Thật
ra đức Phật không có bất cứ nguyên tắc chung nào để dạy chúng ta, ngoài con
đường Trung đạo duyên khởi; nhằm giải thoát mọi vướng mắc khổ đau trong cuộc
sống của chúng ta. Nhưng ngay chính bản thân con đường này cũng chỉ là một
phương tiện. Do đó, mọi nguyên tắc đối trị mọi căn cơ để đưa chúng sanh đến
giải thoát khổ đau phiền não, thì chính chúng là con đường trung đạo. Vậy chúng
chỉ là pháp phương tiện đối trị bệnh cơ của chúng sanh mà thôi. Hơn nữa, nguyên
tắc luôn là trói buộc, do đó vấn đề giải thoát được đức Phật đặt ra như là một
tiên quyết cho một thể nghiệm về phương tiện; qua đó phương tiện sống được coi
như là một đối tượng nhận thức sẽ bị vượt qua, tất cả đều trở thành phương tiện
chuyên chở cho một cứu cánh cho chính chúng. Và vì vậy cho nên pháp của đức
Phật khi ra giáo hoá được Ngài sử dụng như là phương tiện đối trị bệnh chứ
không là gì hết. Thế nhưng, ngay trong khi đức Đạo sư còn tại thế; những lời
giáo hoá của Ngài vẫn bị xuyên tạc và hiểu nhầm một cách có ý thức bởi các
ngoại đạo, mà đại diện cho các ngoại đạo vào lúc bấy giờ là Ni-kiền Tử [1]
thuộc phái lõa hình ngoại đạo. Trong chương nói về thuốc của Tứ phần Luật (Đ.
22, q. 42, tr. 871b) nói về tịnh nhục, truyện kể rằng:
"Thế Tôn ở tại Tỳ-xá-ly. Bấy
giờ có tướng quân Tư-ha là đệ tử của Ni-kiền. Tại công đường, có năm trăm Lê-xa
ngồi ăn, họ dùng vô số phương tiện khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Bấy giờ, tướng
quân Tư-ha tại chỗ ngồi nghe vô số phương tiện khen ngợi Phật, Pháp, Tăng nên
sanh lòng tin ưa, muốn đến yết kiến đức Phật. Ông ta nghĩ như vầy: 'Nay ta có
thể đến thưa với thầy Ni-kiền để đến chỗ Cù-đàm.' Bấy giờ, Tư-ha liền đến thưa
với Ni-kiền rằng:
"Tôi muốn đến chỗ Sa-môn
Cù-đàm."
Ni-kiền nói rằng:
"Ông chủ trương nên làm. Cù-đàm
giáo hóa đệ tử bằng thuyết không nên làm. Thôi, đừng nên đến đó."
Bấy giờ, tướng quân Tư-ha rút lại ý
định đi gặp Phật trước đó. Các Lê-xa lần thứ nhì, lần thứ ba cũng khen ngợi
Phật, Pháp, Tăng như vậy. Tướng quân Tư-ha khi nghe lần thứ hai, lần thứ ba sự
khen ngợi như vậy, khởi ý nghĩ như vầy: 'Nay ta hãy đi gặp Cù-đàm, khỏi phải từ
giã thầy Ni-kiền. Xem Thầy sẽ làm gì được ta?' Bấy giờ, Tư-ha liền đến chỗ
Phật, đảnh lễ sát chân rồi ngồi lui qua một bên. Đức Thế Tôn dùng vô số phương
tiện nói pháp, khai hóa, khiến được hoan hỷ. Tư-ha nghe Phật phương tiện nói
pháp tâm sanh đại hoan hỷ bạch Phật rằng:
"Tôi
nghe nói Cù-đàm giáo hóa các đệ tử bằng thuyết không nên làm. Các sa-môn đồn
như vậy, có đúng sự thật, có đúng như pháp chăng?"
