Thế
giới là một sự trình hiện, một dạng xuất hiện dưới mắt của một chủ thể.
Như ta đã biết, cái "khách quan" đó phải cần một chủ thể nhận thức mới
có. Vấn đề còn phức tạp và nan giải hơn khi ta nhớ rằng cái khách quan
lẫn cái chủ quan là không có tự tính. Cả khách quan đang trình hiện lẫn
chủ quan đang nhận thức đều là vô ngã, đều là Không. Đó là một nội dung
cũng quan trọng trong Trung quán luận của đạo Phật và cũng là một điều
hết sức khó hiểu cho những ai mới làm quen với nền triết học này.
May thay, chủ thể nhận thức tuy là vô ngã, vắng bóng
một tự tính riêng biệt nhưng không phải là không có gì. Chủ thể đó cũng
tồn tại, nhưng tồn tại trên bình diện tương đối. Đó cũng là một nội
dung của Trung quán. Vì lẽ đó mà nền triết học này xa lìa hai biên kiến
có-không và mang tên là "Trung luận".
Thế giới thực tại được quan niệm là sự trình hiện đối
với một chủ thể, không có thực tại nếu không có chủ thể, cũng như không
có "người mua" nếu không có "người bán". Thế nên ta có thể tìm hiểu
được thế giới thực tại nếu nắm được tính chất của chủ thể. Con mèo
Schrödinger là con mèo đáng thương đối với nhà khoa học, nhưng nó là
thần chết đối với con chuột. Phải chăng giữa hai bên, chủ thể đang ngắm
nhìn và thực tại đang trình hiện có mối liên hệ chặt chẽ với nhau? Phải
chăng hãy biết rõ chủ thể, ta sẽ biết rõ thực tại của chủ thể đó? Đây
chính là nhận thức và cách tiếp cận của Phật giáo.
Như ta đã biết, Trung quán luận của Phật giáo xem cả
thế giới thực tại lẫn con người nhận thức đều không có tự tính, đều là
"Không". Nơi đây cần làm sáng tỏ một điều: "không có tự tính" thật ra
không thể đồng nghĩa với "Không". Cụm từ "không có tự tính" là một tính
từ, nghe qua ta có thể hiểu nó là một "thể", dù cho thể đó phi tính
chất, phi hình tướng.
Thật sự là, trong lịch sử tư tưởng đạo Phật, quả thật
đã có một sự chuyển biến từ tính từ qua danh từ mà thật ra đó chính là
chuyển nội dung của "Không" từ Tiểu thừa qua Đại thừa Phật giáo. Trung
quán luận, một trường phái lớn của Đại thừa xem Không là một danh từ,
là thể tính của mọi hiện tượng. Thế nhưng thể tính đó lại hoàn toàn
trống rỗng, không có bất kỳ một tính chất nào. Không thể luận bàn,
không thể mô tả. Trung quán luận còn nhấn mạnh thêm rằng, chính nhờ cái
trống không đó mà mới có thể mang chứa mọi thiên hình vạn trạng của tâm
và vật.
Nhiều người đã cố nghĩ ngợi về cái "Không" đó, nhưng
thực tế là càng nghĩ đến nó, ta càng cho nó một số tính chất nhất định.
Điều đó càng sai lầm, càng làm ta xa rời nó.
Khoảng 300 năm sau Long Thụ, có một nhân vật đặc biệt
ra đời, đó là Maitreyanatha. Nhân vật này đặc biệt ở chỗ, không ai biết
ông có thật hay chỉ là truyền kỳ. Người ta chỉ nghe rằng ông là thầy
dạy của Vô Trước, mà Vô Trước là đại luận sư đầu tiên của trường phái
Duy thức. Vì thế Maitreyanatha có thể được xem là người sáng lập Duy
thức tông. Nhiều người xem Maitreyanatha chính là vị Bồ tát Di Lặc, sống
ở cung trời Đâu Suất. Vô Trước là người hân hạnh được lên trời để học
Duy thức và truyền lại cho đến ngày nay. Người truyền Duy thức qua Trung
Quốc và từ Trung Quốc, Duy thức qua đến Việt Nam - chính là Huyền
Trang, nhà đại dịch sư của thế kỷ VII.
