lộ trình tu tập của người Phật tử.
Vả
lại, chúng ta cũng ghi nhận, Giới quan trọng như thế nào qua lời Phật dạy về
bảy chặng đường tu tập để đạt mục tiêu tối thượng:
"Nhờ
Giới thanh tịnh dẫn đến Tâm thanh tịnh,… Kiến thanh tịnh,… Đoạn nghi thanh
tịnh,… Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh,… Đạo tri kiến thanh tịnh,… Tri kiến
thanh tịnh,… Vô thủ trước Bát Niết-bàn."[27]
Phật giáo là nền luân lý giáo dục ý thức tự giác và tự chịu trách
nhiệm cá nhân:
"Chừng
nào Giới luật còn thì Phật pháp còn". Tuyệt nhiên, giới luật (luân lý đạo
đức) của Phật pháp khác xa với giáo điều của các tôn giáo và các luật tắc xã
hội:
"Nền luân lý không tín điều và áp đặt, mà ý thức trách nhiệm về
hành vi luân lý, đạo đức, không để mắc phải những sai lầm về thân-khẩu-ý. Mỗi
cá nhân tự trau dồi nhân cách với động cơ ý thức hơn sự ràng buộc của pháp
luật; vì họ ý thức được rằng cho dù có kỷ xảo, điêu ngoa để chạy trốn pháp luật
nhưng cũng không thể trốn chạy được lương tâm và nghiệp quả của mình."[28]
c. Phật giáo là nền
luân lý giáo dục có sự soi sáng của trí tuệ:
Hơn
nữa, nền luân lý đạo đức Phật giáo luôn được xây dựng trên nền tảng triết học
Phật giáo; điều đó có nghĩa là được sự soi sáng của trí tuệ. Nên biết cho dù có
tác phước, hành thiện,… có bố thí, trì giới,… mà không đạt được vô thủ chấp, vô
ngã cũng đều vô nghĩa mà thôi. Do đó, nền luân lý đạo đức Phật giáo không bao
giờ chấp nhận cái gọi là "sự thật" hoặc "lẽ phải" mang tính
quy chiếu, ước lệ của tập quán hoặc quyền lực áp đặt bắt phải tin theo, không
cần thẩm định.
Phật
dạy cho bộ tộc Kālāma về ý nghĩa này: "Này các người Kālāma, chớ tin vì
nghe truyền thuyết,… vì truyền thống,… vì nghe người ta nói,… vì được kinh tạng
truyền tụng,… vì nhân duyên lý luận siêu hình,… vì đúng theo một lập trường,…
vì đánh giá hời hợt những dữ kiện,… vì phù hợp với định kiến,… vì phát xuất từ
nơi có uy quyền,… vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kālāma,
khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là bất thiện, các pháp này
có tội, các pháp này bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận đưa đến bất hạnh và khổ đau. Thời này các Kālāma, hãy từ bỏ
chúng!"
"Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp
này là thiện, các pháp này là tốt, các pháp này được các người có trí tán thán;
các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến lợi ích và tốt đẹp. Thời này
các Kālāma, hãy chấp nhận chúng!"[29]
Và
một lần khác đức Phật dạy ngài La-hầu-la (Rāhula):
"Nếu
có điều gì con muốn làm, này hỡi La-hầu-la, hãy suy nghĩ như vầy: Điều này có
hại cho ta và kẻ khác, vậy điều đó là hành động xấu, sẽ đem đến khổ đau. Con
hãy hết sức tránh xa điều ấy."
"…
Điều này không có hại cho kẻ khác. Vậy đó là hành động sẽ đem lại hạnh phúc,
hành động ấy con hãy làm và làm nhiều lần."[30]
d. Phật giáo là nền
luân lý giáo dục nhân bản trên định hướng an lạc cho cá nhân và cộng đồng:
Trên
phương diện luân lý đạo đức Phật giáo, những hành động nào liên quan đến tham
(lodha), sân (dosa) và si (moha) là xấu; hành động vô tham (alodha), vô sân
(adosa) và trí tuệ (Paññā) là tốt. Những hành động tốt rất cần cho việc tu tập,
nhưng một khi hành giả đã thành tựu mục tiêu giải thoát tối thượng rồi, thì
hành giả vượt ra ngoài cái tốt, cái xấu,… Như hành động của một vị A-la-hán đã
diệt tận mọi ô nhiễm, vượt ra ngoài luân lý, không còn bị chi phối bởi
thiện-ác. Hành động ấy gọi là hành động Duy tác (Kiriya: vô tác nghiệp).
Trở
lại vấn đề luân lý Phật giáo, người Phật tử luôn nghĩ đến mình và kẻ khác, kể
cả loài thú vật và chim muông.
Phật
dạy: "Ai sống tự trang sức/ nhưng an tịnh nhiếp phục/ sống kiên trì, phạm
hạnh/ không hại mọi sinh linh/ vị ấy là phạm chí/ hay Sa-môn, Khất sĩ."[31]
Với
luân lý, đạo đức Phật giáo, ta thấy sự khoan dung, độ lượng nơi lòng "từ
bi" và "vị tha" không biên giới nơi tấm lòng "vô ngã".
Trong Phật giáo, không một hành động xâm hại nào được hoan nghênh, cho dù đối
với côn trùng nhỏ bé. Ngót 3 ngàn năm qua, Phật giáo không có một cuộc Thánh
chiến nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra. Cho dù luân lý không phải là mục
tiêu chính của Phật giáo, nhưng nó là yếu tố đầu tiên tạo tiền đề cho Định và
Tuệ phát sinh, bổ sung nhau trên lộ trình thân chứng giác ngộ và giải thoát.
D. PHẬT GIÁO DẤN THÂN VÀO CUỘC ĐỜI:
Đạo
Phật là con đường đưa đến sự giác ngộ và giải thoát, tức là con đường giáo dục
con người toàn diện[32]
(Education in the whole men) cả hai mặt phẩm giá về nhân cách và chất lượng về
cuộc sống chính nó; hơn nữa, Phật giáo còn dạy cho chúng ta biết phát huy giá
trị cá nhân trong cuộc sống cộng đồng. Vì rằng: "Cá nhân không rời xã hội,
và xã hội không rời cá nhân."