Đức
Phật nói với Tư-ha rằng:
"Có
nhân duyên phương tiện để nói rằng, Ta giáo hóa các đệ tử bằng thuyết không nên
làm; lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp. Có nhân duyên phương tiện để nói
rằng, Ta giáo hóa các đệ tử bằng thuyết hãy nên làm; lời nói ấy đúng sự thật,
đúng như pháp. Có nhân duyên phương tiện để nói rằng, Ta giáo hóa các đệ tử
bằng pháp đoạn diệt; [6] lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp. Có nhân duyên
phương tiện để nói rằng, Ta giáo hóa đệ tử bằng pháp uế ác; [7] lời nói ấy đúng
sự thật, đúng như pháp. Có nhân duyên phương tiện để nói rằng, Ta giáo hóa đệ
tử bằng pháp điều phục; [8] lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp. Có nhân
duyên phương tiện để nói rằng, Ta giáo hóa đệ tử, đó là thuật ngữ bằng pháp
diệt ám; [9] lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp. Có nhân duyên phương tiện
để nói rằng, Ta giáo hóa đệ tử rằng 'Sự sanh của Ta đã dứt; không còn tái sinh
nữa' [10]; lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp. Có nhân duyên phương tiện để
nói rằng, Ta giáo hóa đệ tử rằng, Ta đã đến chỗ vô uý, thuyết vô uý pháp; [11]
lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp."
Đức
Phật nói với Tư-ha:
"Vì
sao Ta nói 'Không nên làm' cho đến 'chỗ vô úy' để giáo hóa đệ tử, rằng lời nói
ấy đúng sự thật, đúng như pháp?"
"Ta
nói 'không nên làm', là không nên làm ba pháp ác bất thiện: thân làm ác, miệng
nói ác, tâm nghĩ ác.
"Ta
nói 'nên làm', là nên làm ba pháp thiện.
"Ta
nói 'pháp đoạn diệt', là đoạn diệt tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Ta
nói 'pháp uế ác '[12] là kinh tởm pháp bất thiện do bởi nghiệp thân, khẩu, ý.
"Ta
nói 'pháp điều phục '[13] là điều phục tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Ta
nói 'diệt ám' là diệt các pháp tối tăm ác, bất thiện.
"Ta
nói 'sự sanh của ta đã dứt' là nói sự thọ sanh của Ta đã dứt tuyệt, không còn
bào thai, và lại giáo hóa cho con người cắt đứt sanh tử.
"Ta
nói 'đến chỗ vô úy' là tự mình không có sự sợ sệt, lại an ủi chúng sanh.
"Này
Tư-ha! Đó là, có nhân duyên để nói rằng, Ta giáo hóa các đệ tử bằng thuyết
'không nên làm'; 'đến chỗ vô úy', lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp."
Qua
đoạn kinh văn này, cho chúng ta thấy rằng phương pháp giáo hoá của đức Phật
không ngoài nhân duyên phương tiện; mà nhân duyên phương tiện thì thiên hình
vạn trạng đa thù. Do đó cách giáo hoá của Ngài luôn tuỳ thuộc vào nhân duyên
phương tiện mà dạy dỗ, nên nguyên tắc giáo hoá cũng trở nên đa dạng. Vì vậy
không có bất cứ nguyên tắc nào dành chung cho việc giáo hoá của Ngài cả.
Như
đức Phật đã dạy ở đoạn kinh văn trên, trước hết Ngài xác nhận sự sai lầm trong
nhận thức của ngoại đạo về những lời dạy của Ngài dù là vô tình (không hiểu
thấu ý nghĩa) hay cố ý (có hiểu, nhưng vì sợ đệ tử mình sẽ bị khuất phục nên
đưa ra sự mâu thuẫn khiến họ không đến). Họ chấp chặt vào thiên kiến, không
biết phương tiện phân biệt tạm thời dành để đối trị, mà chỉ chấp chặt vào một
vài lời dạy nào đó, và cho đó là chủ trương của người ta, ngoài ra đều hư dối,
rồi nhằm vào đó mà huỷ báng. Kế đến Ngài thuyết minh về nhân quả cùng định thức
duyên khởi (có bệnh thì có thuốc, có thuốc là có bệnh), mà ở đây Ngài nhắm vào
chuyển mê khai ngộ, chuyển khổ thành vui, chuyển phàm thành Thánh cho mọi đối
tượng khi có nhân duyên phương tiện đến:
"Vì
sao Ta nói 'Không nên làm' … cho đến 'chỗ vô úy' để giáo hóa đệ tử, rằng lời
nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp ?"[14]
"Ta
nói 'không nên làm', là không nên làm ba pháp ác bất thiện: thân làm ác, miệng
nói ác, tâm nghĩ ác.
