Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ
đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc,
và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ số 153-154, đã ghi
lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian này:
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, phải tái sanh
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay ngươi bị gẫy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu phong
(Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
Câu kinh như một lời ca khải hoàn,
mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian
nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong
mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian
một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu sa đối với cây bồ đề
che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế Tôn đã đứng
cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây
vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay
vẫn còn.
Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý
giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly
dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục,
định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước... Làm thế nào để con người dễ dàng
chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan
sát thế gian và thấy rằng: "Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều
nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng
dễ giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng,
sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi
dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi
mặt nước, không bị nước thấm ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình
ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở
sâu trong lòng nước v.v... đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi
người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình
như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu
trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước. Dù sống
trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa
sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi
thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định gióng lên
tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế
gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt
khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở:
"Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh
xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
I. Bài pháp đầu tiên -
Ngôi Tam Bảo được hình thành - Khởi đầu Giáo hội Phật giáo
Sau khi quyết định truyền bá đạo lý
cứu khổ cho muôn loài, Đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem ai là người
có cơ duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là
Alara Kàlama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu.
Đức Thế Tôn nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia,
đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Baranàsi) và lên đường đi đến đó.
Bài Pháp đầu tiên
Tại đây, bài Pháp đầu tiên, bài
giảng về Tứ diệu đế (Tứ Thánh đế) được Đức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng. Nghe xong,
tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Đà Hoàn. Đức Thế Tôn thu nhận năm
tôn giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế là ngôi Tam bảo đã được hình
thành.
Để đánh dấu sự kiện đáng ghi nhớ
này, về sau người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với hai con nai hai
bên. Hai con nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe
Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp - "pháp luân". Cả đầu đề bài khi
được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân (chuyển
bánh xe pháp).
Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn mở đầu bằng lời khuyên
các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một là đam mê thú vui dục lạc thế
gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực
đoan thứ hai là khổ hạnh ép sát, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và
Ngài khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống thanh
tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Đó là con đuờng đạo 8 chánh - Bát
chánh đạo: 1. Chánh tri kiến: thấy biết chân chánh, 2. Chánh tư duy: suy nghĩ
chân chánh, 3. Chánh ngữ: nói năng chân chánh, 4. Chánh nghiệp: hành động chân
chánh, 5. Chánh mạng: sinh sống chân chánh, 6. Chánh tinh tấn: siêng năng chân
chánh, 7. Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh, 8. Chánh định: tập trung tư tưởng
chân chánh.
Và bốn Thánh đế được Đức Phật giảng
tiếp theo, dó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ
(Tập đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ
(Đạo đế).
Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng bài
pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta (kinh Vô ngã tướng), bàn về thuyết
Vô ngã (không có cái ta), rằng năm uẩn là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái
thì ra khỏi tái sanh, được giải thoát, năm tôn giả Kodanna, Vappa, Bhaddhiya,
Mahànàma và Assaji lần lượt chứng quả A La Hán. Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa
tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ. Giáo hội của Đức Thế Tôn an cư mùa
mưa đầu tiên tại đây.
Giáo hóa ôngYasa (Ya Xá)
Gần Benarès, có con trai của một
người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quí tầm thường vô vị của
thế gian, chàng tìm đến đức Phật; sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng
bao lâu chứng quả vị A La Hán. Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn
Nai thính pháp và xin quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật.
Tại nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người bạn thân của
Yasa là Vimala, Subhàhu, Punnaji và Gavampati cũng như hơn 50 bạn khác từ các
gia đình và địa phương gần xa nghe tin Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã
gia đình xin theo chân Đức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
Đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đã có 60
người đệ tử đều là A La Hán. Ngài quyết định đưa họ đi khắp nơi để truyền bá
chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ngài đã động viên, kêu gọi các đệ tử rằng:
"Này các Tỳ kheo! Như Lai đã
được giải thoát hết mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian (các cõi trời). Các
ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh
phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc
của trời và người. các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy
đi mỗi người một ngã, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp
toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn.
Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh... Chính Như Lai cũng đi,
Như Lai sẽ đi về hướng Uruve là ở Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất
lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại
sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ"
(Mahavagga, 19-20).