Phật
giáo nêu cao thông điệp từ bi và trí tuệ, kêu gọi mọi người: "Hãy tạo phúc
lành cho chính mình bằng giúp đỡ và đem lại bình an cho người khác". Từ
đó, Phật giáo hiện diện giữa cuộc đời chỉ một ý nghĩa duy nhất: "Sứ mạng
phụng sự chúng sinh và nhân quần xã hội". Chừng nào nhân loại còn những
khổ đau, ngày ấy vẫn cần đến phương thuốc cứu khổ của Phật giáo. Nhận định trên
sẽ được làm sáng tỏ, bởi:
1. Phật giáo là chân lý thực tại (The
Absolute Truth):
Mặt
trời mọc hướng Đông và lặn hướng Tây là một chân lý thiên nhiên; cũng vậy,
nguyên lý Duyên sinh vô ngã (paticcasamupāda) là một sự thật uyên nguyên ngàn
đời. Từ muôn loài tinh tú trong vòng thái dương hệ cho đến con người, con vật,
cỏ cây,v.v… đều sinh thành và hoại diệt trong mối tương quan bất tận trải dài
trong vô ngôn.
Đức
Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, dầu chư Phật có xuất hiện hay không xuất hiện,
có một sự kiện, một chân lý nhất định, một định luật tự nhiên là tất cả các
pháp vô thường (aniccā), khổ não (dukkha) và vô ngã (anattā). Như Lai đã quảng
bá, truyền dạy, xác định, phân lập và chỉ dẫn."[33]
Với
Đạo Phật, chân lý là thực nghiệm. Giác ngộ và giải thoát là hệ quả hiển nhiên
khi con người không còn si mê. Do đó, đức Phật không độc quyền chân lý giác
ngộ. Ngài đã thể hiện một cách trọn vẹn trong vai trò của một Đạo sư, với lòng
từ mẫn vô biên, dấn thân suốt cuộc đời vì lợi lạc chúng sinh mà truyền dạy
Chánh pháp. Phút cuối cuộc đời, Ngài đã dạy những lời hết sức cảm động:
"Như
Lai truyền dạy chân lý, và không có sự phân biệt nào giữa Giáo lý công truyền[34]
và Giáo lý bí truyền[35].
Bởi vì, khi đề cập đến chân lý, Như Lai không hề có bàn tay nắm lại của một ông
Thầy còn muốn giữ lại điều gì."[36]
Dưới
nhãn quan của một bậc Giác ngộ, bức màn bí ẩn của cuộc đời đã được vén lên, mọi
sự vật đều được phơi bày. Sự thật của mỗi sự vật từ thế giới nhân sinh đến thế
giới vũ trụ đều không ngoài nguyên lý "Duyên sinh vô ngã". Một nguyên
lý cho dù các nhà Tôn giáo, các nhà Khoa học, Duy vật, Duy tâm,… cũng đều không
thể phản bác. Giác ngộ chân lý thực tại, Như Lai hiện diện giữa cõi đời như một
sự hiện thân của sự thật. Hơn nữa, đức Như Lai là một bậc Thầy truyền dạy với
bàn tay mở rộng, không còn giấu giếm lại một cái gì nữa. Với Ngài, chân lý đã
được phơi bày cho cuộc đời như không khí cần cho sự sống. Hãy tự mỗi người thân
chứng, thể nhập và chứng nghiệm chính mình. Đức Như Lai chỉ là một bậc Thầy chỉ
đường trên danh nghĩa.
Đức
Phật đã đi vào vĩnh hằng trên 25 thế kỉ qua, nhưng Giáo pháp của Ngài vẫn là đề
tài muôn thuở của các nhà nghiên cứu và luận bàn về các lãnh vực Triết học,
Khoa học, Luân lý học, Luận lý học, Xã hội học,v.v… nhưng như vậy đã đi quá xa
tính chất Giáo pháp này. Đức Phật đã từng quở trách Giáo pháp này không phải là
một học thuyết để lý luận, mà nó chỉ là một chân lý thực nghiệm phản ảnh về sự
thật của cuộc đời là "khổ và con đường diệt khổ". Chân lý này nằm
ngay nơi lòng người chứ không phải là nơi lý luận. Nếu có thể nói một cách
gượng ép thì là Chân lý thực tại. Ý nghĩa của nó nằm ngay nơi sự sống của mỗi
chúng ta đang diễn ra bây giờ và tại đây.
Như
chúng ta đã biết, trước khi S.I. Newton (1642-1727) phát hiện ra định luật của
Trọng lực, từ trường của trái đất thì táo chín vẫn cứ rơi; trước khi S.W.
Ramsay (1852-1916) phát hiện ra khí Oxygen (O2) trong bầu khí quyển
(1904), con người vẫn cứ thở để sống; và dù đức Phật không thuyên bố
"Thuyết duyên khởi", sự vật cứ vẫn tiếp nối nhau trùng trùng trong
mối tương quan sinh diệt. Sự thật này đã được đức Phật trình bày ngót ba ngàn
năm về trước. Nhưng khi nghiên cứu về Phật giáo, nhà Bác học Albert Eistein
không khỏi ngạc nhiên và thốt lên:
"Nếu có Tôn giáo nào đương đầu được với các nhu cầu khoa học
hiện đại, thì đó sẽ là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của
mình để cập nhật hoá với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo Khoa học, vì Phật giáo bao trùm
cả Khoa học cũng như vượt qua Khoa học."