"Ta
nói 'nên làm', là nên làm ba pháp thiện.
"Ta
nói 'pháp đoạn diệt', là đoạn diệt tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Ta
nói 'pháp uế ác' là kinh tởm pháp bất thiện do bởi nghiệp thân, khẩu, ý.
"Ta
nói 'pháp điều phục' là điều phục tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Ta
nói 'diệt ám' là diệt các pháp tối tăm ác, bất thiện.
"Ta
nói 'sự sanh của ta đã dứt' là nói sự thọ sanh của Ta đã dứt tuyệt, không còn
bào thai, và lại giáo hóa cho con người cắt đứt sanh tử.
"Ta
nói 'đến chỗ vô úy [15]' là tự mình không có sự sợ sệt, lại an ủi chúng sanh.
"Này
Tư-ha! Đó là, có nhân duyên để nói rằng, Ta giáo hóa các đệ tử bằng thuyết
'không nên làm'; 'đến chỗ vô úy', lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp."
Từ
câu hỏi "Tôi nghe nói Cù-đàm giáo hóa các đệ tử bằng thuyết không nên làm.
Các sa-môn đồn như vậy, có đúng sự thật, có đúng như pháp chăng?" Đức Phật
đã tự khẳng định là Ngài đã giáo hoá cho các đệ tử của Ngài như vậy. Không
những chỉ có thế, đức Phật còn đưa ra hàng loạt các biện pháp giáo hoá khác, và
cho đến tự trả lời là tại vì sao Ngài đã nói 'Không nên làm' … cho đến 'chỗ vô
uý'. Ở đây, đức Phật không những tự khẳng định là Ngài đã giáo hoá cho các đệ
tử mình 'không nên làm', mà còn giáo hoá 'nên làm'.
Nguyên
tắc chung thuyết giáo của Ngài là tuỳ duyên, nhằm đối trị mọi căn bệnh của
chúng sanh. Vì vậy, bất cứ lúc nào bất cứ nơi đâu dù có người thắc mắc thưa hỏi
hay không có người thắc mắc thưa hỏi về cuộc sống thì Ngài cũng giải đáp mọi
thắc mắc một cách mau chóng và chính xác; hay Ngài tự nói ra nếu thấy điều đó
có lợi ích cho việc giải thoát đối với mọi người. Qua một câu hỏi trên mà đức
Phật không những chỉ trả lời cho một câu hỏi mà Ngài còn đưa ra rất nhiều câu
nói khác và tự trả lời nhằm, trước hết để thoã mãn lòng thắc mắc nghi kỵ về
cuộc sống của người hỏi, thứ hai là để giải toả những hiểu lầm do chấp thủ
thiên kiến về những lời giáo hoá của Ngài. Đức Phật dạy không nên làm là không
nên làm những gì, tức là có điều kiện giới hạn, chứ không có nghĩa là không nên
làm là không nên làm bất cứ điều gì đề rồi chúng đối lập lại với nên làm.
Ở
đây đức Phật cũng đứng trên lập trường nhân quả mà thuyết minh về không nên
làm: Vì từ tác nhân đưa đến thọ quả có thể là đồng thời hay dị thời, nhưng
chúng luôn luôn tuỳ thuộc vào nhân duyên đủ để hình thành quá trình hiện hữu
của chính chúng. "Ta nói 'không nên làm', là không nên làm ba pháp ác bất
thiện: thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghĩ ác.” Nghĩa là trong hiện tại chúng
ta không tạo ra nhân nghiệp ác thân, khẩu, ý; và vì không tạo ra nghiệp nhân ác
nên không lãnh thọ quả. Đó chính là con đường đưa đến giải thoát khổ đau pháp
ác bất thiện. Ngược lại nên làm ba pháp thiện qua thân, khẩu, ý, đó chính là:
"Đoạn
diệt tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Là kinh tởm pháp bất thiện do bởi nghiệp thân, khẩu, ý.
"Là điều phục tham dục, sân nhuế, ngu si.
