Với đồng bào Khmer Nam Bộ, chùa đối là nơi diễn ra
các lễ hội lớn trong năm như Tết cổ truyền Chôl chnăm thmây, lễ Đôn ta,
lễ hội Ook Oom Bok, cũng là nơi tập trung bà con đến học chữ Paly, học
giáo lý, học nghề...
Người Khmer sinh tụ ở Nam Bộ rất lâu đời và đã kiến
tạo một nền văn hóa rực rỡ. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt tôn giáo,
văn hóa, tinh thần của cộng đồng nên được xây dựng bề thế, trang nghiêm,
chạm khắc rất tinh tế với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút, nằm giữa
khuôn viên rộng để bà con đến làm lễ, vui chơi.
Chùa Khmer Nam Bộ nói chung đều mang kiến trúc Angkor của người
Campuchia. Chùa có hai cấp sân rộng bao quanh ngôi chánh điện, được
tráng xi măng. Mái có ba cấp, mỗi cấp được chia thành ba nếp, nếp giữa
lớn hơn, hai nếp phụ hai bên bằng nhau, không có tháp nóc. Những hàng
cột phía ngoài chánh điện được xây dựng theo lối kiến trúc cổ Cô-ranh,
phía trên tiếp giáp giữa đầu cột với mái chùa có tượng thần Krud mình
người đầu chim, mỏ ngậm viên ngọc với hai tay đỡ mái chùa.
Trước bậc thềm vào chánh điện có hai pho tượng chằn Year hung dữ, mặc áo
giáp, đứng bảo vệ ngôi chùa. Tượng chằn hình dáng to lớn, mặt dữ tợn,
miệng há rộng, răng nanh to nhọn, tay cầm chày, vốn là biểu tượng cái
ác, xấu, gây thương đau cho mọi người. Nhưng tượng chằn đặt trong chùa
lại là biểu tượng cái thiện vì người Khmer tin rằng loài vật này được
Đức Phật thu phục để phục vụ cho chánh điện, bảo vệ sự bình yên cho dân
lành. Cửa vào chánh điện được chạm trổ rất công phu, tinh xảo, kết hợp
giữa phong cách nghệ thuật chùa và nghệ thuật chạm khắc dân gian, tạo
nên nét độc đáo cổ kính.
Đỉnh cao nghệ thuật thể hiện ở những
họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, như
tượng đầu vị thánh bốn mặt Maraprum là tiền thân của Brahma, vị thần
sáng tạo ra thế giới, nữ thần Kayno nửa người nửa chim, chim thần
Marakrit. Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và quái vật. Theo
triết lý của người Khmer, đó là những thử thách đối với phật tử trên
bước đường tu thành chánh quả. Trên mái vòm và cầu thang đều chạm trổ
họa tiết có thần rắn Naga, vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của
Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.
|
Chùa Dơi đang được trùng tu. |
Điểm chung của chùa Khmer Nam Bộ là chánh điện thường
quay về hướng Đông, vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây
sang Đông. Bên trong chánh điện, du khách choáng ngợp bởi vẻ bề thế và
lộng lẫy với nhiều màu sắc, đậm chất văn hoá Khmer, mang nét đặc thù nền
tảng của Bà la môn giáo, ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Ấn Độ. Trên nóc được
trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến
trúc Khmer. Trong chánh điện có nhiều hình ảnh về quá trình tu hành của
Đức Phật từ lúc sinh ra đến lúc khi vào cõi niết bàn. Đối diện chánh
điện là các cột trụ với hình tượng thần rắn Naga 5 đầu, dùng để thắp nến
vào những ngày lễ hội, tượng trưng cho việc Phật pháp sẽ soi sáng cho
nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn.
Trải qua tiến trình lịch sử, ngôi chùa có một vị thế rất vững chắc
trong đời sống xã hội và tâm thức của người Khmer Nam Bộ. Chùa chính là
nơi diễn ra các lễ hội lớn trong năm như: Tết cổ truyền
Chôl-chnăm-thmây, lễ Đôn ta, lễ hội Ook-Oom-Bok, cũng là nơi tập trung
bà con Khmer đến học chữ Paly, học giáo lý, học nghề...
