A- Dẫn nhập
Mật tông là một
trong những tông phái của Phật giáo, xuất phát từ Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ
VII, rồi sau đó được truyền bá sang Trung Hoa, Nhật Bản... và đặc biệt là phát
triển mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở Tây Tạng, Mật tông còn được gọi là Kim cương thừa.
Kim cương thừa được
coi như là con đường thẳng dốc đứng để đi lên đỉnh núi; điều đó vừa nói lên
tính siêu việt, đồng thời cũng nói lên sự khó khăn và nguy hiểm của con đường,
lối tu Mật giáo. Trong các kinh điển Đại thừa, có nhiều bộ kinh lồng vào những
thần chú, Đà la ni như là để khai triển ý nghĩa sâu thẳm của tâm linh quả chứng
hay ý lực chư Phật, Bồ tát; có lẽ đây là cơ sở để Mật giáo phát triển về sau.
Lịch sử phát triển
Mật tông đôi khi đã có những xu hướng lệch lạc ra ngoài quỹ đạo hướng đến giải
thoát theo lý tưởng của đạo Phật. Bởi có sự biểu hiện thiên về phù phép, tà
thuật... làm cho uy tín của Mật giáo bị tổn thương nặng nề. Ngày nay, với sự nỗ
lực truyền bá Mật giáo hay Kim cương thừa của các bậc đại sư Tây Tạng đã làm
sáng tỏ ý nghĩa đích thực của tông phái này. Kim cương thừa là một con đường
giải thoát đặc biệt của Phật giáo Phát triển.
B- Nội dung
I. Lịch sử Mật
tông
Mật giáo được thành
lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam
Ấn với sự xuất hiện của bộ kinh Đại Nhật (Mahàvairocana sùtra). Đây là bộ kinh
căn bản của Mật tông. Ở Ấn Độ, giai đoạn mà Mật giáo phát triển mạnh mẽ nhất là
dưới thời các vương triều Pàla (750-1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ
VII), người đã nhiệt thành ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm
truyền bá Mật giáo.
Ngài Long Thọ
(Nagarjuna, 600-650) được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài thuộc dòng Bà la
môn, thọ giới tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá tu 12 năm đắc thánh quả Đại thủ
ấn tất địa (Mahamudràsiddhi). Theo truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn
cừu giúp Ngài qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển thần thông giúp đứa trẻ làm
vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu. Phật giáo Tây Tạng cho
rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ luận sư (thế kỷ II) là một, tức Long Thọ
đầu thai trở lại. Ngài có đệ tử truyền pháp là Long Trí.
Long Trí
(Nagabodhi) là truyền nhân của ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà la môn, nhưng
lại thường đi ăn trộm, khi ngài Long Thọ đang ở tịnh xá Suvarna, Long Trí đến
rình xem thấy ngài Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy
cái bát. Ngài Long Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài
kinh ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học. Ngài Long Thọ làm phép quán đỉnh
cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Ngài chứng ngộ thánh quả.
Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 663-723) người Nam
Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua Tây Ấn học về Nhân Minh luận với ngài
Pháp Xứng, sau đó tham học về Luật, Trung Quán luận, Du Già luận, Duy Thức
luận..., sau cùng tu học và nghiên cứu Kim Cương Đỉnh (Vajra-Sekhàra) và các
kinh Mật giáo với ngài Long Trí ở Nam Ấn 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa,
đến Lạc Dương truyền bá Mật giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông
Trung Hoa đồng thời với ngài Thiện Vô Úy.
Bất Không Kim Cương
(Amoghavajra, 750-774) là đệ tử xuất sắc của ngài Kim Cương Trí. Ngài người Bắc
Ấn, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo thầy đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo giới năm 20
tuổi. Tu học 12 năm thông suốt Mật giáo. Sau khi thầy mất, Ngài cùng với các đệ
tử qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh du già và Đại Nhật thai tạng.
Trở về Trường An với số kinh điển đồ sộ, Ngài khởi công dịch thuật. Ngài Bất
Không Kim Cương là Quốc sư của ba triều vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông.
Thiện Vô Úy
(Subhakarasimha, 637-735) là đệ tử của ngài Long Trí, tức là huynh đệ với ngài
Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa, tu học ở tu viện Nalanda, thâm hiểu Du
Già, chân ngôn và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716, đời vua Huyền Tông,
trước ngài Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là vị Tổ sư của Mật tông Trung
Hoa, được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều kinh quan trọng của Mật
tông như Đại Nhật kinh, Tô Tất Địa Yết La kinh... Đệ tử của Ngài có các ngài
Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm...