"Là diệt các pháp tối tăm ác, bất thiện."
Nên
làm ở đây, có nghĩa là ngoài việc không nên nuôi lớn ba độc Tham, sân, si qua
sự thể hiện của thân khẩu, ý ra, chúng ta còn phải diệt trừ chúng, kinh tởm xa
lìa chúng, điều phục chúng; nói chung là chúng ta diệt trừ pháp tối tăm ác, bất
thiện kia. Những việc làm này chính là việc nên làm. Ở một góc độ nào đó chúng
đồng nghĩa với không nên làm. Vì ở đây một đàng không nuôi lớn ba độc tham,
sân, si, là chận đứng bước phát triển của chúng, và một đàng khác tiêu diệt ba
độc tham, sân, si, tuy trên mặt tích cực thì thấy có vẻ như sai khác, nhưng
trên mặt tiêu cực thì chúng đồng nghĩa nhau, tức là không đồng lõa với pháp ác
bất thiện tối tăm.
Không
nên làm và nên làm ở đây mang ý nghĩa thực hành hơn là ý nghĩa lý thuyết. Đức
Phật đã đứng trên hiện thực sống động thực tiễn của cuộc sống của chúng sanh mà
giáo hoá nên làm như thế nào, và không nên làm những gì. Như trên chúng tôi đã
nói, một mặt chúng ta chận đứng việc tạo nhân ác qua ba nghiệp thân, khẩu, ý;
mặt khác tìm cách tiêu diệt chúng, đàng nào chúng ta cũng vô hiệu hoá tác nhân
tạo ác pháp của chúng ta, thì đó chính là cái nhân đưa đến sự vô sinh của chúng
ta, như chính đức Phật đã dạy:
"Ta
nói 'sự sanh của Ta đã dứt' là nói sự thọ sanh của Ta đã dứt tuyệt, không còn
bào thai [16], và lại giáo hóa cho con người cắt đứt sanh tử.[17] "
Vì
không tạo nhân ba đường sáu cõi luân hồi sinh tử nên đức Phật không còn tái
sinh vào cõi đời này nữa để mang bào thai hữu tình chúng sanh như chúng ta.
Nhân sinh tử luân hồi ba cõi sáu đường chính do thân, khẩu, ý chúng ta tạo ra
hình thành ba nghiệp ác; từ ba nghiệp ác này lôi kéo chúng ta vào ba cõi luân
hồi không dừng nghỉ. Chúng sẽ dừng nghỉ khi nào chúng ta dừng được ba nghiệp ác
thân, khẩu, ý, và tiêu diệt tận cùng, cắt đứt gốc rễ của chúng thì chúng ta
cũng sẽ như đức Phật 'sự sanh của Ta đã dứt'. Và chúng sanh cũng sẽ như vậy nếu
chúng ta không nên làm và nên làm những gì như đức Phật đã dạy. Và cũng từ
không tác nhân của ba nghiệp ác bất thiện, nên đức Phật đã đạt tới trạng thái
vô uý, không còn tâm sợ sệt như một hữu tình chúng sanh nữa, vì đây chính là
trạng thái vô ngã, không phải là trạng thái hữu ngã của chúng sinh nữa, và nhờ
đó chúng sanh được Ngài an ủi:
"Ta
nói 'đến chỗ vô úy' là tự mình không có sự sợ sệt, lại an ủi chúng sanh.
"Này
Tư-ha! Đó là, có nhân duyên để nói rằng, Ta giáo hóa các đệ tử bằng thuyết
'không nên làm'; 'đến chỗ vô úy', lời nói ấy đúng sự thật, đúng như pháp."
Sau
khi tướng quân Tư-ha được đức Phật dạy về pháp không nên làm và nên làm. Có lẽ
đây là lần nghe pháp đầu tiên của tướng quân Tư-ha, nên những mâu thuẫn khác
nhau giữa không nên làm và nên làm trước đó đã nghe từ Ni-kiền Tử nay đã được
đả thông:
"Tư-ha
bạch Phật:
"Con
xin quy y Phật, Pháp, Tăng. Từ nay về sau, con không sát sanh cho đến không
uống rượu. [18]"
Đức
Phật bảo Tư-ha:
"Ông
hãy tự xét kỹ trước khi thọ giới. Ông là vị đại thần trong nước, mọi người đều
biết, nên làm việc làm lợi ích cho mọi người. Đừng nên cử động khinh suất, rồi
sau có sự ăn năn."