Duy thức hay Du-già hành tông là một sự phát triển
của Đại thừa Phật giáo và trở thành cột trụ thứ hai của Triết học Đại
thừa, bên cạnh Trung quán tông. Hai tông phái này không phải là không có
nhận thức khác nhau, nhưng nói chung, Trung quán là tông phái nói về tự
tính của các pháp, còn Duy thức nói về tướng trạng và sự vận hành của
mọi hiện tượng tâm lý và vật lý. Có thể nói, Trung quán nói về "lý" hay
"tính", hay "bản thể", Duy thức nói về "sự" hay "tướng", hay "hiện
tượng". Đó là hai hệ thống khác nhau, tuy xuất phát từ cùng một nguyên
lý chung của Đức Phật nhưng cách lý luận khác nhau, nhất là thuật ngữ
khác nhau rất nhiều.
Trước hết phải nói ngay, "Không", tự tính của các
pháp trong Trung quán có một ý nghĩa khác trong Duy thức. Trong Trung
quán, "Không" là một thể thụ động, vắng lặng, phi tính chất, như tấm
gương phản chiếu muôn vật mà không dính mắc với vật gì trong gương. Duy
thức tông, nền triết học về tướng trạng của sự vật, thì xem thể tính
cuối cùng của vạn pháp, ngoài mặt thụ động là "Không", còn có một mặt
chủ động, tạo tác mà tên gọi của nó là "Thức". Trong mỗi chúng sinh đều
có Thức, năng lực của Thức là phân biệt, biết được cái khác và tự biết
chính mình.
Duy thức tông quan niệm rằng, sông núi, người vật,
khách quan, chủ thể… đều do Thức biến hiện cả. Chiếc xe cũng do Thức
biến hiện, người sử dụng chiếc xe cũng do Thức biến hiện nốt. Thế gian
do Thức biến hiện và chủ thể sống trong thế giới đó cũng là sản phẩm của
Thức.
Điều đó có nghĩa mọi hiện tượng khách quan và chủ
quan, vật lý và tâm lý đều do Thức biến hiện, phóng chiếu ra cả. Một từ
tương tự với Thức là Tâm. Trong nhiều bộ Kinh Phật giáo, ta thấy khẳng
định "vạn sự tại Tâm" này của Duy thức tông. Thí dụ "Nhất thiết duy tâm
tạo" trong kinh Hoa Nghiêm, "Tâm dẫn đầu các pháp" trong kinh Pháp
Cú, "Do tự tâm chấp trước, tâm hiện tợ cảnh bên ngoài, cảnh được
thấy đó chẳng phải có thật; thế nên nói duy tâm" trong kinh Lăng Già.
Duy thức tông do Maitreyanatha, Vô Trước, Thế Thân
sáng lập trong khoảng thế kỷ thứ IV. Theo Thế Thân thì mọi hiện tượng
tâm vật, thực tại bên ngoài lẫn hoạt động tâm lý dựa trên ba biến hiện
của Thức: thứ nhất là sáu thức nhận biết, thứ hai là thức tư duy (cũng
gọi là thức thứ bảy hay Mạt-na thức) và thứ ba là thức tàng chứa (cũng
gọi là thức thứ tám hay Tàng thức hay A-lại-da thức).
Theo cách trình bày của Thế Thân trong Duy thức
tam thập tụng, ta hãy bắt đầu bằng thức thứ tám. Thức thứ tám hay
Tàng thức, A-lại-da thức là thức sâu xa nhất, cơ bản nhất, là nguồn cội
của các thức còn lại. Thức A-lại-da là kho chứa tất cả "chủng tử" của
một "dòng tâm thức". Chủng tử là những hạt giống nhận thức, tâm lý và
kinh nghiệm đã được giao từ vô thủy, chúng có khả năng biến thành nghiệp
lực khi có đầy đủ điều kiện sinh thành.
Như đã nói, thức có khả năng nhận thức lại chính
mình. Một khi tàng thức tự nhận thức chính mình thì đối tượng của nó
(tức là chính nó) lập tức biến thành thế giới ngoại cảnh, trở thành cái
mà ta gọi là thực tại vật lý. Khi có một đối tượng khách quan thì phải
có một chủ thể để nhận thức cái khách quan đó. Điều đó có nghĩa, từ
A-lại-da thức, thế giới và thân tâm được hình thành, do thức "biến hiện"
ra. Tính cách của thế giới lẫn thân tâm của dòng tâm thức đó phù hợp
với các chủng tử đang hiện hành trong A-lại-da thức, đúng với nghiệp lực
đang tác dụng.