(If there is any religion that
could cope with morden scientific needs, it would be Buddhism. Buddism requires
no revision to keep it up to date with recent secientific finding Buddism need
no surrender its views to secience, becausce it embraces secience as well as
goes beyond secience.)[37]
Ngót
ba ngàn năm qua, bao cuộc đổi thay tại sinh quán Phật giáo (Ấn Độ), và bao sự
biến cải qua các cuộc du nhập và truyền giáo sang các nước viễn xứ Âu-Mỹ. Có
thể nói, Phật giáo đã thay đổi nhiều về hình thức để phù hợp với sắc thái bản
địa và thích nghi với môi trường mới. Tuy nhiên, tính chất chân lý Triết học
của Phật vẫn không bao giờ đổi thay. Ngay cả trong thời đại ngày nay, giữa nền
triết học Phật giáo và Khoa học vẫn không có một sự mâu thuẫn nào; và lẽ tất
yếu, Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hoá với các sự
kiện thời đại. Phật giáo là một Tôn giáo có một nền triết học vượt cả không
gian và thời gian, bao gồm cả Khoa học tự nhiên lẫn Khoa học nhân văn.
Nói
tóm, Phật giáo là một chân lý thực tại, vượt lên mọi thần linh và giáo điều. Một
tôn giáo bao quát cả mọi phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên. Một tôn giáo của
tri thức và kinh nghiệm tổng thể, mà điểm đích thực của chân lý ấy là sự sống
của hạnh phúc và bình an trên dòng sống hiện hữu.
2. Phật giáo, con đường giáo dục khai
phóng (The Liberal Education):
Giáo
dục khai phóng là đánh thức sự tự giác, là khơi dậy sự tự ý thức về giá trị con
người cá nhân của chính mình, giúp con người ấy tự tỉnh thức, tự vùng dậy đạp
đổ bức tường thành kiến "ngã chấp", thoát ly mọi xiềng xích của tham
lam, sân hận và si mê; khơi nguồn cho hạnh phúc, giải thoát vô biên tuôn chảy.
Đường
hướng giáo dục khai phóng là Trung đạo (majjhimapatipada) đứng ngoài mọi sự
ràng buộc của những triết thuyết, ý thức hệ đối nghịch, mà được bắt đầu bằng
chánh kiến (sammā-diṭṭhi), loại bỏ những tà kiến, chấp thủ (upādāna) vào
những tà thuyết. Đức Phật đã thâu tóm 62 tà thuyết này trong Kinh Phạm võng[38],
18 luận chấp về quá khứ (Thường trú luận/ Một phần thường trú luận, Hữu biên/
Vô biên luận, Ngụy biện luận, Vô nhân luận,…), 44 luận chấp về tương lai (chấp
có tưởng/ không tưởng sau khi chết, Đoạn diệt luận, Niết bàn luận,…); 62 luận
thuyết này bao trùm cả những lý thuyết, những ý thức hệ, những thái độ, lập
trường của mọi nền văn hoá nhân loại, chẳng những áp dụng vào thời đức Phật mà
áp dụng triệt để cho mọi thời đại sau này.
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ I (1918), các cuộc cách mạng tư tưởng ra đời làm
đổi thay bộ mặt toàn cầu. Ý thức hệ tư tưởng thế giới được chia làm 2 nhóm
chính: Ý thức hệ duy nghiệm (The Empirical Inductive Method of Inquiry), và Ý
thức hệ duy lý (The Theoritical Deductive Approach) thay nhau ngự trị trên mái
nhà tư tưởng thế giới. Ý thức hệ Duy nghiệm được xem là cha đẻ của nền Khoa học
hiện đại, thực tiễn hoá cuộc sống xã hội đến điểm cao nhất, và thậm chí còn xem
"con người là con vật có lý trí được chấp nhận không cần thắc mắc".
Tức máy móc và cụ thể hoá con người. Con người dần dà được thay thế bằng lý
trí, thành thử thân phận con người bị bỏ quên (không cần biết họ có trái tim tình
cảm rung động hay không). Nhất là khi chân lý con người được thay thế bằng chân
lý lý trí khá hấp dẫn như: Chân lý kiểm chứng (Vérité-vérification), Chân lý
mạch lạc (Vérité-cohérence) và Chân lý hữu hiệu (Vérité-effcacité). Tuy vậy,
khi nền công nghiệp đời sống phát triển quá mức như hiện nay thì tình trạng
thất tán nhân tâm cũng đã đến lúc báo động. Điều đó nói lên con người không chỉ
là con vật chỉ có lý trí mà thôi. Thế rồi từ đó, các Triết gia Tây phương lại
thay đổi châm ngôn: "Lý trí con người là quan hệ bậc nhất"; lại đi
theo vết xe đã đổ, không tìm ra lối thoát, họ quay trở lại suy tôn lý trí như
xưa. Đây là ý thức hệ rơi vào bế tắt, ngõ cụt. Vì lý tưởng thường được hiểu là
khả năng phân biệt thiện – ác, đúng – sai, sáng – tối,v.v… Mặc nhiên, họ hình thành
lên những thành kiến đầy cực đoan, đối nghịch, lập bè, kết phái, gây oán
thù,…định kiến về lý tưởng đã hình thành trong đầu họ, cái gì của mình là đẹp
nhất, tuyệt vời nhất, hữu lý nhất; cái gì của người khác là xấu xa nhất, tồi
bại nhất, phi lý nhất,… Họ không thể dung nhau, và dấn thân vào cuộc chơi ăn
đồng, thua đủ.
Đại
loại với ý thức hệ tư tưởng như vậy, nếu không rơi vào tri thức định kiến
(fixed-idea): sự hiểu biết cố chấp, tự mãn với cái tháp ngà tri thức cỏn con,
hoặc như cái vòm trời của chú ếch ngồi đáy giếng; thì cũng bị rơi vào thành
kiến (prejudise): cái tri thức đầy mặc cảm, ác ý với xã hội xung quanh; hoặc
rơi vào nghịch kiến (paradox): cái hiểu biết xô bồ, hoang mang, không định
hướng.