Tư-ha
thưa:
"Khi
mà con đến làm đệ tử của ngoại đạo sa-môn, bà-la-môn, họ liền cầm phan, xướng
lệnh khiến cho người trong nước biết: 'Tư-ha là đệ tử của Ni-kiền.' Nay con
nghe đức Thế Tôn ân cần dạy bảo rằng: 'Ông hãy tự xét kỹ trước khi thọ giới.
Ông là vị đại thần trong nước, mọi người đều biết, nên làm việc làm lợi ích cho
mọi người. Đừng nên cử động khinh suất, rồi sau có sự ăn năn.' Điều này làm cho
con càng tin tưởng sâu xa hơn."
Trước
khi đức Thế tôn cho phép tướng quân Tư-ha quy y Tam bảo, đức Phật đã làm một
việc mà trước đó, và ngay đến tận cùng sau này cũng không có một vị giáo chủ
tôn giáo nào khác có tinh thần tự do nhân bản đến cực độ như vậy. Mặc dù đức
Phật đã biết tướng quân Tư-ha đã đặt lòng tin kiên cố đối với Ngài rồi. Đó là
đối với cá nhân ông, nhưng còn những người liên hệ chung quanh ông không phải
ít với chức vụ tướng quân này; sự liên hệ đó có thể gây khó khăn sau này cho
chính ông. Qua đây cho chúng ta thấy nhân cách tuyệt vời của đức Phật, cọng với
một nền giáo lý nhân bản từ bi trí tuệ và giải thoát của Ngài, luôn luôn là một
điểm tựa vững chắc, nơi mọi người có thể nương về để hoàn thành công việc giải
thoát khổ đau cho chính mình. Đã hơn hai thiên niên kỷ qua, sau khi đức Phật
qua đời, giáo lý và hình ảnh của Ngài vẫn là một điểm sáng hoàn hảo nổi bật
nhất. Nơi thu hút mọi sự chú ý của con người, qua sự tình nguyện trong nghiên
cứu và thực hành. Người đến với đạo Phật là người đến để hoàn thành nhân cách
chính mình, chứ không phải đến để hoàn thành nhân cách của vị giáo chủ, như các
tôn giáo khác; đến để rồi vong thân, làm kẻ nô lệ qua những nhân danh, rồi tạo
ra bao cuộc thánh chiến, bao cuộc thập tự chinh, lùa người vào trong chỗ chết
nếu không theo họ. Họ đã từng dùng sức mạnh của súng đạn quân sự, sức mạnh của
chính trị [19] , và đang dùng sức mạnh của kinh tế tiền bạc, hoặc bắt ép, hoặc
dụ dỗ người khác theo đạo mình. Trong khi đó sự truyền giáo của đạo Phật không
đổ một giọt máu, không tốn một đồng tiền cắc bạc để đưa ra dụ dỗ o ép, mà bằng
sự tự nguyện trong sáng. Con người đến với đạo Phật thật hoà bình, thật nhân
bản, thật nhân cách, như hình ảnh của chính đức giáo chủ của họ vậy. Một hình
ảnh tuyệt vời, mà xưa kia tướng quân Tư-ha, người có thế lực về quân sự vào lúc
bấy giờ, đã nương về, cho đến mãi ngày hôm nay vẫn còn đẹp.
Lúc
đó, tuy người chủ của vận mệnh chính mình đã có một quyết định cân nhắc sau khi
nghe đức Phật dạy cho mình, và tìm thấy nhân cách vĩ đại của Ngài, qua đó nhân
cách của những vị sa-môn [20] , bà-la-môn khác cũng đã được tướng quân Tư-ha
đánh giá trở lại qua quyết định nương về với Ngài, giáo pháp, cùng chúng Tăng,
và nguyện suốt đời không sát sinh, … cho đến không uống rượu. Nhưng Ngài vẫn
nhắc nhở với lòng ai mẫn: 'Ông hãy tự xét kỹ trước khi thọ giới. Ông là vị đại
thần trong nước, mọi người đều biết, nên làm việc làm lợi ích cho mọi người.