Từ thức A-lại-da, thức Mạt-na (thức thứ bảy) được
hình thành. Đặc điểm chung của thức thứ bảy này là lấy thức A-lại-da
làm tự ngã của mình, tưởng rằng A-lại-da là tự tính riêng biệt của mình.
Thức Mạt-na là nguồn gốc của sự nhầm lẫn về một cái Tôi trường tồn
trong mỗi cá thể. Thức A-lại-da chỉ biến hiện một cách thụ động thành
thân tâm và cảnh giới. Còn thức Mạt-na chủ động thẩm định chúng và cho
rằng đây là Tôi, nọ là vật khách quan bên ngoài. Thức Mạt-na chính là
tác giả của ngã chấp, của sự chấp thủ một cái Tôi thường còn, là nguyên
nhân của sự nhầm lẫn tri thức mà ta đã nói đến.
Biến hiện thứ ba của thức là sáu thức còn lại gồm năm
giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Trong Phật giáo, sáu
thức này được ghép chung với nhau trên cơ sở nếu màu sắc là đối tượng
của mắt (nhãn thức) thì ý là đối tượng của ý thức. Sáu thức này vận hành
theo một cơ chế giống nhau và ăn khớp với nhau để nhận thức cảnh vật
của thế giới "bên ngoài", rồi biến những cảm nhận này thành cái biết ở
bên trong. Thế nhưng ý thức (thức thứ sáu) khác với năm thức còn lại ở
chỗ, nó lấy thức Mạt-na làm cơ sở để thẩm định những ấn tượng từ bên
ngoài vào. Thức thứ sáu lấy cái Tôi của Mạt-na để phân biệt, đánh giá,
yêu ghét, chấp nhận hay từ chối một ấn tượng, một cảm nhận, một biến cố
nhất định.
Thế nên tám loại thức nói trên lại được quy về bốn
tính chất. Theo Bát thức quy củ tụng: "Thức thứ tám thường hằng,
không thẩm xét; thức thứ bảy thường hằng, thẩm xét; thức thứ sáu, thẩm
xét, không thường hằng; năm thức trước, không thẩm xét, không thường
hằng".
Tất cả các thức nói trên liên hệ với nhau chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau trong cả hai chiều để tạo thành toàn bộ thế
giới hiện tượng, thành tất cả hoạt động của tâm và thân. Từ chủng tử
trong A-lại-da mà mỗi cá thể nhận thức, chứng thực, kinh nghiệm… theo
cách của mình về đời sống và thế giới tướng như bên ngoài. Rồi từ năm
giác quan, thông qua ý thức, trong tâm của cá thể được tạo nên vô số ấn
tượng, thói quen, ước vọng, ý chí…, chúng lại được đưa vào và cất giữ
trong A-lại-da thức ở dạng chủng tử.
Cứ như thế mà A-lại-da thức ngày càng trở thành phức
tạp và tinh tế. Quan trọng nhất là, Thức đó là thể siêu việt trên sự
sống chết, nó là động cơ đưa đến sự tái sinh trong một đời sống mới.
Chính do xuất phát từ A-lại-da mà ta có yếu tố "Thức", yếu tố thứ ba
trong Duyên khởi, để Thức sinh ra Danh sắc, bào thai trong bụng mẹ. Quá
trình cứ lặp lại vô tận. Bao lâu Thức còn bị "ô nhiễm", còn bị nhị
nguyên chi phối, còn chấp chặt thế giới thực tại bên ngoài là thực có
thì cái Tôi vẫn là thực có. Một khi Thức bắt đầu giác ngộ, vô minh vọng
nghiệp dần dần tan biến và nhường chỗ cho chính kiến thì Thức chuyển hóa
thành "Trí" và nhận thức thực tại như một nhất thể mà kinh sách gọi là
"Chân như" hay "Pháp thân" không thể mô tả được.