Như
chúng ta đã biết, tri thức là những gì học được hoặc xuyên qua kinh nghiệm. Như
vậy, nó là thành quả những gì ta thu hoạch được từ bên ngoài; Phật giáo gọi là
"y tha khởi tánh" (Para-tantra-svabhāva). Nhưng cái gì đã là từ bên
ngoài vào thì phải cập nhật thường xuyên để không lỗi thời và vơi cạn. Hơn nữa,
chúng còn là một sự lộn xộn như một mớ lòn bon, vừa dễ lầm lẫn và cũng rất ư
tạm bợ. Vả lại, người ta còn vin vào cái tạm bợ này để hoạch định chủ quyền
ranh giới về ý thức chủ nghĩa (biến kế sở chấp). Đây là con mọt tri thức đang
gậm nhấm tâm hồn chúng ta, và làm mục nát dần mái nhà tri thức nhân loại. Phật
giáo còn đi xa hơn là phân tích và hệ thống tri thức này thành 5 loại[39]:
Thân kiến: những kiến chấp, không chấp nhận ý kiến của người; ứng dụng cái kiến
thức phục vụ cho "cái ta"/ "cái tôi" tư kỉ hẹp hòi, như các
quốc gia tư bản công nghiệp chuyên làm giàu với nghề sản xuất và buôn bán vũ
khí giết người. Biên kiến (chấp một bên): kiến chấp khuynh tả/ khuynh hữu, như
các quốc gia nội chiến phân hóa. Tà kiến: định kiến sai lầm cho đến chết, nặng
nề về cuồng tín, hy sinh cho phi nghĩa, như các quốc gia Hồi giáo chuyên khủng
bố và nuôi lớn hận thù. Giới thủ kiến: cố chấp vào giáo điều phi nghĩa, đem lại
bất an cho cá nhân và cộng đồng, như các giáo phái đầy mê tín, cực đoan ở nhiều
quốc gia, coi việc giết người là phụng mạng thượng đế; cố chấp vào Giáo điều
đến đổi gây trở ngại cho sự tiến trình giải thoát tâm linh (như vị Sư thấy 1
người Thiếu nữ chết đuối, vì giữ ‘giới bất dục’ mà không cứu); Kiến thủ kiến:
chỉ ưa lý luận siêu hình, chấp vào triết học, luận lý; nhiều nhà tri thức,
triết gia bẻ cong ngòi bút và uốn lưỡi hô to đạo lý, nhưng nhân cách rất ư hủ
bại!
Ngày
nay, với phương tiện hiện đại, cái mà người ta gọi là phương tiện giáo dục
thông tin toàn cầu, nhưng vẫn là mớ tri thức lòn bon, cần phải sàn lọc, và ngay
cả chương trình thông tin quốc gia được duyệt soát chặt chẽ, vẫn thấy xuất hiện
quá nhiều sản phẩm đồi trụy, tạp nham; vì vậy, những cảnh trấn lột, bạo hành,
bất công, khủng bố,…vẫn diễn ra trong lòng những đô thị của các quốc gia được
gọi là văn minh bậc nhất. Những loại hình văn minh xã hội này đều gom chung
trong Ngũ kiến của Phật giáo.
Những
luận thuyết, những Ý thức hệ đã trình bày trên được hình thành trên Tư duy hữu
ngã là động cơ dẫn đến tham ái (tanhā), hận thù (dosa), tà kiến (micchadiṭṭhi)
và chấp thủ (upadāna) nguyên nhân dẫn đến các thành kiến, sung đột, chiến
tranh, bạo lực, khủng bố,… giữa các Chủ nghĩa, Tôn giáo, Quốc gia,… gây ra bao
sự bất hạnh, sợ hãi, xao xuyến cho nhân loại trên thế giới hiện nay.
Giáo
dục khai phóng là nền giáo dục kích khởi trí tuệ của con người bằng Chánh kiến,
Chánh tư duy,… xoá tan mọi áng mây si mê thành kiến sai lầm của học thuyết, chủ
nghĩa,… đang vần vũ trên bầu trời tri thức của nhân loại, giúp con người thoát
ly được bao sự ràng buộc của tham lam, sân hận, si mê và sợ hãi. Nhờ đó, con
người phát huy trọn vẹn năng lực sáng tạo một cách sinh động đem lại sự bình
an, hạnh phúc cho chính mình và thế giới quanh mình. Nói cách khác, Giáo dục
khai phóng là nền giáo dục kích khởi trí tuệ của con người, giúp con người
thoát ly mọi sự ràng buộc của tham lam, sân hận, si mê và sợ hãi. Nói tóm, Giáo
dục khai phóng là con đường đưa đến an lạc và giải thoát.
c. Đạo Phật, con đường đưa đến hạnh phúc
và bình an:
1. Khái niệm về hạnh
phúc:
"Hạnh
phúc là trạng thái thỏa mãn những cảm quan."[40]
Nhưng
những cảm quan là bao gồm cả những thị hiếu lành mạnh và thị hiếu khuyết tật; ở
điểm này, các nhà tâm lý giáo dục lại không lưu ý. Chỉ vì tìm chút khoái lạc
tạm bợ trong chốc lát mà con người thường mắc phải những sai lầm để rồi chuốc
lấy khổ đau; đây được xem là thị hiếu khuyết tật. Hơn nữa, đây gây ra nhiều
chứng bệnh nghiện ngập, tình dục,… cướp bóc, khủng bố,… và bao thứ tệ nạn làm
nhức nhói xã hội ngày nay. Người đời không hiểu thế nào để kiến tạo một cuộc
sống an lành, chân thật và bền vững cho chính mình và xã hội quanh mình, mà chỉ
tìm kiếm thứ hạnh phúc tạm bợ, để rồi chuốc lấy khổ đau. Cho nên thứ hạnh phúc
về thoả mãn những cảm quan này cần suy xét và sàn lọc kỉ càng bằng trí tuệ và
cũng phải bằng sự nỗ lực vượt qua của cá nhân.