Đừng nên cử động khinh suất, rồi sau có sự ăn năn.' và cũng chính nhân cách này
đã làm ông càng thêm tin tưởng vào đức Phật một cách sâu xa hơn, và về quyết
định của mình là chính xác, nên Tư-ha lại bạch Phật:
"Bạch
Đại đức! Lần thứ hai, con xin trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng. Không sát sanh,
cho đến không uống rượu. Từ nay về sau, cửa ngõ nhà con Ni-kiền ngoại đạo không
được vào. Phật và các đệ tử tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, ra vào
cửa ngõ nhà con không có sự trở ngại."
Đức
Phật nói với Tư-ha rằng:
"Trước
đây, Ông như là nguồn suối ngày đêm cung cấp cho ngoại đạo Ni-kiền, nay làm sao
đoạn tuyệt được?"
Tư-ha
lại hỏi đức Phật:
"Con
được nghe người ngoài nói rằng: Sa-môn Cù-đàm tự nói, 'Bố thí, nên bố thí cho
Ta, không nên bố thí cho người khác. Bố thí cho ta sẽ được quả báo lớn. Bố thí
cho người khác sẽ không được quả báo. Nên bố thí cho đệ tử của Ta. Không nên bố
thí cho đệ tử người khác. Bố thí cho đệ tử của Ta sẽ được quả báo lớn. Bố thí
cho đệ tử người khác sẽ không được quả báo.' "
Đức
Phật trả lời cho Tư-ha rằng:
"Ta
không nói như vậy, mà ta nói: Nếu người có từ tâm, chỉ đem nước vo gạo cho đến
như nước cơm, đem đổ chỗ nước bất tịnh có trùng, khiến cho loài trùng kia được
thọ hưởng chất này; Ta nói người kia còn có phước. Huống chi là cho con người.
Ta nói, bố thí cho người trì giới được quả báo lớn hơn so với cho người phá
giới.[21] "
Tư-ha
bạch Phật rằng:
"Như
lời đức Thế Tôn đã nói, như lời đức Thế Tôn đã nói. Chúng con xin tự
biết."
Rồi
đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói pháp, khai hóa, khiến cho Tư-ha được
hoan hỷ. Từ chỗ ngồi xa lìa trần cấu, đặng con mắt pháp trong sạch, thấy pháp
đắc pháp, đạt được quả chứng; liền bạch Phật rằng:
"Nay,
lần thứ ba, con nguyện trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng. Không sát sanh cho đến
không uống rượu. Cúi xin đức Thế Tôn nhận lời mời thọ thực của con vào ngày
mai."
Sau
lần thứ hai tướng quân Tư-ha nói lên lời nguyện, xin được nương về Phật, Pháp,
Tăng, và nguyện trọn đời không sát sinh, … cho đến không uống rượu. Và như vậy
là cửa ngõ nhà tướng quân Tư-ha từ nay về sau Ni-kiền ngoại đạo không được phép
đặt chân vào. Chỉ có Phật và các đệ tử tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, ra vào cửa ngõ nhà tướng quân là không có sự trở ngại. Cũng chính vì
Tư-ha ngăn cấm ngoại đạo Ni-kiền không được vào ngõ, nên đức Phật hỏi Tư-ha:
'Trước đây, Ông như là nguồn suối ngày đêm cung cấp cho ngoại đạo Ni-kiền, nay
làm sao đoạn tuyệt được?' vì câu hỏi này có liên quan đến vấn đề bố thí của đức
Phật mà Tư-ha, bằng một câu hỏi khác thay vì câu trả lời về vấn đề bố thí. Có
lẽ đây là một câu hỏi để tự xác định lại những gì mình đã được nghe người ngoài
nói rằng: 'Sa-môn Cù-đàm tự nói, ‘Bố thí, nên bố thí cho Ta, không nên bố thí
cho người khác. Bố thí cho Ta sẽ được quả báo lớn. Bố thí cho người khác sẽ
không được quả báo. Nên bố thí cho đệ tử của Ta. Không nên bố thí cho đệ tử
người khác. Bố thí cho đệ tử của Ta sẽ được quả báo lớn. Bố thí cho đệ tử người
khác sẽ không được quả báo’.'