Ngài Nhất Hạnh
(638-727) quê quán ở Thuận Đức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người tinh thông
Tam luận, Thiền học, Thiên Thai..., đặc biệt tinh thông cả thiên văn học. Khi
ngài Thiện Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được truyền pháp "Thai tạng
giới" của Mật giáo. Ngài cùng với thầy dịch kinh Đại Nhật và trước tác bản
sớ Đại Nhật kinh. Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được truyền cho nghi
quỹ của Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả hai phái của Mật giáo Ấn Độ.
Mật giáo Ấn Độ được
khởi xướng và truyền bá do các cao tăng như Long Thọ, Long Trí, Kim Cương Trí,
Thiện Vô Úy. Trên mặt giáo nghĩa và hành trì thì chia làm hai phái Chân ngôn
thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo tư tưởng của hai bộ
kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở Nhất
Hạnh, đường lối Mật tông Trung Hoa tổng hợp của lý luận và thực tiễn. Mật tông
phát triển mạnh và đã tạo nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa,
được các triều vua ủng hộ nên rất hưng thịnh. Công đức truyền bá Mật giáo Trung
Hoa do các ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không, Nhất Hạnh, Vô Hành...
Mật giáo được
truyền vào Tây Tạng thế kỷ VIII do ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người Ấn
Độ, sống cùng thời với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797). Ngài đến
Tây Tạng, đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nuyingmapa),
một trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Đức Phật Thích
Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các giáo phái. Ngài xây dựng
tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều tác phẩm quan trọng như
bộ Tử thư... Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
Sự truyền thừa của
Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất phức tạp; những bậc đại sư nổi bật đóng
góp làm hưng thịnh và sáng rỡ Phật giáo Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh có Atisa (A
Đề Sa, 982-1054), thế kỷ X, Ngài người Đông Ấn, được mời sang Tây Tạng và sống
ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng nói chung và Mật giáo
Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường phái Kadampa (Cam Đan) ảnh hưởng
lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ đề đạo đăng luận, đặc biệt công trình sắp
xếp hệ thống kinh sách Phật giáo Tây Tạng, lấy triết học Tánh không và Duy thức
làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng, điều đó ảnh hưởng đến các hệ tư tưởng Mật
giáo Tây Tạng rất lớn.
Người cải cách nổi
tiếng của Mật giáo Tây Tạng là Tông Khách Ba (1357-1419), Ngài sinh tại Amdo,
thuộc vùng Đông bắc Tây Tạng. Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với nhiều vị đại
sư khác nhau, tư tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài sáng lập tông phái
Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay.
Ngài chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính:
Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo,
Ngagrim Chenmo (Chân ngôn đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập của Mật
giáo. Phật giáo Tây Tạng được chấn chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông Khách Ba.
Trước khi mất, Ngài phó chúc cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức
Đạt lai Lạt ma và Ban thiền Lạt ma; theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển
sinh để tiếp tục cai trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống. Mật
tông được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các nơi khác không
phát triển mấy.
II. Giáo nghĩa
Mật tông
1- Mandala
Xuất phát từ tư
tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh, Mật giáo thiết lập hai
Mandala: Thai tạng giới Mandala và Kim cương giới Mandala.
Mandala, Hán dịch
là luân viên cụ túc, nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Đây là biểu tượng của vũ trụ và
năng lực trong vũ trụ được trình bày bằng các hình vẽ. Mandala, về mặt triết
lý, là cơ sở hợp nhất thế giới hiện tượng và thế giới bản thể, là đối tượng của
thiền quán. Trong ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn tràng bằng đất để hành
giả bày biện các lễ vật hay pháp khí phục vụ cho nghi thức hành lễ, cầu nguyện,
tu luyện...
Thai tạng giới
Mandala (Garbhadhàtu mandala) là yếu tố thụ động tâm linh, cũng có nghĩa chỉ
cho vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tánh. Tác dụng lý tánh như thai mẹ chứa đựng đứa
con, từ lý tánh thai tạng mà xuất sinh mọi công đức.
Kim cương giới
Mandala (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên
mãn, còn gọi là trí thủy giác. Kim cương giới là trí tuệ nội chứng của Phật. Bí
tạng ký nói: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí".
Như vậy, Thai tạng
giới biểu hiện cho bản thể Phật tính của mọi chúng sanh và Kim cương giới biểu
tượng cho trí tuệ viên mãn. Từ Thai tạng giới mà xuất sinh Kim cương giới theo
tiến trình nhân quả. Sự hợp nhất Kim cương giới và Thai tạng giới là sự chứng
ngộ tối thượng.
