Muốn vào chùa, phải đi qua chợ
So với các chùa và đền đài khác ở Tây
Tạng, Jokhang có một dáng hình bé nhỏ xinh xinh. Để tới được Jokhang,
người hành hương sẽ phải đi qua một khu chợ sầm uất bậc nhất của Lhasha
– tên là Barkhor. Đây là chợ thương mại bán những đồ Phật giáo của
những người dân Tây Tạng và cả người Trung Quốc cũng rất nhiều.
Jokhang hay còn gọi là chùa Đại Chiêu là
một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất của Tây Tạng được xây dựng vào
thời gian 639-647 trước công nguyên. Tương truyền xưa kia nhà vua
Songtsen Gampo (Tùng Tán Cương Bố) cầu hôn công chúa người Nepal tên
là Bhrkuti Devi. Công chúa Bhrkuti khi theo chồng đã mang theo của hồi
môn là bức tượng Phật Bất Động Như Lai. Nhà vua Tùng Tán Cương Bố bắt
đầu ban lệnh xây dựng ngôi chùa Jokhang để thờ pho tượng mà người vợ
Nepal mang theo.
Jokhang nhìn từ xa
Chẳng bao lâu, nhà vua lại kết hôn với
công chúa nhà Đường, nàng Văn Thành xinh đẹp, tài giỏi. Theo chồng về
phương xa, nàng mang theo tượng Phật Jowo sang Tây Tạng. Bức tượng quý
Jowo Rinpoche (Thích Ca Mâu Ni – Đức hạnh cao quý) có nguồn gốc từ Ấn
Độ, tái tạo hình ảnh của đức Phật khi ngài còn sống. Ngôi chùa Ramoche
được khởi công xây dựng sát bên chùa Jokhang trong cùng một thời điểm
để thờ bức tượng Phật Jowo đó.
Như vậy là nhà vua lấy một lúc hai nàng
công chúa của hai nước. Hai nàng công chúa lại mang theo của hồi môn là
hai pho tượng Phật quý giá. Điều này phần nào khiến Tây Tạng bắt đầu
phát triển Phật giáo một cách rực rỡ nhất.
Việc xây dựng Jokhang không được thuận
tiện bởi luôn có một lực lượng yêu ma phá hoại. Không ai có thể trấn áp
được bọn yêu ma này ngoài Văn Thành công chúa. Nghe kể rằng nàng đã
rút chiếc nhẫn ra và ném xuống hồ nước để trị ma hàng quái. Chỉ duy
nhất loài dê mới có thể chở đất đá đến lấp hồ để xây dựng chùa
Jokhang... Theo tiếng Tây Tạng, dê là “ra”, đất là “sa”. Từ đó nơi này
được gọi là Rasa, dần dần đọc là Lhasa. Chính vì vậy, có thể coi
Jokhang chính là khởi thủy, là cội gốc của Lhasa. Điển tích này được
ghi lại trên bức tranh tường tại Jokhang.
Sau khi vua Tùng Tán Cương Bố băng hà,
pho tượng Jowo bằng vàng của công chúa Văn Thành được chuyển từ chùa
Ramoche tới Jokhang và được bảo vệ, cất giữ cẩn mật.
Từ đó, Jokhang hay còn gọi là Jowokhang,
có nghĩa là phòng thờ Jowo Rinpoche. Hiện tại, còn 3 pho tượng nhà vua
Tùng Cán Cương Bố ngồi ở giữa, hai bên là hai công chúa Nepal và
Trung Hoa. Nhà vua được coi là hiện thân của Quán Thế Âm, trên đầu đội
mũ có hình Phật A Di Đà. Đệ nhất hoàng hậu Nepal Bhrkuti và đệ nhị
hoàng hậu Văn Thành (được coi là hiện thân của Tara trắng và lục sinh
ra từ nước mắt của Đức Quán Thế Âm).
Tam bộ nhất bái
Sau khi đi qua được cơ man hàng quán bán đồ Phật giáo rất hấp dẫn du
khách, phải thoát được tiếng mời chào bằng tiếng Trung Quốc lẫn tiếng
Anh bập bõm của người bán hàng, bạn sẽ tới được cổng chùa Jokhang. Lính
quân đội Trung Quốc tràn ngập ở khu vực này, để tới được chùa thiêng,
bạn có biết mình đang đi dưới sự kiểm soát cực kỳ nghiêm ngặt của hàng
loạt camera, và có bao nhiêu đôi mắt của lính quân đội Trung Quốc đang
nhìn bạn không? Nhưng thôi, trước mắt bạn là những người Tây Tạng đang
tiến hành đỉnh lễ Phật ngay từ ngoài cổng chùa Jokhang. Đa phần họ từ
phương xa đến, có người tam bộ nhất bái hàng năm trời, trải qua biết
bao vất vả cực nhọc hành hương đến chùa thiêng Jokhang.