Qua
lời thuật lại của Tư-ha cho chúng ta thấy rằng, vào lúc bấy giờ ngoại đạo luôn
rình rập chờ cơ hội để chúng bôi nhọ huỷ báng xuyên tạc đức Phật, đệ tử cùng
giáo pháp của Ngài. Nhưng đức Phật vẫn nhẹ nhàng khi trả lời, 'Ta không nói như
vậy, mà ta nói: Nếu một người có từ tâm, chỉ đem nước vo gạo cho đến như nước
cơm, đem đổ chỗ nước bất tịnh có trùng, khiến cho loài trùng kia được thọ hưởng
chất này; Ta nói người kia còn có phước. Huống chi là cho con người. Ta nói, bố
thí cho người trì giới được quả báo lớn hơn so với cho người phá giới.'
Như
vậy vấn đề bố thí, ở đây đức Phật không bảo là chỉ bố thí riêng cho Phật và đệ
tử của Ngài mới có phước báo, ngoài ra bố thí nơi khác thì sẽ không có phước
báo, mà Ngài tự khẳng định: có bố thí là có phước cho dù là cho bất cứ ai, ngay
đến cả loài trùng mà làm cho nó thọ hưởng được cũng là có phước, huống chi là
bố thí cho những vị trì giới thì đương nhiên sẽ có phước hơn những người phá
giới. Điều này đâu có gì là cao xa và khó hiểu đâu, vì những vị trì giới là
những người trước hết họ có cuộc sống thanh tịnh [22] , hơn nữa họ chính là
những hình ảnh đại diện cho Tăng bảo là chỗ qui ngưỡng của mọi người. Sở dĩ
ngoại đạo có những ác ý đối với Phật như vậy là vì vào lúc bấy giờ, đức Phật và
Thánh chúng được mọi người qui ngưỡng cung kính cúng dường, trong khi ngoại đạo
khất thực khó được.
Sau
khi tướng quân Tư-ha nghe những gì mà đức Phật đã trả lời qua câu hỏi của mình,
tự ông đả thông được mọi thắc mắc, và biết rõ được những gì mình cần làm sau
đó:
"Tư-ha
bạch Phật rằng:
"Như
lời đức Thế Tôn đã nói, như lời đức Thế Tôn đã nói. Chúng con xin tự
biết."
Rồi
đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói pháp, khai hóa, khiến cho Tư-ha được
hoan hỷ [23] . Từ chỗ ngồi xa lìa trần cấu, đặng con mắt pháp trong sạch, thấy
pháp đắc pháp, đạt được quả chứng; liền bạch Phật rằng:
"Nay,
lần thứ ba, con nguyện trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng. Không sát sanh cho đến
không uống rượu. Cúi xin đức Thế Tôn nhận lời mời thọ thực của con vào ngày
mai...."
Tóm lại, qua đoạn kinh văn trên, qua
hai câu hỏi về không nên làm, và bố thí đã được đức Phật trả lời một cách cặn
kẽ, đã giải toả mọi thắc mắc nghi ngờ đối với những lời giáo hoá của đức Phật
không những đối với tướng quân Tư-ha, mà ngay đối với chúng ta cũng vậy. Đây là
một đoạn kinh văn chúng tôi rút ra từ Luật tạng, nên chúng thiên về phần thực
hành hơn là lý thuyết, chỉ dành riêng cho cuộc sống tập thể Tăng vào lúc đức
Thế Tôn còn tại thế. Sự thể hiện phong cách sống của đức Phật đối với tập thể
Tăng, đối với các hàng cư sĩ tại gia, đối với các hàng sa-môn, bà-la-môn ngoại
đạo vào lúc bấy giờ, chính là sự thể hiện của ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh
tịnh tự tại trong cuộc sống. Chính cuộc sống thanh tịnh tại tự của Ngài được
thể hiện ra bên ngoài đã chinh phục mọi người theo về với Phật, Pháp, Tăng là
nửa phần thuyết giáo của Ngài hay hơn nữa. Đây chính là thọ quả trong hiện tại
được thể hiện ra trong cuộc sống của đức Phật, mà những tác nhân trước đó đã
mang lại cho Ngài, và cũng chính nhờ thọ quả hiện tại của Ngài, Ngài đã tác
động lên tác nhân khác qua việc thanh tịnh hoá ba nghiệp thân khẩu ý ác bất
thiện cho mọi người qua việc nên làm, không nên làm. Nếu ai muốn có cuộc sống
như Ngài thì chỉ cần thực hành như những gì Ngài đã giáo hoá, thì người đó có
khả năng chuyển mê khai ngộ, chuyển khổ thành vui, chuyển phàm thành Thánh ngay
trong đời hiện tại này. Chỉ sợ chúng ta không đủ lòng tin, tinh tấn, kiên nhẫn
để thực hành mà thôi. Đến với đức Phật là đến để thực hành chứ không phải đến
để tìm hiểu. Ai đến với đức Phật chỉ để tìm hiểu thì người đó sẽ không bao giờ
biết đến hương vị giải thoát, và giá trị thực chất của đức Phật là gì.