Đức Phật không khuyên tất cả mọi
người nên rời bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người sống không nhà
cửa, không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp
thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ và vợ của Yasa là những người
tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Đức Phật, tất cả đều tiến triển đầy
đủ về tinh thần và thành tựu đạo quả Tu Đà Hoàn.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới,
Đức Phật và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức thành một tăng đoàn
những tu sĩ khất thực không có trú xứ nhất định, không có của cải vật chất nào
khác ngoài tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân. Trong
mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có
dấu chân của những con người thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thanh
hạnh và tự mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Đó là sự
nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Đức thế Tôn đích thân
thành lập và chỉ đạo.
Có thể nói, đây là sự khởi đầu của
Giáo hội Phật giáo.
II. Hóa độ rộng lớn và
cùng khắp
Sứ mạng hóa độ - con đường giáo hóa
của Đức Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng
sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Đức Thế Tôn
đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa,
như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng
liêng một cách viên mãn và đã đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong
lịch sử nhân loại.
Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca
Diếp) - Giáo chủ thần lửa.
Sau khi sáu mươi vị Tỳ kheo mỗi
người đi về một hướng, Đức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong
một khu rừng nhỏ, Đức Phật đã hóa độ cho 30 thanh niên đang vui đùa cùng vợ của
họ và một kỹ nữ ở trong rừng.
Gần Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) có ba
anh em Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ba anh em ông là
những người có danh vọng lớn ở Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela
Kassapa; ông này thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A La Hán trọ qua đêm
và bị cố ý thu xếp cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con rắn chúa rất độc và
dữ tợn, Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng này, ngoài suy nghĩ của ông
Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Đức Phật là người đã chứng quả Thánh, chứ không
phải là mình, ba anh em ông Kassapa và 1.000 đệ tử đều xin xuất gia theo Phật.
Sau đó, Đức Phật đã đến Gàya Sirà,
cách Uruvela không xa lắm. Chính nơi đây Đức Thế Tôn đã thuyết giảng kinh
Aditthapariyàya Sutta (bài kinh Lửa Cháy, với chủ đề: thế gian là tòa nhà cháy
rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ não và thất
vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.
Khi vừa thoát ly gia đình đi tầm
đạo, Đức Phật có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La -
Bình Sa Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang
nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. Sau khi biết được
chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức vua xin Ngài hãy trở lại viếng
thăm vương quốc Magadha (Ma kiệt đà) do vua cai trị, khi chứng đạo quả.
Nhớ lời hứa xưa, Đức Thế Tôn cùng
trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràiagaha (Vương xá), thủ phủ của vương
quốc Magadha giàu mạnh. Và tại đây, vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu
liền chứng Sơ quả và xin quy y Tâm bảo cùng dân chúng tinh xá rộng lớn có tên
là Veluvanaràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự
viện đầu tiên ra đời, và vua Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua
chúa. tại tinh xá yên tĩnh những ày, Đức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3
năm liên tiếp và ba hạ khác, xa cách nhau.
Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và
Moggallàna (Mục Kiền Liên)
Gần Ràjagaha có một làng tên
Upatissa, còn có tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thông minh - là
người ở làng này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên chàng
còn được gọi là Upatissa.
Cùng với người bạn thân ở làng
Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những thú vui vật
chất đều tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình,
lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ Sànjaya, người có rất nhiều đồ
đệ. Nhưng do không thỏa mãn với giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là
nhiều đạo sĩ khác, cả hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con
đường đạo giải thoát trước, sẽ cho người kia hay.
Trong một dịp bất ngờ, Ngài
Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu phàm
đang đi trì bình một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của
Ngài Assaji (Mã Thắng, Thuyết Thị). Cho rằng đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng
là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ, Sàriputta đã - đợi cơ hội và
liền đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình
thản, an tịnh. màu da của Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế tục?
Ai là đạo sư của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
Trước những câu hỏi chân thật, khiêm
tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý
mà Ngài đã học ở Đức Thế Tôn bằng bài kệ:
"Các pháp do nhân duyên sanh.
Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ,
và dạy phương pháp để chấm dứt,
đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn".
Là người thông tuệ và trí óc đã
thuần thục để thấu triệt chân lý sâu xa, dù nó chỉ được gợi ra một cách vắn
tắt, Sàriputta đã chứng Sơ quả (Sotàpatti, Tu đà hoàn, Dự Lưu) khi vừa nghe hai
câu đầu.
Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền
thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu
cầu của cả hai, Đức Phật đã nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh xá Veluvana với
câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave!" (Hãy đến đây, các
Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh
Vedanà Pariggha mà Đức Phật giảng cho đạo sĩ Dighnakha. Ngài Moggalàna đã chứng
quả ấy trước đó một tuần. Với cơ duyên lớn, Đức Phật đã triệu tập Tăng chúng và
tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đoàn.
Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt Thế
Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Đây là thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh
của Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của Đức Thế Tôn.
III. Đức Phật và thân
quyến
Hay tin người con yêu dấu trí tuệ đã
thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi danh tại Ràjagaha, đức vua
Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Đức Phật
về Kapilavatthu. Nhưng chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với
Đức Phật. Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi, vốn là bạn thân của Đức Phật khi còn
là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và cũng chứng Thánh quả như
những vị sứ giả trước, nhưng ông Kàludàyi đã chuyển đến Đức Phật lời yêu cầu
được gặp mặt của vị vua già yếu.
Sau 2 tháng, Đức Thế Tôn và đại
chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Đức Phật, vua Suddhodana đã
cúi đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất,
đức vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai (Sakkadagami, Tư đà hàm, Nhất Lai)
khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba khi nghe bài pháp có tên Dhammapala
Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện, số 447), đức vua đắc quả Anagami (A na hàm,
Bất Lai). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati Gotami đã chứng quả Sotapana (sơ
quả).
Sau này trên giường bệnh, vua
Suddhodana lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Đức vua sau 7 ngày
tận hưởng pháp lạc và đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Đức
Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm. Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội
Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Đức Phật đã lên cung trời Tusita (Đao Lợi)
thuyết pháp độ chư Thiên và hoàng hậu Maya.
Công chúa Yasodhara (Da Giu Đà La)
Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng,
công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y vàng của người tu sĩ, và
trong khoảng 6 năm trường đã thủy chung, tận tình nuôi dạy đứa con độc nhất
Ràhula đến tuổi lớn khôn.
Nghe vua cha tán dương đức hạnh của
nàng dâu, Đức Thế Tôn đã giảng kinh Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng:
"Không phải chỉ kiếp cuối cùng này, mà trong những tiền kiếp, công chúa
cũng đã từng bảo vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
Sau khi vua Suddhodana qua đời, di
mẫu Pajàpati xuất gia làm Tỳ kheo ni, công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A
La Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, công chúa là người có thần thông bậc nhất.
bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh Apadana còn ghi lại những câu kệ do bà
giảng thuyết.
Cậu bé Ràhula (La Hầu La)
Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử
quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh không cha, được ông
nội và bà mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày thứ 7 Đức Thế Tôn
lưu lại quê nhà, Ràhula luôn quấn quýt bên chân Đức Phật, nũng nịu đòi gia tài
như lời mẹ dặn. Đức Phật quyết định giao "Thất thánh tài" [1] cho cậu
bé bằng cách nhận cậu vào Tăng đoàn và trao cho ngài Sàriputta dạy dỗ.
Thật khó tưởng tượng một cậu bé lên
bảy có thể sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di
Ràhula vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi
rằng mỗi sáng vị Sa Di trẻ này dạy thật sớm, bóc một nắm cát tung lên và
nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây...
".
Một trong những bài kinh nổi tiếng
mà Đức Phật đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn
mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản tĩnh để diệt trừ mọi
ý niệm, lời nói, hành động bất thiện.
Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Đức
Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi quí phái của hai vị tu sĩ xem tựa như
thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua
dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai phong cùng hùm con lẫm
liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quí tộc từ
khước ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên
ý niệm nghĩ về thân hình đẹp đẽ của mình và Đức Phật. Biết được ý tưởng đó, Đức
Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N'etam mama (cái này không phải của ta);
N'eso'ham'asmi (cái này không phải là ta); Na me so attatà (cái này không phải
tự ngã của ta)" ( Xem Anattalakkhana Sutta, bài II.)
Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda
Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Đức Phật và Ngài
Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỹ luật. Bạn bè thân gọi Ngài
"Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm phúc: là con của Đức
Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kệ Theragàthà (Trưởng Lão kệ), Ngài
đã đề cập đến điều ấy.
Ngài Ananda (A Nan)
Con của hoàng thân Amitodana, em
trai vua Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Đức Phật. Ông sanh ra mang
lại niềm hoan hỉ cho hoàng tộc, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Hai năm
sau khi Phật thành đạo, ông xuất gia cùng với các thanh niên của dòng họ Sakya
là Anurudha, Bhaddiya, Bhagu, Kimbala và Devadatta. Không bao lâu, ông chứng Sơ
quả khi nghe bài pháp của Đại đức Puna Mantàniputta.