Đức Phật Đại Nhật
(Tỳ Lô Xá Na) là biểu tượng hợp nhất tối thượng, vũ trụ là sự hợp nhất viên
mãn. Vì vậy, Đức Đại Nhật chính là vũ trụ thân. Mật tông dựa trên cơ sở ấy cho
rằng vũ trụ thân là pháp thân và pháp thân biểu hiện trong mọi hiện hữu, sở dĩ
chúng ta không nhận thấy được vì tâm thức mê mờ, chúng ta chỉ thấy thế giới là
bất an và khổ đau vì thiếu trí tuệ Kim cương; trí tuệ Kim cương có công năng là
phá tan mọi chướng ngại pháp. Con đường trở về hợp nhất với vũ trụ thân, nói
cách khác, muốn đi vào quỹ đạo của pháp thân phải có những tác pháp thiêng
liêng, thể hiện sự gia trì giúp ta thể nhập một cách sâu xa và phổ quát của
pháp giới tính. Lý thuyết này có phần tương tự với lý thuyết Bất tư nghì giải
thoát trong kinh Duy Ma Cật.
Mạn đà la có nhiều
loại, tựu trung có 4:
a) Đại Mạn đà la
(Maha mandala): vòng tròn hội tụ các Đức Phật và Bồ tát, trình bày bằng
hình vẽ hoặc điêu khắc. Mạn đà la này biểu tượng cho tự thân của Phật và mối
quan hệ giữa tự thân Phật với toàn thể vũ trụ nên gọi là Đại.
b) Tam muội gia
Mạn đà là (Samaya mandala): vòng tròn hội chúng với những pháp khí trong
tay tùy theo bản nguyện của mỗi vị. Samaya dịch là bổn thệ, tức là xu hướng và
khả năng hóa hiện độ sanh của mỗi vị Phật, Bồ tát.
c) Pháp Mạn đà
la (Dharma mandala): là Mạn đà la của văn tự lý giải chân lý. Tất cả những
lời Phật dạy, những chân ngôn của Phật và Bồ tát đều bao hàm trong đó.
d) Yết ma Mạn đà
la (Karma mandala): là Mạn đà la bằng điêu khắc chạm trổ biểu hiện các động
tác, các hành trạng độ sanh của Phật và Bồ tát.
Tóm lại, Đại
mandala là tổng thể pháp giới, là tự thân của Phật; pháp môn mà chư Phật, Bồ
tát thuyết gọi là Pháp mandala; vũ khí mà chư tôn cầm trong tay là Tam muội gia
mandala và những hình ảnh của chư tôn gọi là Yết ma mandala. Bốn mandala này
biểu tượng cho năng lực thiêng liêng của Tam mật: thân mật, khẩu mật và ý mật.
Trên đây là 4
mandala của chư Phật và Bồ tát; ngoài ra, tất cả muôn loài, mọi hiện tượng đều
có 4 mandala của chúng, đại khái sắc tướng của chúng gọi là Đại mandala, đặc
tính - khả năng riêng của chúng là Tam muội mandala, danh từ để gọi chúng là
Pháp mandala, hành vi của chúng là Yết ma mandala. Điều cần chú ý là 4 mạn đà
la không độc lập, chúng có mối liên hệ duyên sinh và mặc dù Phật, Bồ tát có mạn
đà la riêng nhưng không tách rời mọi mạn đà la của pháp giới. Vì vậy, Phật và
chúng sinh là một, cùng chung thể tánh là sáu đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong,
Không, Thức. Sự khác nhau giữa Phật và chúng sanh ở chỗ Phật thì tỉnh thức mà
chúng sanh thì mê muội.
2- Mantra
Mantra là một số âm
chứa đựng sức mạnh của vũ trụ hay biểu hiện khía cạnh nào đó của Phật. Mantra
chính là thần chú, được đọc lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi tu tập hành
trì. Định nghĩa về thần chú, Lama Govinda nói: "Chữ "thần" là
tinh thần, tức năng lực suy nghiệm; chữ "chú" là lời, là tiếng dùng
làm công cụ biểu diễn. Như vậy, "thần chú" là công cụ để suy nghiệm,
là hiện tướng dẫn khởi một ảnh tượng tinh thần. Thần chú vang lên kêu gọi nội
dung của nó nơi thực tại trước mắt một cách trực tiếp. Thần chú là năng lực chứ
không phải đơn thuần là ý kiến mà tâm trí có thể tránh trớ hay cãi lại. Thần
chú phát lồ, tự thị hiện như thế, như vậy đó. Chính ở nơi đây chứ không phải
bất cứ nơi đâu, lời nói là hành động mà sự thực hiện thì trực tiếp và tức
khắc" (Cơ sở Mật giáo, Trần Ngọc Sinh dịch, tr.14).