Tam bộ nhất bái là một trong những phương thức đỉnh lễ quan trọng
trong các cuộc hành hương Jokhang nhìn từ xa của người Tây Tạng. Họ đi
ba bước, quỳ xuống, nằm sải dài ra đỉnh lễ rồi lại tiếp tục. Cứ như
thế, họ hành hương từ những căn lều trên thảo nguyên, trên sa mạc, trên
đỉnh núi để tới được những nơi linh thiêng có sự hiện diện của đức
Phật. Bạn có thể sững người khi nhìn thấy họ thực hiện tam bộ nhất bái
ngay dưới chân những người lính Trung Quốc.
Mọi câu hỏi đều là thừa thãi trước niềm
tin mãnh liệt vào Phật giáo của người dân Tây Tạng.
Bước vào trong chùa Jokhang, như bước vào một thế giới khác, thế giới
của niềm tin. Trong điện chính, quá đông người chen chúc nhau, nhưng
là sự chen chúc có trật tự, có trên, có dưới, có tôn trọng, bởi họ biết
họ đang ở đâu. Còn chúng tôi, những kẻ từ nơi xa đến? Thực sự có những
khi tôi cảm thấy chính chúng tôi đang làm phiền họ, tuy cũng xếp hàng,
cũng trật tự. Khách du lịch được đi hàng riêng, có guider dẫn đường,
và trời ơi... guider Trung Quốc ở đây nhiều vô kể. Người Trung Quốc ăn
to nói lớn, tiếng oang oang không cần loa. May thay, Damdul – anh chàng
guider người Tây Tạng của chúng tôi lại rất tế nhị...
Thử hỏi trong không gian thiêng đến “rợp” người ấy, khi không lại bị
nghe những thứ tiếng chẳng đúng lúc - đúng nơi - đúng chỗ trong khi
người Tây Tạng chỉ phát ra những thanh âm duy nhất rì rầm là những
tiếng niệm chú “Om mani pade me hum” hoặc các loại chú khác liên quan
đến Phật giáo mà thôi.
Nến bằng bơ Yak
Người Tây Tạng hầu như không mấy khi
thắp hương dài hay hương vòng như ta mà sử dụng bột trầm nhiều hơn. Tuy
nhiên, có một lễ phẩm phổ biến nhất, đại chúng nhất chính là bơ (làm
từ bò Yak - một con vật đặc trưng của Tây Tạng).
Có nhiều dạng bơ: bơ lỏng và bơ đặc. Đa số người dân thường tự làm bơ
và cho vào phích nước giống phích nước Rạng Đông của dân Việt Nam
ta. Khi vào chùa, đền, họ thường cầm theo phích bơ để đổ thêm vào cốc
nến của nhà chùa giống như các cụ ta thường tâm niệm góp dầu thắp sáng
ban Tam Bảo. Vì thế, trong chùa Jokhang, bạn có thể thấy lung linh
những ngọn nến được làm từ bơ Yak.
Ngoài ra, người Tây Tạng thường hay cúng thóc, gạo, không phải cúng
hàng cân hàng tạ, mà chỉ rải một dúm thóc, dúm gạo vào dưới chân nến
hoặc chân các stupa nhằm tỏ lòng tôn kính với đức Phật. Vừa đi vừa quay
chuyển luân, vừa niệm Phật, khi gặp các ban thờ, họ thường áp trán vào
để tỏ lòng tôn kính.
Ngẩng đầu lên, bạn sẽ thấy nhiều
Một điểm khác biệt với các ngôi chùa ta vẫn hình dung như ở Việt Nam,
Trung Quốc hay Ấn Độ là chùa Tây Tạng cực kỳ chú trọng tới kiến trúc
trần, mái, và các hình họa xung quanh các gian thờ. Jokhang độc đáo hơn
cả bởi những chi tiết kiến trúc tinh xảo, mang đặc trưng của Kathmandu
Valley do các nghệ nhân Nepal thực hiện theo yêu cầu của công chúa
Bhrkuti từ thế kỷ thứ 7. Chính vì vậy, chớ nên bỏ qua việc ngắm các họa
tiết trên cao của Jokhang bởi đó là những bức tranh tường “mural
painting” cực kỳ hoành tráng và độc đáo với các sắc màu riêng của Tây
Tạng nhằm diễn tả lại đời sống của đức Phật với các điển tích kỳ bí, sâu
sắc.
Lên tầng hai, bạn sẽ thấy những tháp chuông bằng vàng cao vời vợi
giữa bầu trời xanh đầy mây trắng. Cung Potala thấp thoáng đằng xa cùng
với những dãy núi trải dài thoai thoải. Còn nếu nhìn xuống, sẽ là chợ
Barkhor tấp nập. Khi đi ra cổng, bạn hãy nhìn xuống sân chùa, ngay dưới
chân bạn có một chữ “Vạn” biểu tượng của Phật giáo được khắc bằng đá.
Nếu không quan sát kỹ, bạn sẽ bỏ qua mất. Chưa hết, ra đến ngoài, nếu
bạn có thể, hãy đi một vòng kora đang rực rỡ ngoài kia (người ta gọi
việc đi diễu quanh tháp là kora). Điều gì sẽ đến? Đó lại là một bí ẩn
khác chỉ có bạn mới biết!
Theo Codet - Hải Than (Đẹp)