Đối với những ai chưa quen với tư tưởng Duy thức, đây
thật là một hệ thống phức tạp và khó chấp nhận. Thông thường ta chỉ nói
tới năm giác quan và ý thức. Đằng sau của ý thức thường là một khái
niệm mơ hồ, thiếu chính xác mà phương Tây hay gọi là tiềm thức hay vô
thức, gọi chung là "linh hồn". Tại phương Tây, ai cũng thừa nhận là có
một thể tính đó nhưng không mấy ai nói về nó một cách rạch ròi, càng
không có một sự nhất định nào về nó, kể cả trong giới chuyên môn về tâm
lý học. Ngược lại, Duy thức tông cho ta một cái nhìn rất chính xác về
các yếu tố tâm lý, với những mô tả tỉ mỉ về số lượng và tính chất của
các loại tâm thức mà phương Tây không hề biết đến.
Tư tưởng Duy thức là một hệ thống nhất quán của nhận
thức luận và triết lý hành động. Trong hệ thống đó, quan điểm trung tâm
là mọi sự, mọi pháp đều là biến hiện của thức. Không có gì nằm ngoài
thức. Chủng tử, tập khí ở trong thức biến hiện thành thế giới mà ta gọi
là thực tại vật lý. Duy thức cho rằng hễ mỗi dạng của thức, khi trở
thành đối tượng để quan sát, thì lập tức nó lấy một sắc hình nhất định.
Chủng tử cũng biến hiện trong mỗi cá thể để thành các dạng tâm lý như
nhận thức, khả năng, ý thích, ước vọng, tư tưởng… Xuất phát từ vọng thức
sai lầm, ta thấy mình có một tự ngã, đồng thời thấy thế giới bên ngoài
tồn tại khách quan. Trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể đó mà
tất cả chung quy chỉ là thức biến hiện, ta càng tiếp tục gieo rắc chủng
tử, bồi dưỡng tập khí… để cung cấp lại cho A-lại-da thức. Và chính thức
đó sẽ đưa đường dẫn lối để ta chứng nghiệm một cuộc đời mới và cứ như
thế mà con người mãi mãi nằm trong vòng sinh tử.
Thế nhưng, đạo Phật sẽ không là đạo Phật nếu không có
cảnh giác sau đây: nói Duy thức là dùng phương tiện để giảng bày, để
nói rõ, cảnh bên ngoài không thực có, cảnh chỉ do thức biến hiện mà ra.
Duy thức chỉ là tên gọi để đối trị với quan niệm sai lầm có một thực tại
vật lý độc lập. Thế nên ta cũng đừng nên lầm là thức thực có. Thành
Duy thức luận, bộ luận căn bản của Duy thức tông, viết: "Các
tâm, tâm sở, vì là pháp y tha khởi, nên cũng như huyễn sự, chẳng phải là
thật có. Vì khiến trừ bệnh vọng chấp có thật cảnh lìa ngoài tâm, tâm sở
nên nói Duy thức. Nếu lại chấp Duy thức là thật có, thì chẳng khác gì
chấp ngoại cảnh, cũng là pháp chấp". Duy thức chỉ là phương tiện giảng
giải trong thực tại tương đối, còn trong thực tại tuyệt đối thì "Tâm
suy, miệng nói là đều bặt dứt".
Tư tưởng vô ngã này trong Duy thức học lại càng khó
hiểu hơn cho người nhập môn. Thế giới thực tại không có tự tính, chỉ do
Thức biến hiện. Cái không vô ngã cũng không có tự tính nốt, chỉ do Thức
biến hiện. Cái không thực có nhìn ngắm một cái không thực có, nhưng cả
hai đều có, ta phải hiểu như thế nào? Ngả nghiêng giữa có và không, đó
là cái "Khổ" của người đến với đạo Phật, trong đó có kẻ viết những dòng
này.
Câu hỏi then chốt bây giờ là có những con người
riêng biệt hay không, có những cá thể hay không? Đó là một câu hỏi chung
cho tất cả mọi người khi đến với tư tưởng Duy thức.
Nguyễn Tường Bách ( Theo Nguyệt san
Giác Ngộ 171)
(Theo, Lưới trời ai dệt, Nxb. Trẻ, TP. HCM, 2004)