Thần chú còn gọi là
đà la ni (Dhàranì), Hán dịch là tổng trì, tức bao gồm tất cả, đó là những thần
chú mang sức mạnh siêu nhiên, thường thì đà la ni dài hơn thần chú (mantra). Đà
la ni là biểu hiện khía cạnh chứng đắc của Phật hay Bồ tát được thấy trong
thiền định, biểu tượng hay ký hiệu hóa hình ảnh, nội dung chứng đắc ấy, được
lưu trữ và dễ dàng hiện hành khi gọi chúng trở lại. Chức năng đà la ni không
khác với thần chú. Mặt khác, tác dụng của thần chú hay đà la ni được coi như là
phương tiện để đạt được thiền định.
Một vấn đề cần nói
rõ là hình thức của thần chú hay cách đọc thần chú không phải làm cho ta thoát
khỏi khổ đau hay những nỗi bất hạnh hoặc tiêu trừ được nghiệp chướng; mà chính
là nhờ tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta, như Đại sư
Milarepa nói: "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư
vị nên biết rằng: nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm" (Sđd).
Sự hành trì và đọc
tụng thần chú là một trong ba khía cạnh thân mật, khẩu mật và ý mật. Đọc thần
chú là khẩu mật. Thần chú thường được nhiều người Phật tử đọc nhất, tiêu biểu
là thần chú "OM MANI PAD - MEHUM" được coi là của ngài Quán Thế Âm.
Thần chú không phải là một công thức chết, cũng không phải là những sóng âm
thanh tác động vào thế giới siêu hình để kêu gọi năng lực trong vũ trụ. Thần
chú là một công cụ để biểu diễn tinh thần, thái độ tâm lý, tri thức, ý chí và
thành thực mới là những yếu tố quan trọng để biến thần chú thành năng lực hay
mời gọi các năng lực siêu nghiệm khác. Hơn nữa, thần chú chỉ có thần lực với
những ai đã trải qua kinh nghiệm do thụ pháp và hành trí dưới sự hướng dẫn của
một đạo sư (Guru).
Tóm lại, thần chú
(mantra) là một phương tiện trong những phương tiện mà Mật tông thực hành để
thanh lọc tâm linh và đạt được thiền định, sau cùng là hợp nhất và đồng hóa với
vạn hữu. Thần chú được coi là "mật" vì nó chứng tỏ mối liên hệ mật
thiết bên trong của sự vật hiện tượng, nhất là sự nối kết giữa vật chất và tinh
thần.
3) Tam mật tương
ứng
Như đã nói, Tam mật
là thân mật, khẩu mật và ý mật. Theo Mật tông, để đạt được khả năng điều động
năng lượng vũ trụ hay năng lượng tâm linh thì phải thực hành nghi thức đúng
phép gồm cả ba lãnh vực của thân, khẩu, ý. Thân thể tác động qua điệu bộ, nhất
là của hai bàn tay, được diễn theo lời thần chú sẽ tạo nên thái độ tâm linh phù
hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra (thần chú), âm thanh biểu tượng, là
hiện tượng thiêng liêng làm cho rung động nội tâm của hành giả. Tâm ý thì quán
tưởng mandala, tạo thành một thể thống nhất để thể nhập Tam mật của Phật.
Tam mật của Như Lai
bản thể bình đẳng, không giới hạn, có mặt khắp pháp giới, hay nói cách khác:
mọi hình sắc đều là thân mật, mọi âm thanh đều là khẩu mật, mọi lý đều là ý
mật. Như đã nói, thân Phật và thân vũ trụ là một nên quan điểm về thân mật
trong Mật giáo lấy tư tưởng trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm làm cơ sở. Sự
hiện hữu của thân không đơn giản là một hữu thể độc lập, mà có các mối quan hệ
mật thiết với thế giới bên ngoài, hay nói cách khác là với cái không phải thân.
Điều kiện mà thên tồn tạo gồm cả pháp giới, gọi là mọi hình sắc là thân. Tương
tự trong Trung Bộ kinh, Phật dạy quán sắc uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc, thô
tế, liệt thắng, xa gần đều không hiện hữu (vô ngã). Sự mầu nhiệm hay bí mật của
thân là cái mầu nhiệm của thân vô ngã.