Năm Đức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều
thỉnh cầu mà ông đưa ra là: 1. Đức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện
tín dâng cho Đức Phật; 2. Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện tín dâng
cho Đức Phật; 3. Cho phép không ở chung tinh thất với Đức Phật; 4. Không cho
phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Đức Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ đến
nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6. Hoan hỷ cho phép Ngài tiếp dẫn những
người từ phương xa đến ra mắt Phật; 7. Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có
điều hoài nghi; 8. Hoan hỷ giảng lại bài pháp mà Đức Phật giảng khi Ngài không
có mặt.
Được Đức Phật chấp thuận vói ý nghĩa
của nó, và giữa đại chúng, ông được cử làm thị giả Đức Thế Tôn suốt 25 năm
trường sau đó. Ông làm công việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm
Đại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi chung quanh tịnh thất của Đức Phật
9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.
Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt lạ
lùng; ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài pháp của Đức Phật, cũng như của
một số các đệ tử lớn của Ngài, mà ông được nghe qua. Khi có một Bà la môn hỏi
Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là được 82.000 bài của Đức
Phật và 2.000 của các Tôn giả khác thuyết.
Đức Phật đã tán thán 5 đức hạnh của
Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo
và ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt,
Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Đại hội kết tập kinh điển
lần thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài
là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn giả mất năm
120 tuổi.
IV. Dì mẫu Maha
Pajapati Gotami xuất gia - Giáo hội Ni giới ra đời
Được gọi là Maha Pajàpati bởi vì các
nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Con
trai bà là Nandà, em một cha khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Đức Thế
Tôn độ cho xuất gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết
hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới.
Tuy công bố rằng nữ giới cũng có thể
chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng
con đường tu hành sống không gia đình, khép mình vào khuôn khổ của giáo pháp và
giới luật cũng như sứ mạng hoằng hóa độ sanh thật lắm gian nan, khó nhọc, với
bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương nỗi trách nhiệm thiêng
liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi vua Suddhodana
băng hà, di mẫu dù 3 lần bạch xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu
lý do.
Mãi đến khi bà cùng nhiều mệnh phụ
phu nhân của dòng Sakya xuống tóc, đắp y vàng, đi bộ từ Kapilavatthu đến
Vesàli, đoạn đường gian khổ dài khoảng 200 cây số, đôi chân sưng phồng, thân
thế lấm lem cát bụi, đến bên tinh xá Đức Phật khóc than. Và chính nhờ Tôn giả
Ananda thay mặt họ vào cầu thỉnh Đức Thế Tôn đến lần thứ tư, Ngài mới chấp
thuận cho di mẫu cùng các bà được sống đời sống xuất gia, với điều kiện phải
chấp hành 8 điều qui định cho một người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda
thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ đồng
ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.
Khi ưng thuận cho Ni giới được gia
nhập vào Giáo hội. Đức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy
rằng: "Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ông thì ăn
trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng phụ nữ sống trong pháp và luật
của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê
bên một hồ nước rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh
pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".
Trong một tổ chức xã hội quy mô nào,
ta cũng thấy vì tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một đối tượng cá
biệt nào đó mà ở trong những nguyên tắc sống, làm việc luôn có những khoản ưu
tiên dành riêng cho họ. Đức Phật đã không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ,
mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn
thể, một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Độ
đương thời với nhiều tôn giáo, nhưng không có một đoàn thể nữ giới nào được
sinh hoạt như vậy.
Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha
Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên
và các bài kệ do các Tỳ kheo ni chứng thánh quả sáng tác.
V. Ông Devadatta (Đề bà
đạt ta) và những người chống đối
Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh phúc
giải thoát cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ
lợi, cũng như không có một sự phân biệt nào giữa già ngheo, quyền quý, mạt
hạng, trí thức hay u mê, Đức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch
mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị
đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những
người theo các hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra
phong tục vô ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần, hoặc
là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỉ. Trong ấy, Devadatta là một điển hình
lớn nhất.
Ông là con vua Suppabuddha và hoàng
hậu Pamità, một người cô của Đức Phật: công chúa Yasodharà là chị ông. Ông xuất
gia cùng một lượt với Đại đức Ananda và các thanh niên hoàng tộc Sakya, tuy
không chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần thông và được vua Ajàtasattu (A
Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt. Thời gian đầu xuất gia, ông có nếp sống gương
mẫu, cao thượng đến độ ngài Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha.