2. Văn minh vật chất
với nhiều hạn chế:
Bước
sang thiên niên kỷ III này, nền công nghiệp hiện đại phát triển là niềm kiêu
hãnh chung cho nhân loại, nhưng với 6 tỷ dân trên toàn cầu hiện nay vẫn không
hoàn toàn có một cuộc sống bình yên. Lạc hậu, đói khát, bất công, khủng bố,
chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai,v.v… vẫn là những hiểm hoạ thường xuyên đe
dọa con người. Điều đó nói lên cuộc sống bất hạnh của con người không phải vì
thiếu vật chất, tiền của, mà vì thiếu nhân tâm và suy thoái đạo đức.
3. Con đường chân hạnh
phúc:
Theo
Phật giáo: "Hạnh phúc là những trạng thái thoả mãn về những nhu cầu đời
sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Tuy nhiên, hạnh phúc vật chất
đáng bằng một phần mười sáu hạnh phúc tâm hồn khi sống đời sống không lỗi lầm
và hướng thiện."[41]
Chừng
nào con người chưa thoát khỏi được ngục tù ngã chấp và những xích xiềng tham
lam, sân hận và si mê; ngày ấy, con người vẫn còn khổ đau và đừng mong gì đến
cuộc sống hạnh phúc. Vả lại, cũng thật vô nghĩa khi một con người không lấy
được một phút giây cho tâm hồn được bình an, thanh thản,… lại tìm đến chút
thoải mái về vật chất và nhục dục, nhằm thoả mãn những khoái lạc giác quan. Đó
là thứ hạnh phúc giả tạo, mất thăng bằng về tâm-sinh lý, khó được cộng đồng xã
hội chấp nhận và dễ bị đào thải.
Theo Phật giáo, con đường đưa đến chân hạnh
phúc và bình an với những nguyên tắc: "Không làm các việc ác/ thành tựu
mọi hạnh lành/ giữ tâm ý trong sạch/ là lời chư Phật dạy."[42]
Để
xã hội có một cuộc sống hạnh phúc, bình an không thể không tôn trọng những
nguyên tắc luân lý, đạo đức: "Ý thức rằng những nỗi khổ đau do sự sát hại,
trộm cướp, tà dâm, dối trá và sử dụng chất kích thích độc hại gây ra cho mình
và cho người, Phật tử nguyện trọn đời không sát hại mà có lòng hiếu sinh, không
trộm cướp mà có lòng trong sạch, không tà dâm mà có lòng trong sáng, không nói
dối mà có lòng thành thật, không say sưa mà lại luôn sáng suốt. Vì sự sống hạnh
phúc cho mình và mọi người tránh xa mọi ác nghiệp: thân không làm việc ác,
miệng không nói lời ác, ý không nghĩ những điều ác tốn người, hại mình."[43]
Với
một cuộc sống tốt đẹp, người Phật tử không những sống cho mình, mà còn sống vì
người. Để xây dựng một xã hội xán lạn, người Phật tử không những "không
làm các việc ác", mà còn "thành tựu mọi hạnh lành". Yếu tố này
được đặt trên bốn nguyên tắc đời sống cao thượng (tứ nhiếp pháp)[44]:
*
Bố
thí: Người Phật tử sẵn sàng chia sẻ với những nỗi khó khăn của người khác như
nhường cơm, xẻ áo, thuốc men,… khi người nghèo khó (tài thí); dạy dỗ, giúp ý
kiến, truyền trao kiến thức,…khi người khó khăn về hiểu biết (pháp thí); an ủi,
chở che, bao dung, tha thứ,…khi người khủng hoảng tinh thần (vô uý thí).
*
Ái
ngữ: Người Phật tử biết lắng nghe và chia sẻ niềm vui cho người, và làm vơi bớt
những nỗi khổ đau của người bằng sự khích lệ lòng tự tin và hy vọng. Người Phật
tử biết im lặng đúng thời và nói năng đúng lúc; lời nói thật sự có sức thuyết
phục, có giá trị xây dựng hiểu biết và hoà giải.
*
Lợi
hành: Người Phật tử biết nhường nhịn và san sẻ lẫn nhau những gì thu hoạch được
từ vật chất cho đến tinh thần; tự suy nghĩ một cách hiểu biết: Tâm lý tham lam,
bỏn xẻn muốn thâu hết vào mình tất cả những lợi lộc là tự làm khổ mình. Vì
rằng: "Đa thọ là đa khổ", không lợi ích gì cho hiện tại, mà còn làm
trở ngại cho sự tiến bộ tâm linh trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà thôi.
*
Đồng
sự: người Phật tử biết san sẻ những công việc, những nỗi nhọc nhằn với đồng
nghiệp, Pháp lữ và mọi người; biết dấn thân, hoà đồng với mọi người trong đời
sống cộng đồng; không lập dị, quan liêu, kiểu cách mà biết nhập cuộc cùng làm,
cùng ăn, cùng ở, cùng vui chơi giải trí với mọi người.
Nói
đến hạnh phúc là nói đến những gì trực thuộc, sở hữu mà ta đạt được. Những gì
sở hữu về vật chất của chúng ta thì tài sản có thể bị cướp, người yêu có thể bị
đoạt, địa vị có thể bị mất,… nhưng những gì sở hữu đời sống tinh thần của chúng
ta như sự thanh thản và bình an của tâm hồn: không tham, không sân, không si,
không được mất, không hơn thua,…giữa cõi đời lao lung, thì hạnh phúc này của
chúng ta không ai có thể đoạt được. Một hạnh phúc chân thật là sự thoát khỏi
mọi hệ lụy của cuộc đời.