T.Đ.T.
Chú thích:
1. Ni-kiền Tử, Skt,
Nirgrantha-putra, Pàli, Nigantha-putta; là một trong Lục sư ngoại đạo vào thời
cổ Ấn Độ, chuyên tu khổ hạnh, thuộc phái lõa hình. Vì mặc áo quần vào cho là bị
trói buộc, nên không cần mặc quần áo để che thân, mà tự không biết tàm quí,
liêm sỉ. Vì vậy cho nên người đời cũng thường gọi là vô tàm ngoại đạo.
2.
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh, Thích Đức Thắng.
3.
Tư-ha tướng quân. Pali, Vin.i. 233, Sīhasenapati; vị tướng quân người Licchavī
(Lê-xa), ở Vesāli; đệ tử của Nigantha (Ni-kiền). Xem Trung A-hàm 4, kinh số 18
"Sư Tử" (Đại 1, tr. 440c); Pali, A.viii.12 Sīha.
4.
Đoán sự đường, chỗ xử án, xử lý việc công.
5.
Nguyên Hán: tác pháp. Tham chiếu. Trung A-hàm 4 (T01n0026_tr. 0441a01):
"Sa-môn Cù-đàm chủ trương bất khả tác" Cf. Vin.i. 233: akiriyavādam
samanam gotamam, Sa-môn Cù-đàm chủ trương "Không được làm."
6.
Đoạn diệt pháp. Pali: ucchedavādo samano gotamo, Sa-môn Gotama chủ trương đoạn
diệt (hư vô luận).
7.
Uế ác pháp. Pali: jegucchī, chủ trương khổ hạnh kinh tởm.
8.
Điều phục pháp. Pali: venayika, chủ trương tự chế ngự, khắc kỹ.
9.
Diệt ám pháp. Pali: tapassī, chủ trương nhiệt hành (khổ hành). Bản Hán hiểu là
tamo (bóng tối) thay vì tapo (sức nóng).
10.
Đoạn dưới nói rõ: không nhập thai nữa. Pali: apagabbo, chủ trương không nhập
thai (không tái sinh).
11.
Vô uý pháp. Pali: assattha, sự tĩnh chỉ, tô tức pháp.
12.
Hán: uế ác pháp. Tham chiếu Trung A-hàm 4, kinh số 18 "Sư Tử" (Đại 1,
tr. 440c) 'Tông bản khả tằng ố'; Pali, A.viii.12 Sīha. Ucchedavāda, tức chủ
trương khổ hạnh.
13.
Hán: Điều phục pháp, Tham chiếu Trung A-hàm 4, kinh số 18 "Sư Tử"
(Đại 1, tr. 440c) 'Tông bản pháp luật'; Pali, A.viii.12 Sīha. Venayika, sự chế
ngự.
14.
Hán: Thị thật ngữ pháp ngữ, Tham chiếu Trung A-hàm 4, kinh số 18 "Sư
Tử" (Đại 1, tr. 440c) 'pháp như pháp'; Pali, atthi … pariyāyo, yen
…pariyāyena: có pháp môn, do bởi pháp