Về sau, danh lợi trần thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người sống đồi trụy,
tà hạnh, tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người ủng hộ. Khi niên thọ Đức Phật
đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền lãnh đạo tăng già, nhưng Đức Phật đã từ
chối.
Ông tìm cách xúi giục Thái tử
Ajàtasattu (A xà thế) giết vua cha là Bimbisàra để nắm toàn quyền bính và cùng
âm mưu hãm hại Đức Phật. Sau đó, các xạ thủ được thuê để giết Đức Phật đều được
cảm hóa thành đệ tử. Devadatta tự thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá lớn từ
trên sườn núi Gijihakuta (Linh Thứu) xuống ngay Đức Phật khi Ngài đi ngang qua.
May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều mảnh và chỉ một mảnh
vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka (nhà giải phẫu đại tài của thành
Rajàgaha, người chăm sóc sức khỏe cho Đức Phật và đại chúng) đã có mặt liền sau
đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ Nàlàgin và xua
nó chạy thẳng đến ngay Đức Phật, nhưng voi cũng bị đức từ bi của Thế Tôn cảm
hoá.
Dần dần mất hết uy tín, dư luận lên
tiếng mạnh mẽ, vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ
hòa bình hơn. Ông nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội
dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng, phải sống dưới gốc cây, mặc
vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay trọn đời. Đức Phật đã
đưa ra câu trả lời rất tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân
theo điều ấy.
Cuối đời không còn một ai ủng hộ,
Devadatta rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn vô
hạn, ông mong muốn được gặp Đức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không còn kịp nữa,
chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
VI. Những đại hộ pháp
Ngài Anathapindika (Cấp cô độc)
Vị thí chủ quan trọng nhất thời Đức
Phật tại tiền phải kể đến là ông Sudatta, người Savatthi. Chuyên làm từ thiện
xã hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại được
mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc - giúp đỡ,
trợ cấp cho những người cô đơn, hiu quạnh). Một lần có việc, ông đến thành
Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau đón Đức Phật quang lâm. Danh từ
Phật - Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy một sự thay đổi lạ lùng
trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp được "kiến kỳ
hình", nhưng không thể chờ đợi đến ngày mai; như có một chuyện gì thôi thúc,
ngay đêm khuya, ông băng rừng đến nơi Sitavara ra mắt Đức Phật và được cảm độ
từ ấy.
Với lời thách thức nữa đùa nữa thiệt
của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), ông đã đem những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong
khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã gây được lòng ngưỡng mộ của Thái
tử Jeta đối với Đức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta cúng, ông xây
dựng tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn
trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành ở
ngôi tinh xá nằm ở Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh "Xá
Vệ, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc Viên..." (nước Savatthi, cây của Jeta và vườn ông
Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ đều do công của ông thưa
hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố thí, Đức Phật đã dạy rằng, cúng dường
chỗ ăn, chỗ ở cho chư Tăng là tạo nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công
đức hơn, và cao hơn là nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền
quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển tuệ giác, thể
nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ) -
(Tăng Chi IV).
Cũng từ gia đình ông trưởng giả này,
Đức Phật đã giảng dạy pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh
phúc gia đình lứa đôi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo
dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.
Bà Visàkhà
Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập
đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà Devi;
ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở
Sàvathi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây). Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc:
tóc, da, xương, vóc dáng và sức khoẻ tuyệt hảo, bà còn là người công, dung,
ngôn, hạnh vẹn toàn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi
tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có lần Phật dạy bà đi hòa giải
những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Đôi lúc bà thỉnh cầu Đức Phật khai chế
một vài giới cấm cho Tăng Ni.
Cha chồng bà là triệu phú Migàra,
vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta, giáo chủ đạo Jain - đạo lõa
thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã
chứng quả. Bà qua đời khi đã thọ 120 tuổi.
Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc)
Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói
đến ở phần trước, và người con kế vị là vua Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng
thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi
mặt cho cuộc kết tập Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa
phải kể đến là vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala, có thủ phủ là Savatthi (Xá Vệ).
Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Đức Phật và đại tăng. Hoàng hậu
Malika, vợ của vua, là người khéo hướng dẫn phu quân của mình trên con đường
đạo đức, quy y Tam bảo. Bà đã khuyên vua nên tham vấn với Đức Phật để hiểu ý
nghĩa 16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời các
đạo sĩ Bà La Môn.
Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng) có
trọn một chương mang tựa là Kosala Samyutta, là chương Đức Phật giảng cho vua
nghe. Trong những bài pháp ấy có những ý được nhấn mạnh như: 1. Đánh giá một
người không phải là chuyện đơn giản; 2. Nên coi trọng phụ nữ như coi trọng nam
giới: "Itthì hi'pi ekacciyà seyyà" (Trong hàng phụ nữ có người còn
tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn Độ thời ấy, phụ nữ không bao giờ được kính nể
xứng đáng, lời nói cao quý của Đức Phật thật là một khích lệ lớn lao cho nữ
giới; 3. Không nên coi thường giới trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn còn bé,
ngọn lửa nhỏ và Tỳ kheo trẻ); tất cả đều có thể trở thành quan trọng, ý nghĩa
sau này; 4. Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù:
Thắng trận sanh thù oán
Bại trận niệm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tĩnh hưởng an lạc
(Tương Ưng VII)
VII. Những người cùng đinh
mạt hạng
Đạo từ bi giải thoát mở rộng cho tất
cả mọi người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như
Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể
chứng Than1h quả, như kinh đã ghi lại như sau.
Ông Angulimàla
Có tên là Ahimsaka (người vô tội),
con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân tín của một danh
sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì lòng ganh tỵ của đồng môn
khiến thầy dạy đã hiểu lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để
làm lễ cầu pháp.
Ông trở nên là một hiểm họa, một
bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm
được, ông đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng hoa bằng ngón
tay). Đức Phật là người thứ 1.000 ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa mà thầy
ông yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố
sức rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla,
chính ngươi mới phải dừng lại, còn Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng
dao tội lỗi và được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở
thành một Tỳ kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông, chuyện
đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình là chuyện cơm bữa.
Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La
Hán sau đó.
Bà Ambapàli
Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh
tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự hóa độ vô phân biệt mà
Đức Thế Tôn đang làm.
Trên đường đi Kusinara để nhập Niết
Bàn, Đức Phật dừng chân ở vườn xoài của cô gái giang hồ này. Nghe tin, cô liền
đến thỉnh Đức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý tộc
Licchavi đề nghị đền bù cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này.
Cô phát tâm cúng vườn xoài cho đại tăng, xin xuất gia, và sau sự gia công
chuyên cần, cô đạt Thánh quả.
"Như cơn gió lốc thổi dồn tất
cả các thứ lá lại một chỗ, Đức Cù Đàm giáo hóa tất cả. Trí thức ngu si, vương
giả - bần cùng, nghèo hèn - giàu sang, già cả - niên thiếu, đàn bà - đàn ông,
kẻ ác - người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cù Đàm đều mang vào giáo pháp và
xem như nhau. Đạo của Đức Cù Đàm là đạo bình đẳng, không phân biệt vậy"
(Kinh Đại Báo Ân).
Thật không có lời tán dương nào nói
hết được sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con đường giáo hóa của
Đức Bổn sư.
VII. Đức Phật tuyên bố
nhập Niết Bàn
Đức Phật là một nhân vật phi thường,
tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật vô
thường. Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Đức
Thế Tôn quyết định nhập Niết Bàn tại một làng mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà
(cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về
hướng Bắc), mà không phải ở những đô thị lớn như Sàvatthi hay Ràjagaha.
Trong thời gian cuối cùng còn lưu
lại Magadha, Đức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện
thịnh suy của một quóc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục
nước Cộng hòa Vajjian. Nhân đó, Đức Phật cũng giảng 7 yếu tố thịnh suy của Giáo
hội.
Rời Ràjagaha, Đức Phật đi về
Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Đức Phật đến viếng nơi
này, dân chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Đức Phật vượt sông Hằng và
hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli, nhập Niết bàn cuối
cùng tại đây. Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.
Trong năm này, Đức Phật đã tuyên bố
giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử còn mong mỏi gì nữa ở Như
Lai? Như Lai đã truyền dạy giáo pháp không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí
truyền và giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm
lại của một ông thầy..." Và Ngài đã dạy rằng không nên nghĩ là có một ai
phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo hội phải tùy thuộc một ai, mà mỗi cá nhân phải
là một giáo hội, một hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: ".... Như Lai đã
già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lan đã 80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ
kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời
ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm,
khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ [2].... của các Tỳ kheo.
Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính mình là hải đảo của mình, chính
mình là nơi nương tựa của mình, không nên nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo
pháp là hải đảo của các ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, không nên nương tựa
bên ngoài". Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân.
Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Đức Phật
luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác
nhau.
Ở Càpalà, Đức Thế Tôn tuyên bố 3
tháng sau nhập Niết Bàn.
Trước đây, Đức Thế Tôn đã tạo cơ hội
cho Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu dài hơn nữa của Ngài, nhưng Ananda đã vô
tình bỏ qua; giờ nghe Đức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền khẩn cầu nhưng bị từ
chối.
Trước khi cùng Ananda đi về
Mahàvana, Đức Phật đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc
sống khi thấy họ quá u sầu não.
Triệu tập Tăng chúng quanh thành
Vesàli, Đức Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần chót và đi
về Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở
Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) cúng dường cho Đức Phật món sùkasamaddhara
(nấm rừng). Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa cơm
này, Đức Phật bị kiết lỵ rất nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời
chúc phúc để trấn an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara cách Pava
6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ tộc Malla ở.
Đến nơi, giữa hai tàng cây sala,
Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hông mặt, chân trái để trên chân phải duỗi
thẳng, đầu quay về hướng Bắc. Cây sala trổ bông trái mùa như để cúng dường cho
ngài đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính lễ. Đức Phật lại dạy cách
tỏ lòng kính ngưỡng và tôn sùng Đức Thế Tôn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn
tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 thánh tích
(nơi Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên
quan đến đời sống của một Đức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được
nhiều lợi lạc.
Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo
Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Đức Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân
chúng người Malla biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng
như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ vang long trọng đối
với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh phúc cho
chính mình.
Được tin qua hàng nước mắt ràn rụa
của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ
bên Đức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất
trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của Đức Bổn sư: "Này Ananda, đừng
nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả mà không còn bậc Đạo sư nữa. Pháp và
luật mà ta đã dạy bảo, đó là Đạo sư của các ông. Này Ananda, Tăng chúng nếu
muốn có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi
ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp,
hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Đức Thế Tôn nói như vậy ba lần,
nhưng cả đại chúng đều im lặng.
Và Đức Đạo Sư đã khuyến tấn các đệ
tử câu cuối cùng:
"Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên
các con, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần".
Đó là di huấn tối hậu của Đức Thế
Tôn.
Thế rồi Đức Bổn sư yên lặng nhập và
xuất sơ thiền. Lần lượt nhị thiền v.v... đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định.
Ngài lại nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại
đến nhập và xuất sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần thứ hai ra khỏi tứ thiền,
Đức Thế Tôn nhập Vô dư Niết bàn.
Kim thân của Đức Phật được đưa đến
Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái, và sau 7 ngày được cử hành lễ trà tỳ
dưới sự tổ chức của ngài Maha Kassapa. Xá lợi được chia làm 8 phần theo thỏa
thuận của cuộc họp do ngài Maha Kassapa, đại vương Ajàtasattu và ông Dona đứng
chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tôn
thờ. Ông Dona xin được thờ phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những
người Maurya ở Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để
dựng tháp mà lễ bái.
Hình dáng của Như Lai khuất dạng từ
đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Đức Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc
thành đạo cho đến lúc nhập Niết Bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng
hai lối đời sống của chính bản thân và những lời dạy. Suốt cả con đường, đôi
lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng
đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa. Ngài đều có mặt và đưa tất cả
trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng,
giải thoát.
Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi
rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh của Đức Phật, ta có thể tán dương hay
quan niệm Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi
siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính ngưỡng Đức Phật đúng
đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly
trần:
"Này Ananda, không nên tôn
trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp
với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán
thán, quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất".
Chú thích:
[1] Thất thánh tài: Gia tài của bậc
Thánh, gồm có: 1. Tín (đức tin, lòng chánh tín), 2. Giới (giới luật), 3. Tàm
(lòng tự hổ thẹn), 4. Quý (biết xấu hổ với người), 5. Đa văn (nghe nhiều, biết
rộng); 6. Trí tuệ; 7. Xả ly (sự từ bỏ tham, sân, si)
[2] Tứ niệm xứ: 4 đối tượng thiền
quán, gồm: 1. Thân thể, 2. Cảm thọ; 3. Tâm thức; 4. Pháp.