Phật
dạy: "Vui thay chúng ta sống/ không rộn giữa rộn ràng/ giữa những người
rộn ràng/ ta sống không rộn ràng."[45]
Tóm
lại, trên con đường hướng đến đích của hạnh phúc và bình an, Đạo Phật đã điểm
thị rằng, con người không thể lao sâu vào vật chất mà có thể thoả đáng cho một
cuộc sống hạnh phúc đích thực; hơn nữa, cần phải biết rằng, sự suy thoái đạo
đức là mối nguy hiểm đe dọa đến cuộc sống bình an, và gây nhiều nỗi bất hạnh
cho cá nhân và cộng đồng xã hội. Điều đó có nghĩa: "Hạnh phúc chỉ có mặt
khi mà con người xã hội biết xem trọng đạo đức, luân lý cơ bản để kiến tạo một
cuộc sống tốt đẹp"; con người nhìn nhau với cặp mắt đầy nhân ái, tương trợ
lẫn nhau, biết sống đời sống tâm hồn trong sạch, biết làm những gì ích mình,
lợi người. Nói cách khác: "Hạnh phúc chỉ có mặt khi mà con người có sự
hiểu biết và từ tâm".
d. Phật giáo với tinh thần khai phóng dân
tộc Việt Nam
qua các thời đại:
Phật
giáo đã có mặt trên đất nước Việt Nam trong những buổi đầu lập quốc.
Tinh thần tinh thần từ bi, trí tuệ và vô ngã của Phật giáo đã hằn sâu trong
lòng dân tộc Việt. Phật giáo luôn san sẻ với dân tộc Việt Nam khi vui buồn, thịnh suy.
"Trang sử Phật cũng là trang sử Việt,
Trải bao độ hưng suy, có nguy nhưng chẳng mất."[46]
Hoà nhập vào đất nước và dân tộc Việt, Phật giáo đã cống
hiến cho dân tộc nhiều vị Quốc sư, Thiền sư và Cư sĩ kỳ tài lèo lái con thuyền
dân tộc trong những buổi đầu gian nan của tổ quốc như: Khuông Việt quốc sư,
Pháp Thuận Thiền sư, Vạn Hạnh Thiền sư,… dựng lên trang sử vàng trong các triều
đại Đinh (968-980), Lê (980-1009), Lý (1010-1225), Trần (1225-1400). Lý Thái
Tông, Lý Thánh Tông,… Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,… là những ông vua Phật tử
nhân từ, đức trị. Đào Cam Mộc, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tảng,…
là những vì tướng lãnh kiêu hùng mà cũng là những Phật tử thuần danh. Lê Quí
Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô thì Nhậm,…là những nhà nho tri thức Phật tử. Vì
vậy, Phật giáo đã là trung tâm trọng lực của quốc gia trên cương vị Quốc giáo
và độc tôn trên vũ đài chính trị thời bấy giờ. Phần đông các vị Sư là hàng ngũ
tri thức, trực tiếp thiết lập kế hoạch, soạn thảo văn thư, tiếp đoàn ngoại
giao, luận bàn cả các vần đề quân sự. Đặc biệt, họ còn là linh hồn dân tộc tập
hợp sức mạnh hào khí quốc gia, đương đầu với các thế lực ngoại xâm, lập nên
những kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ quyền biên cương một thời thịnh trị.
Lịch sử cận đại cũng đã chứng minh, Phật giáo vẫn không
rời sứ mạng phụng sự quốc gia và dân tộc của mình. Trong hai cuộc kháng chiến
giành độc lập dân tộc và chủ quyền tổ quốc vừa qua, không biết bao nhiêu Tăng
Ni, Phật tử đã nằm xuống, máu của họ đã nhuộm thắm hồn thiêng tổ quốc. Hình ảnh
các vị Sư ngả xuống trong các cuộc khởi nghĩa như: Phong trào cần vương, Phong
trào Nam kỳ khởi nghĩa,… chống thực dân Pháp. Hình ảnh hàng triệu Tăng Ni, Phật
tử đã xuống đường đấu tranh bất chấp súng đạn, xe tăng,… chống Mỹ Diệm. Những
ánh đuốc thiêng[47] của Tăng Ni, Phật tử tự thiêu làm sáng ngời
tinh thần yêu nước và giống nòi, vang dội khắp Bốn biển Năm châu, khắp thế giới
biết đến Phật giáo, đất nước và dân tộc Việt Nam như một tinh thần bất khuất,
yêu chuộng hoà bình, nhân ái và công bằng.
Với phương châm phục vụ vô cầu lợi:
"Phật sự cần ta đến, Phật sự thành ta đi; không ngại
gian lao, chẳng từ khó nhọc."[48]
Phật giáo không những làm tốt trong vai trò chính sự mà
còn đi vào cuộc sống nhân gian với vai trò giáo dục quần chúng nhân dân ý thức
về những "điều thiện và lẽ ác", "những đạo lý khả dĩ về một con
người". Hơn nữa, Đạo Phật luôn có mặt và chia sẻ với nhân dân trong những
lúc vui buồn, khốn nguy, hoạn nạn,… ngay cả khi sanh và lúc tử. Nhất là trong
các cuộc chiến tranh vừa qua, chùa chiền luôn là nơi che chở, nương nấu cho
nhân dân trong lúc bom rơi, đạn nổ; chùa chiền còn là cơ sở gạch nối của các hoạt
động yêu nước chống ngoại xâm.
"Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Mái ấm muôn đời của Tổ tông."[49]
(Huyền
Không)
Nhìn chung, lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc đến nay,
Phật giáo luôn đi đầu trong sự nghiệp đóng góp cho lợi ích Quốc gia trên nhiều
lĩnh vực: văn hóa, học thuật, chính trị, kiến thiết và an sinh. Phật giáo đã
cống hiến cho dân tộc nhiều nhân tài về Chư Tăng cũng như Phật tử, có nhiều
công lao trong trang sử vàng Việt Nam. Những nét văn hóa sinh hoạt cũng như tâm
hồn đượm nét Phật giáo qua ca dao, tục ngữ và văn học sử Việt Nam. Những công
trình hội họa, điêu khắc từ những quần thể danh lam thắng cảnh quốc tự đồ sộ
đến những ngôi chùa làng trong cả nước là một trong những thành tựu, góp phần
kiến thiết Quốc gia. Điều đó đã chứng tỏ lòng sùng mộ Phật giáo của nhân dân,
và địa vị Phật giáo trong lòng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử đất nước
Việt Nam.