Đồng
bằng sông Cửu Long hiện có rất nhiều ngôi chùa Khmer cổ vài trăm tuổi,
được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thu hút rất
nhiều khách du lịch. Chùa Dơi được xây dựng năm 1569 với tên khai sinh
theo ngôn ngữ Khmer là Sêrây Têchô Mahatúp, gọi theo tiếng Việt là chùa
Mã Tộc. Ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer này đã được trùng tu nhiều
lần và bị hoả hoạn vào năm 2007, đang được khôi phục trên nền cũ. Ngôi
chùa nằm trong một khu vườn rộng khoảng 3 ha, um tùm các loại cây ăn quả
như xoài, vú sữa, sầu riêng, măng cụt... Gọi là chùa Dơi vì hàng trăm
năm nay, đàn dơi quạ hàng vạn con chọn đây làm nơi trú ngụ. Ban ngày,
chúng treo mình trên các cành cây ngủ yên lành, nhiều cây chi chít như
lá.
|
Đàn dơi quạ bay về chùa. |
Khoảng tháng 5-8 là mùa sinh sản, mỗi dơi mẹ ôm một dơi
con mà ngủ. Đi lại trong chùa phải thật yên tĩnh, một tiếng động mạnh
bất thường cũng có thể làm dơi mẹ giật mình, đánh rơi con. Con dơi mới
đẻ sải cánh đã dài tới 50 cm, dơi trưởng thành sải cánh khoảng 1 m và
nặng xấp xỉ 1,5 kg. Hoàng hôn xuống, chúng thức giấc bay lên, ríu rít
gọi nhau, lượn qua lượn lại mấy vòng rồi mới đi kiếm ăn. Có một điều rất
lạ là dơi không hề ăn một trái chín nào ở vườn chùa. Chúng tung cánh
bay đi xa, kiếm ăn trên những miệt vườn khắp vùng sông Tiền, sông Hậu,
để rồi sáng sớm lại trở về ngủ trong vườn chùa. Những cành cây ăn trái
của nhà dân ngả sang vườn chùa cũng được đàn dơi tránh, không con nào
chịu ngủ trên đó.
Theo sách để lại, họ hàng dơi xuất hiện ở
đây từ 200 năm về trước. Dường như chúng đã chọn nơi này làm cửa sinh
theo triết lý nhà Phật, vì không bao giờ nhìn thấy một xác dơi chết
(không có cửa tử).
Trong khoảng 600 ngôi chùa Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long, chùa Dơi nổi lên như một quần thể kiến trúc đẹp vào
bậc nhất. Mái chùa gồm hai tầng lớp ngói màu. Phía đầu hồi, bốn đầu mái
được chạm trổ tinh xảo hình rắn Naga cong vút. Trên đỉnh chùa có một
ngọn tháp nhọn. Hàng cột đỡ bao quanh chùa, mỗi cột có một tượng tiên nữ
Kemnar đôi tay chắp trước ngực như đang cất lời đón chào khách. Trong
chính điện có một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối trên tòa
sen cao khoảng hai mét. Ngay từ cổng vào cho đến kiến trúc mái chùa đã
cho thấy nét tinh xảo đặc trưng. Những họa tiết vẽ trên cột, trần khu
nhà có tượng Phật nằm tuy không nhiều tiểu tiết nhưng cũng đủ mô phỏng
tín ngưỡng của người Khmer. Những bức họa lớn do phật tử từ nhiều nơi
thực hiện gắn kín các bức tường phía ngoài.
Về với đồng bào Khmer Nam Bộ trong dịp tết cổ truyền
Chôl-Chnăm-Thmây hay trong các lễ hội nghĩa là đi trong hương hoa, nghe
lời cầu kinh, niệm Phật râm ran. Tiếng trống sa-dăm hòa tiếng hát lâm
thôn bay xa. Từ người già đến trẻ đều xênh xang áo mới. Các cô gái mặc
xà rông sặc sỡ, tay bưng mâm có tấm lụa vàng phủ các lễ vật cúng Phật.
Các chàng trai mang đạo cụ phục vụ lễ hội vừa đi vừa múa trống sa dăm
rộn rã cả vùng quê. Người Khmer theo đạo Phật (phái tiểu thừa) nên mọi
nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới đều diễn ra ở các ngôi chùa cổ kính.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống