Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ là cái nôi của nhiều tôn giáo
quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa lâu đời của
người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây được xem là cứ điểm của đạo
Phật trước khi dòng tôn giáo này được phổ biến khắp Ấn Độ.
Quần thể hang động Ajanta là di tích quý giá đại diện cho thời kỳ
hưng thịnh của phật giáo tại Ấn Độ. Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông
Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng
rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên
trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp
trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta. Hang
động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách
núi đá thẳng đứng cao 76m.
Ajanta tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng
dòng sông Waghora uốn khúc. Ngày nay, tại Ấn Độ, số lượng tín đồ đạo
Hindu rất đông, Phật giáo có phần ít phát triển tại nơi mà nó được khai
sinh. Tuy nhiên, hang động Ajanta đã trở thành một trong những di tích
quan trọng nhất của Ấn Độ, đại diện cho thời kỳ Phật giáo đạt đỉnh cao.
Năm 1983, UNESCO đã công nhận quần thể hang động Ajanta là Di sản văn
hóa thế giới.
Quần thể hang động không được tạo dựng trong một thời kỳ liên tục.
Nhóm hang đầu tiên được kiến thiết vào thế kỷ II TCN, sau đó công việc
ngưng lại. Việc hoàn tất hang động Ajanta kéo dài trong gần 800 năm.
Di tích hang động Ajanta có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật
giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số
thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai
phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau
này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây
là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành
trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ
luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế. Hang
số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho
các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng
dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi
tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện
diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng
linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Thời kỳ đầu kéo dài đến khoảng 300 năm. Nhóm hang động thứ hai được tạo
dựng vào thế kỷ thứ V, được gọi là thời kỳ sau. Hang số 26 là một điện
Phật được xây dựng vào thời kỳ sau với trình độ kỹ thuật cao, các bức
tượng chạm khắc đều rất lớn và hầu như tất cả đều còn nguyên vẹn.
Trong hang số 26, chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những hình ảnh của
Phật giáo thuộc phái Mật tông. Khác với các tượng Phật ở Nhật Bản, hình
dáng của tượng Phật trong hang là mô hình tượng Phật phổ biến tại rất
nhiều nước ở châu Á.
Khác với thời kỳ đầu, trong nhóm hang động thứ 2, tượng Phật hiện
diện khắp nơi. Có tượng phật ngồi thể hiện rằng đã đạt được sự giác ngộ
dưới cội bồ đề, xung quanh là sự cám dỗ của quỷ ma. Trước khi giác ngộ,
Đức Phật đã trải qua nhiều giai đoạn tu luyện, tất cả đều được thể hiện
qua hàng loạt tác phẩm điêu khắc trong hang. Những hình ảnh Phật giáo
sống động trong nhóm hang thứ 2 đã phản ảnh sự hưng thịnh của đạo Phật
lúc bấy giờ. Trong các hang động này, hình ảnh của phật Như Lai luôn là
tâm điểm chi phối mọi vật xung quanh.
Nhờ sự hậu thuẫn của triều đình cùng giới quý tộc và thương nhân lúc
bấy giờ nên nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ đạt tới trình độ phát triển rực
rỡ nhất.
Dòng chảy Phật giáo dần lan rộng và phát triển ra một khu vực rộng
lớn. Vào thời đó, Ấn Độ được xem là vùng đất của đạo Phật, nơi hành
hương quan trọng đối với những tín đồ sùng đạo. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển, Phật giáo cũng được phân chia thành nhiều trường phái khác
nhau. Từ đó, tính chất thuần nhất của đạo Phật cũng không còn nguyên
vẹn. Ngoài các bức tượng và hình ảnh có liên quan đến Phật giáo được
chạm khắc trên đá, hang động Ajanta còn sở hữu một kho tàng nghệ thuật
phong phú và tinh xảo không kém.
Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của nghệ
thuật Phật giáo tại hang động Ajanta. Đó là những bức bích họa được vẽ
trên tường trong hang động.
Có thể nói, nghệ thuật hội họa của người Ấn Độ cổ đại đã đạt đến chất
lượng hoàn hảo về màu sắc cũng như bố cục. Các tác phẩm này đã qua cuộc
thử nghiệm thành công của thời gian.
Có được các tác phẩm tượng Phật đạt đến vẻ đẹp đỉnh cao như thế là
nhờ vào các họa sĩ và nhà điêu khắc đã thấm nhuần Phật pháp. Chính họ đã
gốp phần rất lớn tạo nên giá trị cho quần thể hang động Ajanta.
Thanh Tâm (Theo THVL)