III.
KẾT LUẬN:
Đạo Phật một nguồn
sống sinh động, luôn nhìn về con người và xã hội một cách toàn diện. Với nhãn
quan trí tuệ, Đức Phật đã giác ngộ tuyệt đối về chân lý cuộc đời: "sự thật
về con người và thế giới, về "nguyên nhân của khổ đau và con đường chấm
dứt khổ đau."
Đức Phật, một nhân
vật lịch sử rất đổi bình dị trong cuộc sống đời thường, nhưng vĩ đại về năng
lực trí tuệ và giác ngộ. Với trí tuệ siêu việt và lòng từ mẫn vô biên, Ngài đã
không độc quyền chân lý giác ngộ mà tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh".
Qua lời nhận xét của một nhà Phật học nổi tiếng:
"Ngài không những là
bậc Đạo sư trong lĩnh vực đời sống tâm linh, mà còn là một nhà hoạt động tích
cực đi đầu trong lĩnh vực cách mạng xã hội xưa nhất trong lịch sử loài người,
nêu cao "công lý và bình đẳng giữa con người". Ngài đã xoá bỏ giai
cấp, đánh đổ chế độ nô lệ, nêu cao quyền bình đẳng Nam nữ bằng cách thiết lập Giáo
hội Tăng già cho Nam giới, và Giáo hội Ni chúng cho Nữ giới. Đức Phật nâng đỡ
những bà mẹ bạc phước Patācārā và Kisāgotami bằng những lời khuyên lơn an ủi;
tự tay chăm sóc những người bệnh hoạn cô đơn như Pūtigatta Tissa Thera; giúp đỡ
người nghèo đói bị bỏ rơi không nơi nương tựa như Rajjumālā và Sopāka; nâng cao
đời sống đạo đức của hàng tội lỗi sát nhân như Angulimāla, giết cha đoạt ngôi
vua như Ajātasattu, và hạng giang hồ hư hỏng như Ambapāli,…"
"Đức Phật luôn khích
lệ môn đồ phát huy trí tuệ và năng lực giác ngộ, không phải nô lệ vào giáo lý
của Ngài, mà phải suy niệm và thẩm định kỷ càng trước khi tin theo. Ngài là bậc
Đạo sư giàu lòng từ mẫn, tận tụy với môn đồ: khích lệ những kẻ yếu đuối, hòa
hợp những kẻ chia rẽ, thức tỉnh cho những kẻ mê muội lầm đường, khai sáng cho
những người vô minh tăm tối; tất cả mọi hạng người đều được quan tâm dạy dỗ với
những lời đầy từ bi và trí tuệ."[50]
Trong vườn hoa triết học và Tôn giáo của nhân loại, Phật
giáo luôn là một loài kỳ hoa dị thảo không một nền triết học và Tôn giáo nào
sánh kịp. Một Tôn giáo không có uy quyền của tín điều, thần khải và thần học;
một triết lý không thiên về lý luận, siêu hình mà là nền triết học thực nghiệm
(Pariyogathena) là chân lý thực tại (Sandiṭṭhiko-dhammo) với giá trị vượt
không-thời gian (Akāliko), giá trị kiểm
chứng (Ehipassiko), giá trị với khả năng hướng thượng (Opaneyyiko), giá trị
giác chứng của bậc trí (Paccattaṃ veditabbo viññūhi)[51]. Điều đó có nghĩa, Phật giáo là chân lý của
cuộc sống thực tại ngay trên "nhận thức và hành động" của chúng ta
với những gì: "Ta đang suy nghĩ/ nói năng/ hành động những gì có ích cho
mình và lợi cho người bây giờ và nơi đây". Với Phật giáo, Đức Phật là một
con người toàn diện về năng lực trí tuệ và đức tính từ bi. Ngài là đối tượng
được sùng kính tuyệt đối, cũng như mục tiêu nỗ lực cho bất cứ những ai; cõi
Phật là một cảnh giới giải thoát và bình an cho những ai bỏ được tham lam, sân
hận và si mê, hướng đến thanh tịnh, từ bi và trí giác. Tóm lại, đạo Phật là con
đường kiến tạo xã hội an bình, thịnh vượng, xây dựng con người hạnh phúc, an
lạc ngay trong hiện tại và mãi mãi mai sau.
BAN PHIÊN DỊCH PHÁP TẠNG PGVN
[1] Nếu các Tỳ kheo
không niệm nhớ đến Ta (Phật), hãy niệm nhớ đến Pháp: "Đây là Pháp do Thế
Tôn khéo thuyết (svākkhāto bhagavatā-dhammo), thiết thực hiện tại (sandiṭṭhiko),
có quả tức thời (akāliko), đến để mà thấy (ehipassiko), có khả năng hướng thượng
(opaneyyiko), do người trí tự mình giác hiểu (paccattaṃ veditabbo viññūhi
dhammo). Này các Tỳ kheo, khi nhớ niệm về giáo pháp, chư vị sẽ đoạn trừ được mọi
sự sợ hãi, khiếp đảm, rợn tóc gáy." (No ce maṃ anussareyyātha, atha dhammaṃ
anussareyyātha: "svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko
opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti. Dhammañhi vo, bhikkhave, anussarataṃ
yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati."
(Samyutta Nikāya I, Dhajagga-sutta
XI.3 Sakka-samyutta)
"If you don't
recollect me, then you should recollect the Dhamma thus: "The Dhamma is
well expounded by the Blessed One, to be seen here & now, timeless,
inviting one to come & see, pertinent, to be seen by the wise for
themselves.' For when you recollect the Dhamma, monks, any fear, terror, or
horripilation you may have will be abandoned". (The Samyutta Nikaya I,
XI.3. Sakka-samyutta -- Sakka (the Deva king),
Dhajagga Sutta --
The Top of the Standard [Thanissaro Bhikkhu, trans.])
[2] Oxford Dictionary, Jonathan Crowther Oxford
University press,
Newyork, 1992, P.762
[3] Tư tưởng đại học Vạn Hạnh, số 2,
năm V, Ban tu thư Đại học Vạn Hạnh xb.1972, tr.7
[4] Trung bộ kinh II, số 135, K. Tiểu
nghiệp phân biệt, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1992, tr.474
[5] Dhp.165
[6] Anguttara Nikāya, Discourse on
Pātika, Long Discourse, p.382
[7] Dhp.183
[8] Kinh ruột tuệ giác siêu việt, Thi
Vũ dịch và chú giải, Paris
xb.1973, tr 79
[9] Dhp.276
[10] Majjhima-nikāya I, N0.
4, Bhayabheravasutta, London,
1954, P.27
[11] Trường bộ I, số 15, K. Đại bát Niết-bàn,
bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1992, tr.544
[12] Dīgha-nikāya I, N0.5
Kūtadanta-sutta
[13] Anguttara Nikāya Part I, Colombo 1929, P.286
[14] thể nhập (Pariyogathena), chân
lý hoàn thiện (svākkhāto-dhammo), chân lý trực nhận (Sandiṭṭhiko-dhammo), chân
lý vượt không-thời gian (Akāliko-dhammo), chân lý chứng nghiệm (Ehipassiko-dhammo),
chân lý hướng thượng (Opaneyyiko-dhammo), chân lý bậc trí tự thân chứng
(Paccattaṃ veditabbo viññūhi-dhammo). (Samyutta Nikāya I, Dhajagga-sutta XI.3.
Sakka-samyutta)
[15] Đại cương triết học phương Tây,
Hà Thúc Minh – Minh Chi, Trường Đại Học Tổng Hợp TP.HCM, xb.1994, tr.10
[16] Từ điển tiếng Việt, nhà xb.Đà Nẵng, 1997, tr.1000
[17] Thought arguable profession: ngành tư biện/ tư duy & biện luận/
thuần lý trí & lý luận; lý luận siêu hình/ hình nhi thượng học
(Metaphysics).
[18] Trung bộ kinh I, số 3, K. Thừa tự
pháp, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1992
[19] Tương ưng bộ IV, Phẩm không thuyết,
và kinh Phạm võng
[20] Duy thức học, HT. Thích Thiện
Hoa, xb.1992, tr.9
[21] Dhp.1
[22] Dhp.2
[23] Kasya – Parivarta, P.99
[24] Dhp.36
[25] Buddhism the Eyes of
Intellectuals, 1996, P.60
[26] Từ điển tiếng Việt, nhà xb.Đà Nẵng,
1997, tr.569
[27] Trường bộ kinh I, số 24, K. Trạm
xe, (lược thuật)
[28] Phật pháp khái luận, TT. Thích
Chơn Thiện, xb.1997, tr.291
[29] Tăng chi bộ I, chương III, Phẩm
lớn, các vị ở Keraputta, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1996, tr.338
[30] Trung bộ kinh II, số 61, K. Giáo
giới La-hầu-la, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1992, tr.175
[31] Dhp.142
[32] con người cá nhân (the man in
himself) và con người xã hội (the social man)
[33] Những vấn đề căn bản trong triết học Phật giáo, tg. Thích
Tâm Thiện, xb.2000, tr.64
[34] Ananantaraṃ karitvā/ Exoteric
doctrine
[35] Ādāhiraṃ karitvā/ Esoteric
doctrine
[36] Đức Phật và Phật pháp, tg. Nārada
Thera, dg. Phạm Kim Khánh, xb.1998, tr.267
[37] Anguttara Nikāya I, Part I Colombo 1929, P.286
[38] Trường bộ I, K. Phạm Võng
(Brāhmjada-sutta), bd. Thích Minh Châu, xb.1992 (lược trích)
[39] Ngũ kiến/ Ngũ lợi sử (s:Pañca-dṛṣtayaḥ)
{X.Luận đại tì-bà-sa Q.49; luận thành thật Q.10; luận Tạp
A-tì-đàm tâm Q.4; luận thành duy thức Q.6; Câu-xá-luận quan kí Q.19}
[40] Từ điển tiếng Việt, nhà xb.Đà Nẵng,
xb.1997, tr.408
[41] Anguttara Nikāya II, Colombo 1929, P.232- 233
[42] Dhp.183
[43] Tương ưng bộ II, Phẩm gia chủ
Anāthapindika, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1993, tr.126-127
[44] Tăng chi bộ II, Phẩm gia chủ
Hatthaka – Tứ nhiếp pháp, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1996, tr.582-583
[45] Dhp.199
[46] Đại cương lịch sử Phật giáo Việt
Nam,
tg. Minh Chi, Học viện PGVN xb.1997, tr.44
[47] Các vị pháp thiêu thân vào kỳ
Pháp nạn 1963: Bồ tát Thích Quảng Đức (11/6/1963), ĐĐ. Thích Nguyên Hương
(4/8/1963), ĐĐ. Thích Thanh Tuệ (13/8/1963), NS. Thích N Diệu Quang
(15/8/1963), HT. Thích Tiêu Diêu (16/8/1963), ĐĐ. Thích Quảng Hương
(5/10/1963), ĐĐ. Thích Thiện Mỹ (27/10/1963); Các Phật tử: Quách Thị Trang, Nhất
Chi Mai, Yến Phi,v.v...
[48] Hoà thượng Thích Thiện Hoa, Viện trưởng viện hoá đạo
[49] Tư tuởng thẩm mỹ học Phật giáo,
tg. Thích Tâm Thiện, nhà xb.TP.HCM, xb.1996, tr.136
[50] The Buddha and His Teachings,
Nārāda Thera, Teiwan, 1998
[51] Samyutta Nikāya I,
Dhajagga-sutta XI.3 Sakka-samyutta