Tương tự như thân,
về ngữ mật thì mọi âm thanh đều là ngữ mật. Thế giới mà chúng ta đang sống là
thế giới được biểu hiện bằng ngôn ngữ, mọi thứ đều có tên gọi, mọi thứ đều được
khái niệm hóa qua ký hiệu ngôn ngữ, mọi vật đều được nhận thức và giải thích
qua mẫu tự và văn cú, ngôn ngữ diễn biến linh động để làm hiển lộ cái mầu nhiệm
bên trong, đó chính là sức mạnh của âm thanh. Mật tông cho rằng thế giới được
tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33 phụ âm. Thể nhập thực tại qua ngôn ngữ âm thanh
là một phương cách đặc biệt của Mật tông.
Ý mật là sự cảm
nhận một cách trực tiếp của tâm. Đó là cái tâm thuần túy, không bị chi phối bởi
các kiến thức, không phải cái tâm suy nghĩa có đối tượng, mà tâm ấy nguyên vẹn
đơn sơ cảm nhận trực tiếp thực tại vô ngã, thực tại vô ngã ấy được cảm nhận qua
nhiều khía cạnh khác nhau. Thế giới tâm là một, Duy thức học gọi là thế giới
tánh cảnh. Tâm nhận thức trực tiếp những gì đang diễn ra như thường nói:
"Đương thể tức không". Đó là thực tại được cảm nhận một cách tích
cực.
Thực hành tantra
(nghi thức) là tạo thế cân bằng hòa điệu của thân tâm, rồi tạo mối quan hệ hay
sự nối tiếp thân khẩu ý các vị tương ứng với Tam mật của Phật, Phật cũng chính
là vũ trụ thân. Đó là sự thể hiện hòa điệu giữa con người và vũ trụ. Sự gia trì
Tam mật của Phật sẽ nhập vào Tam mật của ta. Đó gọi là Tam mật tương ưng hay
Tam mật du già.
C- Kết luận
Những gì được trình
bày về Mật tông ở trên chỉ là những nét phác họa sơ sài, còn nghĩa lý bí mật,
phương pháp thực hành tantra của Mật tông thì phức tạp vô cùng, cần phải nghiên
cứu sâu rộng và hành trì nghiêm túc may ra mới có cái nhìn chính xác và đầy đủ.
Triết lý của Mật
tông là triết lý của Bát nhã Ba la mật (Prajnãpàramità) và giáo lý Hoa Nghiêm
cộng với Duy thức học. Sự phối hợp giáo lý siêu nghiệm với hình thức ấn, chú,
mandala... là một sự kết hợp đặc biệt. Vũ trụ, thế giới, con người, vạn vật...
đều mang một giá trị thiêng liêng đối với một hành giả Mật tông. Nếu nhìn phớt
qua các biểu tượng và nghi quỹ của Mật tông có vẻ như sự thành tín sơ khai hoặc
mê tín, nhưng chính thái độ tinh thần được thể hiện qua nghi quỹ ấy lại là hiển
lộ mối liên hệ giữa tinh thần và vật chất, giữa con người và vũ trụ với những
năng lượng vô cùng tận. Các biểu tượng Mật tông rất dễ bị ngộ nhận và phê phán,
tuy nhiên khi lặn sâu vào biển tâm, ta mới khám phá ra được tác dụng và ý nghĩa
của chúng, chúng là những phương tiện diễn đạt những kinh nghiệm tâm linh sâu
sắc nhất của hành giả.
Triết lý và phương
pháp hành trì của Mật tông cơ bản vẫn xây dựng theo tiến trình Giới-Định-Tuệ
như tất cả mọi đường lối tu tập khác của Phật giáo. Nó có mối liên hệ khá chặt
chẽ với giáo lý Nguyên thủy và giáo lý Đại thừa. Sự khác biệt của Mật tông là ở
phương tiện để thể nhập thực tại (Tánh không, Vô ngã), đó là phương tiện huyền
bí.
Sự phát triển của
đạo Phật tạo ra nhiều tông phái khác nhau và các phương pháp hành trì khác
nhau; đã là phương tiện thì "đa môn", cho nên bất cứ phương tiện gì
mà đưa đến niềm tin, loại bỏ chướng ngại nội tâm, giúp cho tâm thực chứng giải
thoát tối hậu thì đều được sử dụng: Mật tông là một trong những phương tiện ấy.