Cuộc Ðời Đức
Xá Lợi Phất (Sàrìputta)
Soạn giả: Nyanaponika Thera
Dịch giả: Nguyễn Ðiều
Thành Hội Phật giáo Thành Phố Hồ Chí Minh. Ấn Hành. PL. PL. 2539 – DL.
1996
Mục Lục
Lời
nói đầu
Phần
Thứ Nhất: Từ lúc sanh ra đến lúc đạt Thánh quả
Phần
Thứ Hai: Trí duyên viên mãn
Phần
Thứ Ba: Ðoạn chót của cuộc đời Ngài trả món nợ trần cuối cùng
Phần
Thứ Tư: Pháp của Ðại đức Sàrìputta
Phần
Thứ Năm: Ðại đức Sàriputta trong Túc Sinh Truyện (Jàtaka)
Phụ
Lục: Những Thánh tích của hai Ðại đức Sàrìputta Và Mahà Moggallàna
LỜI NÓI ÐẦU
Trong
tủ sách Phật giáo, chúng ta hằng tìm thấy không biết bao nhiêu những cuốn sách
nói về đức Phật hoặc chung quanh các lời dạy, những giáo thuyết của Ngài.
Tuy
nhiên, quả vị của một đấng Phật Tổ lại là quả vị cao nhất, hoàn toàn nhất trong
các đạo quả giải thoát mà hành giả (Phật tử) đang đi trên con đường Bát Chánh
phải trải qua một thời gian vô lượng, với một lòng kiên nhẫn sắt đá mới có thể
đạt được.
Gương
giải thoát trong Phật giáo không phải chỉ riêng là đức Phật, mặc dù Phật là một
tấm gương sáng nhất trong những tấm gương soi thấu con đường tận diệt vô minh
phiền não, mà còn có những tấm gương khác cũng vô cùng rực rỡ và đáng noi gương
không kém. Những tấm gương ấy là những vị Ðộc Giác hay Thinh Văn Giác, tức
những đệ tử Phật đã được chứng quả giải thoát.
Trong
thời gian đức Phật còn tại thế nhiều vị Ðại đệ tử của Ngài đã đóng những vai
trò rất quan trọng trong công việc truyền bá Phật giáo và lèo lái con thuyền
Giáo hội.
Ðề
cập đến những vị Thánh Tăng ấy chúng ta không thể nào không nhắc đến lịch sử
của Ngài Sàrìputta (Xá Lợi Phất). Ngài chẳng những là một Ðại đệ tử ưu tú của
đức Phật, mà còn là một nhà thông thái có thể xem là bậc nhất trong hàng Thinh
Văn Giác.
Ngày
nay, nếu chúng ta có dịp đi hành hương ở các nước Phật giáo theo truyền hệ Nam
Tông như các nước Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan v.v... các Phật tử chắc chắn sẽ
trông thấy trên bệ thờ đấng Giải Thoát, hai bên mặt và trái của đức Phật, có
tượng hai vị Ðại đệ tử đứng chấp tay hầu Ngài. Một trong hai vị đó chính là Ðức
Thinh Văn Giác Sàrìputta (Xá Lợi Phất) vậy.
Lịch
sử của vị Ðại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi
người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường
Bát Chánh của chư Phật.
Do đó
kẻ phiên dịch cuốn sách nhỏ bé này không có ước vọng gì hơn là cống hiến cho
quí vị Phật tử bốn phương thêm một tài liệu làm gương mẫu quí giá, hầu may ra
có thể đáp ứng được phần nào nguyện vọng của những ai hằng ước nguyện chóng
giải thoát hay trở thành bậc Thinh Văn Giác.
Ngưỡng
mong quí vị học giả Cao Tăng chỉ dạy thêm nếu bản dịch này có điều chi sơ sót.
Người dịch vô cùng cảm tạ.
Nguyện
cầu Tam bảo hộ trì cho Ngài Ðại Ðức NYANAPONIKA, vị đã có công nghiên cứu và
soạn ra quyển sách này.
Xin
cho tất cả chúng sanh đều được an vui và không bao giờ oan trái.
Dịch
giả: NGUYỄN ÐIỀU
HỒI
HƯỚNG
Thành
tâm chia đều phần phước phiên dịch này đến tất cả chúng sanh, nhất là song đấng
sinh thành và các bậc Thầy tổ của dịch giả.
Nguyễn
Ðiều
Sài
gòn tháng 12/1966
PHẬT
NGÔN:
“Không
sự bố thí nào quí hơn là bố thí Pháp bảo
Không
hương vị nào quí hơn hương vị của Pháp bảo
Không
sự thỏa thích nào quí hơn sự thỏa thích trong Pháp bảo
Không
sự vượt thắng cái khổ nào quí hơn là vượt thắng cái khổ dục vọng.”
(Trích
Pháp Cú Kinh, Dhammapada 354)
PHẦN THỨ NHẤT: TỪ KHI SANH RA ÐẾN LÚC ÐẠT THÁNH
QUẢ
Câu
chuyện bắt đầu từ trong hai làng Bà la môn ở Ấn Ðộ gọi là Upatissa và Kolita.
Hai làng này cách xa thành Ràjagaha (Vương Xá) chẳng bao nhiêu.
Trước
khi đức Phật ra đời, có một thiếu phụ thuộc dòng Bà la môn tên Sàrì, sống trong
làng Upatissa đã thụ thai (Cunda, Satipatthàna Samyutta và Chú Giải thì nơi
sinh của Ngài là Nàlàkà hay Nàlàgàma. Không chừng đó là tên phụ. Có điều chắc
chắn là nơi ấy gần vùng Nalanda... Ở Nalanda có một Ðại Học Ðường đầu tiên trên
thế giới. Chính Ðường Huyền Trang đã tòng học tại đây. Còn ông Bà la môn, tức
thân sinh của Ðại Ðức Sàrìputta tên là Vaganta), và đồng thời tại một làng khác
gọi là Kolita, cũng có một thiếu phụ Bà la môn khác mang thai. Nhưng có điều lạ
là cả hai thiếu phụ này thụ thai trong một ngày. Người thiếu phụ thứ hai tên là
Moggallì. Hai gia đình của hai thiếu phụ này giao hảo với nhau rất thân mật và
đã kết thân cùng nhau bảy đời.
Kể từ
ngày mới thụ thai, hai gia đình Bà la môn kia chăm sóc hai thiếu phụ ấy rất chu
đáo và sau một thời gian đến ngày nở nhụy khai hoa, cả hai thiếu phụ đồng sinh
ra hai đứa con trai cũng cùng trong một ngày.
Trong
lúc đặt tên cho đứa bé, thiếu phụ có tên Sàrì đã nhận tên Upatissa mà đặt cho
con trai mình, bởi vì gia đình của nàng là một gia đình đứng đầu trong làng.
Tương tự như thế, cậu bé con trai của nàng Bà la môn Moggallì bên làng kia lại
được đặt tên là Kolita.
Khi
hai cậu bé bắt đầu khôn lớn, chúng được cha mẹ giáo dục thật chu đáo, và được
học hỏi nhiều môn học từ những danh sư nổi tiếng nhất trong xứ. Hai cậu đã trở
nên lão thông tất cả những môn học thời bấy giờ.
Mỗi
chàng trai xuất chúng ấy đều có hằng năm sáu trăm người thanh niên Bà la môn
khác theo làm môn đệ. Họ thường dắt nhau đi thưởng cảnh bơi lội hoặc vào trong
những công viên vừa giải trí vừa luận bàn thời sự. Upatissa hay dùng năm trăm
chiếc võng, và Kolita với năm trăm cỗ mã xa.
Hồi
ấy tại thành Ràjagaha (Vương Xá) mỗi năm có một kỳ lễ tưng bừng giống như hội
Vu Sơn. Ðôi thanh niên trí thức này được mời ngồi vào những chiếc ghế danh dự
để chứng kiến cuộc lễ. Thoạt đầu họ có vẻ vui thú khi những hồi trình diễn trở
nên hào hứng, và họ đã tặng nhiều món tiền thưởng để các diễn viên, trình diễn
thêm những màn đặc biệt mà họ thích nhất. Họ giải trí vui vẻ như vậy đến hai
ngày, nhưng qua đêm thứ ba thì cả hai bỗng trở nên buồn bã, vì họ vừa ý thức
được một điều gì. Họ không còn vui vẻ hay tươi cười nữa. Họ cũng chẳng màng
treo thêm những món tiền thưởng hậu như hai ngày trước.
Mỗi
người đồng có một ý nghĩ: "Ở đây có gì lạ mà ta phải ngồi nhìn? Tất cả
những người này khi đã đến trăm tuổi rồi thì họ sẽ phải đi theo thần chết. Vậy
việc mà ta nên làm là mau mau đi tìm một con đường để thoát chết.”
Những
ý nghĩ như vậy cứ lẩn quẩn trong đầu óc họ, ngay khi họ còn ngồi trong cuộc lễ.
Sau đó Kolita bèn nói với Upatissa:
Này
bạn Upatissa! Thế này là nghĩa làm sao? Do đâu bạn lại không vui vẻ và thích
thú như hai ngày trước? Tôi nhìn bạn như đang lo âu một điều gì, vậy bạn có thể
cho tôi biết được chăng?
Này
bạn Kolita. Tôi thấy ngồi nhìn những cảnh tượng này chẳng lợi ích chi cả. Nó
hoàn toàn vô vị. Tôi nghĩ phải đi tìm một con đường giải thoát cho chính tôi
Kolita ạ. Ðó là vấn đề mà tôi đang băn khoăn trong tâm. Nhưng mà còn anh nữa,
anh Kolita ạ, tôi thấy anh cũng không có vẻ an tâm chút nào!
Kolita
đáp:
Tôi
quả có sự suy tư đúng như anh vừa thốt.
Khi
biết rằng người bạn cùng mang một nỗi âu lo như mình, Upatissa bèn nói:
Ðó là
một mối quan tâm đáng khen của chúng ta. Nhưng muốn đi tìm một người Thầy để
dạy cho chúng ta con đường giải thoát, chỉ có cách là chúng ta phải rời bỏ nhà
cửa để du phương và tìm sống với các bậc đạo sĩ hữu hạnh, song biết ẩn sĩ đắc
đạo nào mà chúng ta theo bây giờ?
Thuở
ấy có một Giáo chủ sống trong thành Ràjagaha (Vương Xá). Vị này thuộc phái Du
Sĩ Paribbàjaka, tên gọi là Sanjaya. Ông có một số môn đồ rất đông.
Với ý
định sẽ gia nhập làm môn đệ của vị ấy, Upatissa và Kolita bèn tìm đến đó. Mỗi
người cùng dắt theo năm trăm thanh niên đồ đệ của mình rồi tất cả đều được nhận
vào môn phái của Sanjaya. Kể từ đó tiếng tăm và hậu thuẫn của đạo sĩ Sanjaya
liền trở nên vang dậy.
Sau
một thời gian ngắn, đôi bạn Upatissa và Kolita đã học hết học thuyết của Giáo
chủ Sanjaya. Họ hỏi Thầy đạo sĩ rằng:
Thưa
Thầy, Giáo pháp của Thầy chỉ có chừng ấy hay còn gì hay hơn nữa?
Sanjaya
đạo sĩ đáp:
"Chỉ
có thể, và các ngươi đã biết cả rồi."
Nghe
vậy đôi bạn Upatissa và Kolita liền nghĩ: "Nếu chỉ có thế mà mình lại tiếp
tục cuộc đời đạo sĩ này với ông ta thì vô ích quá! Mình đã lìa bỏ gia đình,
sống đời để tìm giải thoát thế sự, mà theo ông Thầy này mình chẳng được chi
cả!.”
Rồi
họ lại nghĩ tiếp: "Nhưng nước Ấn Ðộ rộng bao la, nếu mình kiên nhẫn tầm Sư
không thối chuyển, cứ đi từ làng này qua làng khác, tỉnh nọ đến tỉnh kia chắc
hẳn sẽ tìm được một vị Thầy dạy cho ta phương pháp thoát tử!.”
Kể từ
đó mỗi khi họ nghe có một đạo sĩ uyên bác nào, dù ở xa đi nữa, đôi bạn Kolita
và Upatissa cũng tìm đến cầu đạo. Nhưng chẳng có một vị nào giải đáp nổi một
câu hỏi của họ, trong khi đối với những người khác các vị đạo sĩ ấy đều tỏ ra thông
suốt.
Sau
khi đi khắp cả xứ Ấn Ðộ, cả hai phải cùng quay về, và lúc về đến chỗ cũ, họ
đồng cam kết với nhau rằng:
"Trong
hai người nếu ai tìm được con đường bất tử trước phải chỉ lại cho người kia.”
Từ đó
họ chính thức kết làm huynh đệ và tình giao hữu giữa đôi thanh niên lại càng
sâu đậm hơn.
Chẳng
bao lâu, sau khi Upatissa và bạn là Kolita hẹn ước như thế, thì đức Thế Tôn
đấng hoàn toàn Giác Ngộ lại đến thành đô Ràjagaha (Vương Xá). Vì khi Ngài đã
thuyết xong một bài pháp nói "Lửa" tại thị trấn Gàya, Ngài bèn nhớ
đến lời hứa mà Ngài đã hứa với vua Bimbisàra (Tần Bà Sa) trước khi đắc thành
Chánh đẳng Chánh giác là Ngài sẽ trở lại thành Ràjagaha (Vương Xá) ngay sau khi
Ngài đã đắc được đạo Giác Ngộ. Ðức Thế Tôn di hành suốt quãng đường dài từ Gàyà
đến thành Ràjagaha và được vua Bimbisàra thân hành đón tiếp tại Trúc Lâm Tinh
xá (Veluvana Vihàra).
Trong
số sáu mươi mốt vị Thánh A la hán mà đức Bổn Sư đã phái đi để truyền bá cho thế
gian về ân đức của Tam bảo (Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo), có Trưởng lão
Assàji, người thuộc nhóm năm đạo sĩ trước đây là những vị đồng tu khổ hạnh với
đức Thích Ca khi Ngài chưa đạt được giác ngộ, và cũng chính những vị đó sau này
đã trở thành những đệ tử đầu tiên của Ngài. (Tức năm Thầy Kiều Trần Như)
Trưởng
lão Assàji, sau khi đã du hành truyền đạo bèn trở lại thành Ràjagaha.
Vào
một buổi sáng nọ, trong khi Trưởng lão đang trì bình khất thực trong thành Ngài
được Upatissa, người đang đi trên con đường dẫn đến tu viện thuộc phái đạo sĩ
du phương Sanjaya, trông thấy. Bị kinh cảm bởi vẻ mặt trang nghiêm và thoát tục
của Ðại Ðức Assàji, Upatissa nghĩ: "Trước đây ta chẳng bao giờ trông thấy
một nhà sư như vậy. Ông ta phải là một trong những Thánh Tăng A la hán
(Arahatta). Nếu không chắc hẳn Ngài cũng là người đang bước trên con đường đến
Thánh quả A la hán? Tại sao ta không thử đến gần Ngài để tìm hiểu xem Ngài được
thọ giáo với ai? Ðâu là Ðạo môn của Ngài và Ngài đã học được giáo lý như thế
nào?.”
Nhưng
Upatissa lại nghĩ: "Giờ phút này không tiện để cho ta đặt những câu hỏi
như vậy vì Ngài còn đang khất thực trên đường phố. Tốt hơn ta nên theo sau Ngài
như một người ngưỡng mộ.” Và rồi Upatissa đã thực hiện ý nghĩ của mình.
Sau
khi đức Trưởng lão khất thực xong, Upatissa lại thấy Ngài dời chân đến một nơi
khác, dường như với ý định chọn nơi thanh vắng để dùng bữa. Ông ta bèn tiến
nhanh đến phía trước sửa soạn cho Ngài một chỗ ngồi bằng chiếc tọa cụ của chính
ông đã mang theo, rồi ông cung kính dâng đến đức Trưởng lão Assàji. Khi Ngài
dùng bữa xong thì Upatissa liền dâng đến Ngài nước rửa tay lấy từ trong bình
đựng nước của ông, và cùng một cách như thế, ông đã lo lắng cho Ngài bằng tất
cả cử chỉ của một người đệ tử đối với bậc Thầy.
Sau
khi trao đổi với nhau với những lời chào hỏi thông thường, lịch sự và lễ phép,
Upatissa nói:
Kính đạo
sĩ, nét mặt của Ngài thanh tịnh quá. Phong thái của Ngài sao mà trong sạch sáng
sủa thế. Kính đạo sĩ, vậy Ngài đã theo vị nào để trở thành thoát tục? Và ai là
Thầy của Ngài, cũng như Ngài đã thọ giáo ra sao?
Ðức
Assàji đáp lời:
Này
đạo hữu! Ðúng vậy chính vị Giác Ngộ, người con cao quí của dòng Sakya chính là
Bổn Sư của bần đạo. Ði trên con đường của Ngài, bần đạo đã tiến hóa. đức Thế
Tôn ấy là bậc đã giải thoát, và cũng nhờ Pháp bảo của Ngài mà bần đạo đã được
thanh tịnh.
Thưa
đạo sĩ. Vị Ðại phúc ấy chắc phải thông rõ vạn pháp và Ngài phải học hỏi có bao
nhiêu mới đạt được mức thanh tịnh như thế?
Bị
chất vấn như vậy, đức Trưởng lão Assàji bèn tự nghĩ rằng:
"Những
học giả du phương này thường không hiểu pháp Ba la mật của đức Phật. Ta sẽ chỉ
cho ông ta rõ Ba la mật pháp cao dày như thế nào?" Vì vậy Ngài nói:
Dù
sao bần đạo hãy còn trên bước đường tu tập. Con đường giải thoát mà bần đạo đã
đi kể từ khi xuất gia đến giờ chưa xa mấy. Bần đạo chỉ mới bước được vài bước
thuộc vào những bước mở đầu trong giáo lý và phẩm hạnh này. Bần đạo không thể
giải nghĩa Pháp bảo của đức Thế Tôn cặn kẽ đến đạo hữu được.
Người
tầm đạo ấy liền thưa:
Kính
Ðại Ðức. Tôi tên là Upatissa, đang quyết lòng tìm đạo. Xin Ngài làm ơn chỉ dẫn
cho tôi tùy theo khả năng của Ngài. Dù nhiều hay ít tôi cũng vẫn kính cẩn lắng
nghe. Nếu là chánh pháp thì chỉ một câu đã giúp người thành tâm tìm ra nẻo giải
thoát.
Và
ông ta năn nỉ tiếp:
Xin
Ngài chỉ dạy cho tôi theo sức hiểu biết của Ngài. Với ánh sáng giác ngộ dù chỉ
le lói đi nữa, nó vẫn có giá trị và đầy đủ khả năng giúp người thiện tâm tìm ra
con đường chân lý.
Ðể
đáp lại, Trưởng lão Assàji ngâm kệ rằng:
"Vạn
pháp đều sanh ra bởi một Nhân,
Ðức
Thế Tôn đã chỉ rõ Nhân của nó,
Ngài
cũng dạy cho cách diệt tắt,
Nhân
ấy! Ðó chính là Giáo pháp của bậc Ðại Sa môn.”
(Kệ
ngôn trên đây ngày nay đã trở thành một trong những triết lý căn bản và nổi
tiếng nhất của Phật giáo. Bất cứ lúc nào nó cũng có thể đóng vai như một sự
nhắc nhở về lần tiếp xúc đầu tiên của Ðại Ðức Upatissa Sàrìputta với Pháp bảo,
và nó cũng là một sự ghi nhớ có giá trị về Trưởng lão Assàji, vị Thầy đắc đạo A
la hán của ông).
Nhắc
lại thanh niên Upatissa, khi nghe hết hai câu đầu, Upatissa đắc được Pháp Nhãn,
chứng đạo Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn) và lúc dứt hai câu cuối cùng ông đã hoàn toàn lắng
nghe với vẻ mặt của một người đang được giải thoát.
Khi
ông đã trở thành một bậc nhập Thánh Lưu rồi, và trước khi đạt được những quả vị
cao hơn, ông đã cảm nhận rằng: "Ánh sáng cùng ý nghĩa của sự giác ngộ đã
tìm thấy nơi đây rồi.” Và ông cung kính nói với đức Trưởng lão:
Xin
Ngài khỏi giải rộng thêm về Pháp bảo này nữa. Như thế đó là đủ tất cả. Upatissa
xin qui y đấng Thế Tôn và Ðại Ðức.
Nhưng
thưa Ngài. Hiện vị Thầy của chúng ta đang ở đâu?
Này
kẻ tầm đạo. Ngài đang ở trong Trúc Lâm Tinh xá.
Bạch
Ðại Ðức! Thỉnh Ðại Ðức đi trước. Tôi có một người bạn và chúng tôi đã hẹn ước
với nhau rằng: "Nếu ai tìm được đạo bất tử trước tiên sẽ chỉ dạy cho người
kia. Vậy tôi phải đi thông báo cho người bạn tôi biết, rồi chúng tôi sẽ cùng
theo con đường Ngài đã đi để đến ra mắt đấng Thiên Nhân Sư.”
Ðoạn
Upatissa cung kính mọp xuống tận bàn chân của đức Trưởng lão, lễ bái và từ giã
Ngài để trở lại nơi cư ngụ của những đạo sĩ du phương.
Kolita
trông thấy bạn mình tiến lại gần và thầm nghĩ: "Hôm nay nét mặt của bạn ta
hoàn toàn thay đổi. Chắc hẳn anh ấy đã tìm ra con đường thoát tử?"
Và
khi ông hỏi bạn về chuyện ấy, Upatissa đáp:
Vâng,
thưa bạn. Tôi đã tìm ra đạo bất tử.
Rồi
ông đọc thuộc lòng cho bạn mình nghe kệ ngôn mà ông đã nghe. Khi kệ ngôn chấm
dứt, Kolita liền đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn) và liền hỏi:
Bạn
thân mến! Hiện đấng Thượng Sư ngụ ở đâu?
Thầy
của tôi, đức Trưởng lão Assàji đã cho tôi biết rằng đấng Thượng Sư đang ở tại
Trúc Lâm Tinh xá.
Kolita
liền bảo:
Này
Upatissa vậy chúng ta hãy đến ra mắt Ngài đi.
Nhưng
Upatissa là người luôn luôn kính trọng Thầy, nên ông ta bèn đề nghị với bạn
rằng:
Này
bạn! Trước tiên chúng ta hãy đến Thầy cũ của chúng ta đã, Ngài du sĩ Sanjaya,
và bảo cho ông ấy biết rằng chúng mình vừa tìm được đạo bất tử. Nếu ông ta đón
nhận, ông ta sẽ đạt được con đường thật. Dù cho ông ta không tin đi nữa có lẽ
ông cũng được ảnh hưởng do lòng tin tưởng mãnh liệt của chúng ta, rồi sẽ cùng
đi yết kiến đấng Thượng Sư để nghe giáo lý của Ngài. Biết đâu ông ta cũng gặt
hái được đạo quả giải thoát?
Do đó
cả hai cùng đến gặp đạo sĩ Sanjaya và báo tin rằng:
Thưa
Thầy! Thầy đang làm gì đó? Một đấng Giác Ngộ đã xuất hiện trên thế gian này.
Giáo lý của Ngài đã khai sáng nhân sinh và được thực hành chân chánh trong cộng
đồng do những Tăng sĩ đệ tử của Ngài. Vậy Ngài hãy cùng đi với chúng tôi đến ra
mắt đấng Thượng Sư đã tròn đủ Thập Ðộ.
Ðạo
sĩ Sanjaya ngạc nhiên la lên rằng: "Ta chẳng hiểu các ông muốn nói cái
gì?.”
Rồi
ông từ chối không đi theo họ, mà còn khoe khoang với họ về danh dự và tiếng tăm
của ông ta để hy vọng thuyết phục hai học trò mình ở lại hưởng thụ và chỉ tin
tưởng nơi danh vị của ông Thầy cũ.
Nhưng
họ đã quyết:
Thầy
ạ. Chúng tôi đã dứt khoát, không còn bất cứ ý muốn nào ở lại đây. Thầy ơi! Thầy
chỉ cần quyết định rằng đi theo chúng tôi là nên hay không mà thôi?
Thất
bại trong những lời thuyết phục, Sanjaya nghĩ: "Nếu họ hiểu nhiều như vậy,
họ sẽ chẳng nghe theo những gì ta bảo. Tốt hơn hãy để họ ra đi càng sớm càng
tốt, kẻo không những đệ tử khác hay biết sẽ có hại.”
Tư
tưởng xong ông ta liền đáp:
"Thôi
các ông hãy đi đi, còn ta không thể đi được.”
Thưa
Thầy, tại sao không?
Vì ta
là một vị Thầy có nhiều môn đệ. Nếu ta đảo lộn hệ thống môn đồ như thế thì
chẳng khác nào một bệ nước vĩ đại đem đổi lấy một bình chứa nhỏ nhoi. Bây giờ
ta không thể nào trở lại cuộc sống như là một đệ tử được.
Họ
lại khẩn cầu: Xin Thầy đừng nghĩ như thế Thầy ạ!
Nhưng
ta đã quyết định rồi, các ông hãy đi đi, ta không thể đi được.
Thầy
ơi! Khi đức Phật xuất hiện trên đời, bao nhiêu người từ hạ dân đến quyền quí
cao sang đều tôn thờ Ngài, mang cả những bảo vật đến dâng cúng kia mà. Danh vị
của Thầy làm sao so sánh với đấng Toàn Giác. Cho nên, khi chúng tôi đã theo
Phật rồi, những gì sẽ xảy đến cho Thầy, chắc Thầy đoán biết chứ?
Ðể
đáp lại câu đó, đạo sĩ Sanjaya trả lời:
Này
các đệ tử, các ông suy nghĩ gì kỳ lạ vậy? Trên đời này người ngu muội nhiều hay
người trí thức nhiều?
Người
ngu muội nhiều, thưa Thầy. Song người trí thức thì ít lắm.
Nếu
vậy thì này các ông. Chắc các ông cũng biết rằng những người trí thức sẽ đến
với đức Phật Cồ Ðàm (Gotama), còn những kẻ ngu muội sẽ về với ta, chỉ những
người ngu muội thôi. Bây giờ các ông có thể đi đi. Nhưng ta chẳng bao giờ đi
theo các ông cả.
Vì
vậy, đôi bạn Upatissa và Kolita, khi rời Thầy đã nói:
Thưa
Thầy. Rồi đây Thầy sẽ hối hận vì những tư tưởng sai lầm của Thầy.
Sau
khi họ đi rồi, có một sự rạn nứt trong những môn đồ Sanjaya và tu viện của ông
ta đã trở nên gần như trống trải.
Thấy
tư thất của mình vắng lặng các môn đồ, đạo sĩ Sanjaya đã uất ức đến hộc máu
tươi. Năm trăm đệ tử của ông đã rời bỏ theo Upatissa và Kolita. Trong số đó chỉ
có hai trăm năm mươi người trở lại với đạo sĩ du phương Sanjaya.
Với
số còn lại là hai trăm năm mươi người, cộng thêm những người tùy tùng xưa kia,
đôi bạn Upatissa và Kolita bèn nhắm Trúc Lâm Tinh xá trực chỉ.
Lúc
đó đức Thượng Sư đã an tọa trong hàng, Tứ chúng (đó là Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni,
Thiện nam, Tín nữ) và đang thuyết pháp. Khi đức Thế Tôn thấy hai người tiến
đến, Ngài bèn công bố với chư Tăng và Phật tử rằng:
Ðôi
bạn Upatissa và Kolita đang đến đây sẽ là những đệ tử ưu tú của Như Lai. Thực
là một đôi bạn phước duyên song toàn.
Khi
đến gần, hai người ấy liền trịnh trọng đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi lại một bên.
An tọa xong, họ bạch với đức Phật rằng:
Bạch
Ngài! Xin Ngài cho chúng con được thọ giáo để được đi trên con đường tấn hóa và
xin Ngài dắt dẫn chúng con trên con đường giải thoát tối thượng.
Ðức
Thế Tôn thuyết: "Này các Tỳ kheo! Các vị hãy đến đây! Khi Pháp bảo đã được
thuyết giảng, hấp thụ vào tâm rồi thì đời sống của kiếp người là những ngày
tháng trong sạch để chấm dứt cả phiền não.”
Phật
thuyết chỉ có thế và Ngài xem như rất đầy đủ cho những hàng xuất gia cao
thượng.
Sau
đó đức Bổn Sư tiếp tục bài pháp tùy theo căn cơ của mỗi cá nhân để đưa họ vào
một sự suy gẫm. Trường hợp đặc biệt của hai thủ lãnh môn đồ vừa đến, pháp của
Ngài đã làm cho họ đạt tới A la hán quả. Nhưng hai vị ấy chưa hoàn toàn ngộ
được ba đạo Thánh tâm cao thượng hơn. Lý do là vì tính chất, vĩ đại của Trí tuệ
hòa hợp với sự hoàn toàn của một Ðại đệ tử mà họ còn phải đạt tới.
(Sàvakapàramì Ĩàna).
Từ
khi trở thành đệ tử của đức Phật, Upatissa có tên là Sàrìputta (Xá Lợi Phất) và
Kolita được gọi là Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên).
Sau
đó Ðại Ðức Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) đến ngụ tại một làng trong xứ
Magadha (Ma Kiệt Ðà), gọi là làng Kallavàla. Ở đó Ngài phải nhờ vào vật bố thí
của thập phương bá tánh. Vào ngày thứ bảy sau khi xuất gia, khi Ngài đang thực
hành phận sự của bậc Sa môn (Thiền định), thì sự lười biếng và hôn trầm kéo đến
Ngài. Nhưng nhờ pháp câu thúc của đức Phật Ngài đã đẩy lui được sự lười biếng
(điều này căn cứ vào một bài pháp trong kinh Anguttara Nikàya VII N. 58), và
sau đó khi nghe đức Thượng Sư dẫn giải cho Ngài về đề mục Thiền Ðịnh Sơ cấp
(Dhàtu Kammatthàna), Ngài đã hoàn thành công việc, đạt tới ba đạo tâm cao hơn
và chứng được sự hoàn toàn tối thượng của một Ðại đệ tử (Sàvaka Pàramì).
Trong
lúc đó thì Ðại Ðức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) tiếp tục sống bên cạnh đấng Bổn Sư
trong một cái hang gọi là Sakarakhatalena (Ðộng Heo), và thường đi vào thành
Ràjagaha (Vương Xá) khất thực. Nửa tháng sau lễ xuất gia của Ngài, đức Thế Tôn
đã thuyết một bài pháp về sự nhận thức của tâm (Kinh Dighanakha Sutta, Majjhima
Nikàya N.74.) cho người cháu của Ðại Ðức Sàrìputta tên là Dìghanakha (Một đạo
sĩ du phương) nghe. Ðại Ðức Sàrìputta đứng phía sau đức Bổn Sư để hầu. Trong
khi theo dõi những ý tưởng liên tục của bài pháp, Ðại Ðức Sàrìputta (Xá Lợi
Phất) đã nhận thấy rằng đó chính là sự chia sớt những món ăn tinh thần quí báu
mà đức Thượng Sư thân hành trao lại cho người đời.
Nhờ
hiểu biết như vậy mà Ðại Ðức Sàrìputta đã chứng được trí thức tối thượng tròn
đủ của một Ðại đệ tử, và cũng đắc được đạo quả A la hán với bốn Tuệ phân biệt
(Tứ Phân Biệt Tuệ) (theo chú giải trong Anguttara Nikàya phần thứ 4, số 172).
Còn người cháu của Ngài khi dứt bài pháp đã đắc quả nhập lưu (Tu Ðà Hườn) (căn
cứ theo Thera Gàthà do Ðại Ðức Sàrìputta thuyết, các kệ ngôn số 995 996).
Nếu
có người hỏi: "Ðại Ðức Sàrìputta không có một Trí tuệ vĩ đại sao? Và nếu
có tại sao Ngài lại đạt được sự hoàn toàn của một Ðại đệ tử sau Ðại Ðức Mahà
Moggallàna (Mục Kiền Liên) Câu trả lời là chính vì sự vĩ đại đó mà thời gian
phải cần thiết để cho nó được chuẩn bị chín muồi. Chẳng hạn như một thường dân
muốn đi đâu, họ liền đặt chân ra đường. Nhưng trường hợp những hạng vua chúa
thì lắm sự chuẩn bị chu đáo lại cần thiết. Chẳng hạn như thắng xe tứ mã, bố trí
quan quân v.v...
Trường
hợp nói trên cũng tương tự như vậy.
Cùng
ngày hôm ấy, khi bóng chiều đã đổ dài trên ngàn cây nội cỏ, đức Thượng Sư gọi
tất cả môn đồ của Ngài tựu hợp và tỏ lời nâng nhị vị A la hán Sàrìputta (Xá Lợi
Phất) và Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) lên hàng Huynh trưởng hướng dẫn Tăng
chúng.
Trong
dịp này, có một số Tăng sĩ không hài lòng và bàn tính với nhau: "Ðức Bổn
Sư nên cho phẩm vị Trưởng lão đến những vị xuất gia đầu tiên mới phải, nghĩa là
nhóm năm đệ tử đầu (năm Thầy Kiều Trần Như). Nếu không thì hoặc cho nhóm hai
trăm năm mươi Tỳ kheo dẫn đầu do Ngài Yasa hay cho ba mươi vị trong nhóm Bhadda
Vaggiya (Thắng Dục Sĩ), còn không thì Ngài phải cho đến ba Huynh đệ Kassapa
chứ?
Nhưng
tại sao Ngài không kể đến các vị đại Trưởng lão này, mà đem phẩm vị đó ban đến
những người mới xuất gia sau cùng.” Ðức Bổn Sư dọ hỏi về đề tài bàn tán của họ,
và khi được biết Ngài bèn dạy:
Như
Lai không thiên vị mà chỉ cho phẩm vị ấy theo hạnh nguyện của họ. Tỷ như
Kondanna (chỉ nhóm Kiều Trần Như), trong kiếp trước họ đã bố thí vật thực chín
lần giữa mùa gặt đến tiền thân của Như Lai. Họ không có nguyện vọng trở thành
Ðại đệ tử, họ chỉ có nguyện vọng được bước vào giáo lý của Như Lai đầu tiên,
cùng chung được phẩm đạo cao nhất là A la hán. Ðiều đó giờ đây đã đúng sự thực.
Nhưng Sàrìputta và Màha Moggallàna, trong vô lượng quá khứ vào thuở đức Phật
Anomadassi, họ sinh làm một thanh niên Bà la môn tên Sàrada và một người điền
chủ tên Sirivaddhaka. Họ đã có nguyện vọng trở thành những Ðại đệ tử khi gặp
đức Phật trong kiếp sau cùng. Này chư Tỳ kheo! Hãy nghe đây! Phẩm vị mà Như Lai
cho họ chính là nguyện vọng của họ đấy. Chư Như Lai không bao giờ thiên vị.
Phần
sưu tập về địa vị của Ðại Ðức Sàrìputta này được lấy ở đoạn chú giải trong Kinh
Anguttara Nikàya, bộ Etavagga và một số trích từ những bài kệ song đối trong
chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapàda Sutta). Trong đó, một số những đặc điểm chính
yếu về vai trò của Ðại Ðức Sàrìputta được hoàn toàn ghi nhận. Ngoài ra, đức
năng trong tình bạn sâu xa giữa Ngài với Ðại Ðức Mahà Moggallàna cũng được mô
tả, không những khi Ngài còn ngoài đời, một thanh niên được giáo dưỡng trong
nhung lụa, mà cả đến lúc xuất gia sống đời sống vô gia đình. Rồi đạt được Thánh
quả. Ðức năng ấy vẫn luôn luôn bền bỉ trong sạch như ánh sáng mặt trời.
Trong
khi vừa thấm nhuần được giáo lý giải thoát và trước khi tiến xa hơn trên con
đường thanh tịnh, ý tưởng đầu tiên của Ngài là nghĩ đến bạn, ông Kolita cùng lời
thề mà Ngài đã nguyện. Ðại Ðức Sàrìputta có một Trí tuệ vô song và tiềm tàng do
tu tập trong nhiều kiếp qua. Trí tuệ ấy trong kiếp này là lúc đã chín muồi, chỉ
chờ dịp để phát hiện. Do đó nó đã biểu lộ tức khắc giúp Ngài nắm được ngay yếu
chất Phật giáo lúc chỉ được nghe vài câu pháp của Trưởng lão Assàji. Và hi hữu
hơn nữa là Ngài đã kết hợp được sức thông minh ấy với cá tính khiêm tốn, dịu
dàng, tự nhiên và biểu lộ bằng sự hiểu biết khiến cho bất cứ ai cũng kính phục.
Ðối với đạo chủ Sanjaya, dù biết rằng ông ấy vô cùng lầm lạc, nhưng Ðại Ðức
Sàrìputta vẫn giữ một thái độ tôn kính như xưa. Bởi vậy, ta không thể thắc mắc
gì khi biết rằng suốt đời sống của Ngài, Ngài luôn luôn tỏ rõ sự kính trọng đối
với Trưởng lão Assàji vì chính nhờ vị này mà Ngài đã được bước vào giáo lý của
đức Phật.
Như
ta đã biết, theo chú giải kinh Vìva Sutta (Sutta Nipàta), và cũng trong Chú
giải cuốn số 392 trong Kinh Pháp Cú rằng: Bất cứ lúc nào, khi Ðại Ðức Sàrìputta
cùng sống trong một Tinh xá với Trưởng lão Assàji, Ngài luôn luôn đến nghiêng
mình đảnh lễ trước Trưởng lão ngay sau khi đã lễ bái đức Thế Tôn. Ngài làm như
thế, ngoài cái nghĩa kính trọng còn nghĩ rằng: "Vị Ðại Ðức này là Thầy đầu
tiên của ta. Nhờ Ngài mà ta tìm thấy và hiểu được tuyệt pháp Ba la mật của Phật.”
Và khi đức Trưởng lão Assàji ngụ trong một nơi nào khác. Ðại Ðức Sàrìputta
thường hướng về nơi Trưởng lão đang ở để tỏ lòng tôn thờ bằng cách chắp tay
nghiêng mình lễ bái khắp các phương.
Những
điều này đã dẫn đến một sự hiểu lầm. Mỗi khi trông thấy như thế, chư vị Tỳ kheo
thường bảo với nhau rằng: "Ðã là đệ tử Phật mà Ngài Sàrìputta còn lễ bái
những phương trời. Ngay cả bây giờ mà ông còn chưa bỏ được những tư kiến tôn
sùng những trời Phạm Thiên ư?.”
Nghe
được những lời chỉ trách này, đức Thế Tôn bèn dạy rằng:
Này
chư Tỳ kheo. Không phải như thế đâu. Sàrìputta không phải lễ bái các phương
trời đâu. Ông ta chỉ lễ bái đến ai mà nhờ đó ông ta tìm thấy Pháp bảo của Như
Lai, vì ông ta xem kẻ ấy là Thầy của mình và Sàrìputta là người rất biết ơn
Thầy Tổ.
Sau
đó đức Thế Tôn liền thuyết cho chư Tăng đang họp nhau bàn tán nghe về kinh Nàva
(Nà vasutta) Phật dạy:
Ðược
về trời phải kính trọng người chỉ rành Thiên đạo. Vậy người đời sao không lễ
bái ông Thầy đem Pháp bảo đến cho mình?
Một
thí dụ khác nói về sự biết ơn của Ðại Ðức Sàrìputta đuợc ghi trong câu chuyện
Ràdha Thera (Ðại Ðức Ràdha). Chú giải về câu kệ thứ 76 trong Pháp Cú
(Dhammapàda) thuật rằng:
Tại
một Tinh xá trong thành Sàvatthì (Xá Vệ), có một người Bà la môn nghèo. Ông ta
chăm lo những công việc lặt vặt như làm cỏ, quét dọn v.v... Và chư Tăng đã bố
thí vật thực cho ông để sống. Tuy nhiên họ không muốn cho ông xuất gia.
Ngày
kia, đức Thế Tôn khi quan sát căn trí của người đời, đã thấy rằng ông Bà la môn
ấy có duyên đắc A la hán. Ngài bèn dọ hỏi các vị Tỳ kheo đang tụ họp bàn về ông
ta và hỏi họ xem có ai còn nhớ là đã nhận sự giúp đỡ nào của ông Bà la môn
nghèo kia không. Ðại Ðức Sàrìputta nhận rằng Ngài có nhớ một lần khi Ngài đang
khất thực trong thành Ràjagaha (Vương Xá) ông Bà la môn nghèo cực này đã cho
Ngài một vá cơm đầy mà ông vừa kiếm được để sống. Ðức Bổn Sư bèn bảo Ðại Ðức
Sàrìputta làm lễ xuất gia cho ông, và từ đó ông được gọi tên là Ràdha.
Sau
ấy Ðại Ðức bắt đầu hướng dẫn và ông Ràdha luôn luôn vui vẻ ghi nhận mọi điều
dạy dỗ dù khó nhọc đến đâu cũng không chút buồn giận.
Cứ
thế sau một thời gian thực hành theo lời giáo huấn của Thầy, ông Ràdha đã trở
nên thanh tịnh, rồi chẳng bao lâu nữa ông đã đắc quả A la hán.
Lần
này chư Tỳ kheo trở lại bàn tán về hạnh kiểm và năng lực chỉ đạo của Ðại Ðức Sàrìputta.
Họ bảo rằng:
Khi
muốn nhận học trò hay khuyên học trò làm như thế nào thì mình cũng phải làm
được như thế ấy.
Ðể
đánh tan dư luận về vấn đề này, đức Phật nói:
Không
phải như thế đâu, này chư Tỳ kheo. Sở dĩ ông Sàrìputta đem những pháp khó hành dạy
học trò như vậy là vì trước đây Sàrìputta đã thọ ơn do một hành động cao thượng
của người kia đã làm đến ông ta.
Và để
bổ túc vào câu chuyện ấy, đức Bổn Sư đã kể lại một sự tích trong Alìnacitta
Jàtaka (Túc Sanh truyện Alìnacitta). Ðó là câu chuyện của một con voi biết ơn.
(Xin
xem Jàtaka, truyện số 156).
Cuộc Ðời Đức Xá Lợi Phất Ph. II" />
PHẦN THỨ HAI: TRÍ DUYÊN VIÊN MÃN
TÌNH BẰNG HỮU
Nếu
Ðại Ðức Sàrìputta nổi tiếng về đức tính biết ơn sâu dày, thì tình bằng hữu của
Ngài đậm đà cũng không kém. Với Ðại Ðức Mahà Moggallàna, một người bạn cũng là
một đồng chí trong thuở thiếu thời của Ngài. Ngài luôn luôn giữ chặt tình bằng
hữu. Và những bằng chứng khác nữa là sau khi xuất gia, họ đã tìm đến nhau để
đàm luận về Pháp bảo rất nhiều. Nhờ thế mà có lần khi Ðại Ðức Sàrìputta còn
đang tiến triển trên con đường đạt đến đạo quả, sự luận pháp đã giúp cho Ngài
nhiều tia sáng hữu dụng đặc biệt. Ðiều đó đã được ghi lại trong kinh Anguttara
Nikàya Catukka Nipàta số 167.
Ðoạn
ấy thuật rằng: Một lần nọ, Ðại Ðức Mahà Moggallàna đến gặp đạo huynh của Ngài
là Sàrìputta và nói: "Này sư huynh Sàrìputta. Có bốn con đường tiến hóa
là:
Tiến
hóa khó khăn mà chậm chạp thì trực tiếp hiểu biết.
Tiến
hóa khó khăn mà nhanh chóng cũng được trực tiếp hiểu biết.
Tiến
hóa dễ dàng mà chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp.
Tiến
hóa dễ dàng mà nhanh chóng thì cũng được hiểu biết trực tiếp.
Thế
thì cái nào trong bốn cách tiến hóa này đã cho tâm trí của đạo huynh thoát khỏi
những điều xấu xa không còn dư sót?"
Này
đệ Mahà Moggallàna. Chỉ có cách thứ tư là "Tiến hóa dễ dàng nhanh chóng và
hiểu biết trực tiếp.”
Cắt
nghĩa như đoạn trên chính là dập tắt các nhơ bẩn trong tâm rồi, chuẩn bị cho sự
chấp nhận hay sáng suốt, đó là một việc làm không khó khăn lắm (Ðây là theo căn
duyên của những ai có Trí tuệ phi thường như Ðại Ðức Sàrìputta. Theo kinh điển
Phật giáo thì Ðại Ðức Sàrìputta có Trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử Phật.) nên
được gọi là Dễ (Sukha Patipadà), ngược lại tức là Khó hay Khổ sở (Dukkha
Patipadà). Nếu sau khi dập tắt hết các nhơ bẩn nơi nội tâm rồi, con đường hành
đạo để tiến tới giác ngộ dù khó khăn đến đâu với Sa môn loại này cũng trở thành
dễ dàng và nhanh chóng. Do đó họ vẫn có thể chứng đạt một cách thiết thực và
vững chắc.
Ở đây
sự hiểu biết trực tiếp (hay còn gọi là trạng thái nối liền với đạo quả) được
gọi là nhanh chóng (Khippabhinnà) còn ngược lại là chậm chạp (Dandàbhinnà).
Trong
kỳ luận đạo này, những câu nói của Ðại Ðức Sàrìputta ám chỉ đến sự đạt được quả
vị A la hán của Ngài. Tuy nhiên khi nói đến ba đạo Thánh đầu tiên, vấn đề cắt
nghĩa còn tùy theo các chú giải trong kinh điển. Nhất là để luận về câu
"Tiến hóa dễ dàng, chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp.”
Nhờ
những cách đàm luận như thế, đôi bạn Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã hiểu biết
nhau và trao đổi cho nhau những kinh nghĩa, những nhận định về Pháp bảo. Họ
cũng thường lui tới hội họp để tham dự những vấn đề bàn cãi giữa Tăng chúng.
Có
một dịp khác, nhằm khi họ hợp tác với nhau trong việc thức tỉnh những vị Tỳ
kheo đã lầm lạc nghe theo lời xúi dại của ông Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða). Thái độ
rất ý nghĩa của Ðại Ðức Sàrìputta là ngẫu nhiên khen ngợi một cách nhân từ
những thật quả của ông Devadatta đã đạt được, khiến ông quá tự đắc với những
thành công ấy mà lâm vào tình trạng chia rẽ Tăng chúng, gây một biến cố làm suy
đồi Phật giáo ngay khi đức Thế Tôn còn tại tiền. Kết quả những Tỳ kheo lầm lạc
đã được tỉnh ngộ.
Căn
cứ theo Cìlavagga, Sangha Bhedaka Khandhaka, Sanghabheda Kathà thì có một đoạn
thuật lại rằng:
"Khi
ấy đức Phật bảo Ðại Ðức Sàrìputta vào công bố trong thành Ràjagaha là tất cả
những hành vi và ngôn ngữ của ông Devadatta sẽ không còn liên hệ vì không được
đức Phật, đức Pháp và đức Tăng nhìn nhận nữa..."
Ðại
Ðức Sàrìputta nói:
Trước
đây đệ tử đã từng tán dương vài khả năng tu tập của ông Devadatta bây giờ đệ tử
tuyên bố ngược lại sợ rằng sẽ gây hoang mang trong dân chúng chăng?
Ðức
Phật bèn dạy:
"Này
Sàrìputta. Khi ông ca ngợi khả năng của ông Devadatta, ông có nói một cách thực
thà không?.”
Vâng.
Bạch đức Thế Tôn.
Thế
thì bây giờ, này Sàrìputta. Ông cũng chỉ nói một sự thực về Devadatta (Ðề Bà
Ðạt Ða) mà thôi.
Do
đó, sau khi được Tăng chúng công cử Ðại Ðức Sàrìputta cùng vời một số Tỳ kheo
đã vào thành Ràjagaha (Vương Xá) truyền rao như lời Phật dạy.
Ông
Devadatta khi đó đã công khai chia rẽ Tăng chúng bằng cách tuyên bố là ông có
thể hướng dẫn mọi hoạt động của chư Tăng một cách riêng rẽ. Ông bèn dắt năm
trăm vị Tỳ kheo trẻ tuổi lên núi Linh Thứu (Ðỉnh núi có nhiều giống kênh kênh
chuyên ăn xác người chết ở) lập đoàn thể riêng.
Ðể
gọi họ trở về, đức Phật đã sai hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đến đó.
Trong khi ông Devadatta đang an nghỉ thì hai vị Ðại đệ tử Phật này liền giảng
giải cho các vị Tỳ kheo lầm lạc ấy nghe về Pháp bảo khiến họ đắc quả Nhập Lưu
(Tu Ðà Hườn) và đồng kéo nhau về với đức Bổn Sư.
Có
một lần khác, khi Ðại Ðức Sàrìputta và Ðại Ðức Mahà Moggallàna đang cùng hợp
tác hướng dẫn Tăng lữ thì khi đó có một số Tỳ kheo do Ðại Ðức Assàji làm Thầy
(Không phải Trưởng lão Assàji đã nói trên) và Ðại Ðức Punabbasu đang ngụ tại
Kìtagiri bỗng làm những điều đáng chê trách, mặc dù đã được các hàng huynh đệ
khả kính khuyên nhủ nhiều lần, những vị Tỳ kheo này vẫn không sửa đổi tư cách.
Do đó hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna lại được phái đi để phân xử. Hai
vị tôn túc này đã phải dùng đức kiên nhẫn vô biên mới giải quyết được vấn đề.
Kết quả những vị Tỳ kheo phạm lỗi vào chịu nghiêm phạt đúng theo giới luật.
Nhất là họ phải sám hối với nhau về tội công kích cá nhân lẫn công kích Tăng
Già. (Theo Cùlavagga Kammakkhadhaka Pabbàjaniya Kamma Pàràjika Pàli
Sanghàdisesa Kanda Kuladùsaka Sikkhàpada).
Thế
nhưng chẳng có gì làm chia rẽ tình bằng hữu của Ðại Ðức Sàrìputta được. Và căn
cứ theo chú giải của bộ kinh Mahàgosinga Sutta thì cũng có một sợi dây cảm mến
sâu đậm giữa Ngài và Ðại Ðức Ànanda, người luôn luôn hầu cận đức Phật. Sở dĩ
như thế là vì Ðại Ðức Sàrìputta nghĩ rằng "Phận sự chăm nom Bổn Sư là việc
lẽ ra chính mình phải lo mỗi ngày. Còn sự cảm mến của Ðại Ðức Ànanda đối với
Ðại Ðức Sàrìputta là bởi Ðại Ðức được đức Phật tuyên bố Ngài là một đệ tử ưu
tú. Khi Ðại Ðức Ànanda (A Nan) làm lễ xuất gia bậc thấp (Sa di) cho một người
học trò trẻ. Ngài đã dẫn ông ấy đến Ðại Ðức Sàrìputta để thọ giới bậc cao (Tỳ
kheo). Ðại Ðức Sàrìputta đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu của Ðại Ðức Ànanda...
Cứ như thế cả hai đã có tới năm trăm học trò chung.
Bất
cứ khi nào Ðại Ðức Ànanda được y phục tốt hay những vật dụng tốt khác, Ngài
thường đem biếu cho Ðại Ðức Sàrìputta, và ngược lại khi Ðại Ðức Sàrìputta có
bất cứ những đồ dâng hiến đặc biệt nào phát sinh đến Ngài, Ngài cũng đem biếu
lại Ðại Ðức Ànanda. Một lần nọ, Ðại Ðức Ànanda được một bộ y rất quí do một
người Bà la môn dâng cúng. Sau khi được đức Phật cho phép Ngài đã giữ bộ y đó
đến mười ngày, cho Ðại Ðức Sàrìputta trở về vì Ngài đang đi vắng. Trong Tiểu
chú giải còn nói rằng:
"Các
học giả Phật giáo sau này biết đâu sẽ chẳng bình phẩm: Ðại Ðức Ànanda vì chưa
đắc đạo quả A la hán nên cảm tình cá nhân vẫn còn nhưng Ðại Ðức Sàrìputta là
một vị A la hán tại sao cũng có những hành động tương tự?.”
Và
Tiểu chú giải đã phân tích rõ:
"Sự
kính mến của Ðại Ðức Sàrìputta nào phải giống như một tình cảm ràng buộc của
người đời mà là một lòng thương do đức hạnh của Ðại Ðức Ànanda. Trong Phật giáo
gọi là Ðức cảm (Guna bhatti).”
Có
một lần đức Phật dạy Ð?i Ðức Ànanda: "Này Ànanda! Trong hàng tứ chúng có
rất nhiều người cảm mến Ðại Ðức Sàrìputta. Còn ông, ông có bằng lòng vị Sa môn
ấy không?.”
Ðại
Ðức Ànanda cung kính trả lời:
"Bạch
đức Thế Tôn! Dường như tất cả mọi người đều bằng lòng Ðại Ðức Sàrìputta, chỉ
trừ những kẻ còn ấu trĩ, hư hỏng, ngu muội hoặc ở trong một tinh thần bại hoại.
Bạch đức Thế Tôn! Ðại Ðức Sàrìputta là một vị toàn học, có một Trí tuệ vô biên,
bạch đức Thế Tôn! Trí tuệ ấy còn quảng bác, trong sáng, nhanh nhẹn, sắc bén và
tiềm ẩn chẳng khác nào ánh sáng phản chiếu ra từ một tảng pha lê. Ðại Ðức
Sàrìputta là một người ít đòi hỏi, tri túc, vắng lặng, không thích đông đảo và
giàu nghị lực. Ngài còn có tài biện luận, có nghệ thuật nghe để thanh lọc và
thu thập. Thật là một bậc luôn luôn chỉ lo tự kiểm soát để loại trừ những gì là
tội lỗi (căn cứ theo kinh Devaputta. S. Susimasutta).
Trong
kinh Thera Gàthà (N. V 1034) chúng ta thấy Ðại Ðức Ànanda diễn tả sự cảm mến
của Ngài khi Ðại đức Sàrìputta lên đường về quê để tịch diệt. Ngài kêu lên:
Khi
người bạn cao thượng Sàrìputta đã ra đi cuộc đời này đối với tôi như chìm vào
đêm tối.
Ngài
cứ nhắc đi nhắc lại như thế phía sau: Ðoàn người tiễn biệt mà chân không buồn
bước, đến nỗi họ và ngay cả Ðại Ðức Sàrìputta đã bỏ Ngài một khoảng rất xa. Sự
mến tiếc đã làm cho những người xung quanh hầu như chỉ biết có Ngài. Nét ưu
buồn của Ðại Ðức Ànanda khi Ðại Ðức Sàrìputta lên đường nhập diệt cũng được
diễn tả rất cảm động trong kinh Cunda Sutta.
Ðại
Ðức Sàrìputta là một người bạn thật, có ngôn ngữ rất trong sáng và đầy đủ. Ngài
thông hiểu nhiều phương pháp để khai triển những cái đẹp, những cái cao thượng
ở những người xung quanh. Và trong khi làm như thế Ngài đã không chần chờ, đôi
khi còn tích cực một cách thẳng thắn xây dựng bất cứ ai có dịp thân cận với
mình. Chính đức Bổn Sư cũng nói: "Chỉ có những người như vậy mới dám vạch
rõ những lỗi lầm của bạn.”
Nhờ
vậy mà Ngài Sàrìputta đã từng giúp Ðại Ðức Anuruddha (A Nậu Lâu Ðà) bẻ gãy hết
những chướng ngại sau cùng để tiến tới phẩm vị A la hán. Câu chuyện này được
ghi lại trong kinh Tikanipàta số 128 thuộc bộ Anguttara Nikàya.
Kinh
ấy thuật như sau:
"Có
một lần nọ, Ðại Ðức Anuruddha đến gặp Ðại Ðức Sàrìputta. Sau khi chào hỏi và an
tọa hợp lễ rồi, Ngài bèn hỏi Ðại Ðức Sàrìputta:
Này
đạo huynh Sàrìputta. Với đôi mắt tinh tường nhờ thanh tịnh, với một sự nhận xét
không còn phàm tình, tôi có thể nhìn thấy giòng đời muôn mặt. Sự vững chắc và
nghị lực của tôi thật là bất tuyệt. Tôi lúc nào cũng ghi nhớ và không bị nhầm
lẫn. Thể xác yên tịnh và không bị xáo trộn. Tâm trí của tôi được tập trung vào
một điểm (đề mục). Thế mà thần thức tôi dường như không được thoát khỏi những
nguyên nhân bại hoại, nhất là không được tự do lạc trụ, ngược lại còn bị vướng
mắc.
Ðại
Ðức Sàrìputta trả lời:
"Này
Ngài Anuruddha. Chính vì Ngài đã nghĩ như vậy về đôi mắt tinh tường, về sự nhận
xét thoát tục, về trình độ vững chắc, về trạng thái không nhầm lẫn của mình
v.v... mà Ngài tự động dính mắc. Ðó là pháp ngã mạn còn ẩn phá trong Ngài. Rồi
Ngài càng biết rằng mình đang có những khả năng ấy mà vẫn không được tự tại là
Ngài càng thắc mắc, và còn thắc mắc là không có tiến hóa. Sự tự phụ, một hình
tướng của ngã mạn (Màna) và hoạt ý thắc mắc (Uddhacca) là hai trong ba chiếc
xiềng (Samyojana) hằng đeo dính theo hành giả cho đến phẩm A la hán mới bị bẻ
gãy.
Này
Ngài Anuruddha. Thực ra, đó là một điều tốt đẹp nếu Ngài từ bỏ những tư tưởng
tự phụ này, ấy chính là Ngài đang vững tiến trên con đường giải thoát.
Sau
đó Ðại Ðức Anuruddha đã xa lìa ba trạng thái chướng ngại ấy, chẳng màng nghĩ
đến chúng nữa và Ngài đã thấy được yếu tố bất tử. Từ ấy, Ðại Ðức Anuruddha tìm
sống riêng rẽ tách rời khỏi mọi sinh hoạt bận rộn, chăm chú hăng hái với một tư
tưởng quyết định: "Trước khi đạt được đời sống thực sự này, Ngài phải hiểu
và kinh nghiệm được nó. Ðối với Ngài mục tiêu cao nhất là kiếp sống cao thượng
đó.” Là thể hiện đầy đủ ý nghĩa: "Những đứa con trọn đời đi khỏi gia đình
để góp mặt vào một đại gia đình.” Ngài lại còn biết rằng: "Còn lười biếng
là còn tái sinh. Bất tử là phải vĩnh cửu. Giải thoát là không còn dính mắc vào
bất cứ cái gì nằm trong vòng sinh diệt này.” Vì thế Ðại Ðức Anuruddha đã trở
thành một trong những vị Thánh A la hán.
Ðại
Ðức Sàrìputta đã gây quảng kiến cho đồng đạo và đã được khám phá ra nhiều thiện
pháp mới lạ: Mỗi người có một bẩm tính trong khả năng tiến hóa. Những bẩm tính
ấy có khi giống nhau, có khi khác nhau, có khi biến thành thiện pháp, có khi
biến thành ác pháp. Theo kinh Mahà Gosinga Sutta thuộc Majjhima Nikàya số 32
thì một buổi chiều kia, khi các Trưởng lão Mahà Moggallàna, Mahà Kassapa, Ngài
Anuruddha, Ngài Revata và Ngài Ànanda đồng đến Ðại Ðức Sàrìputta để nghe pháp.
Ðại Ðức Sàrìputta đã tiếp họ và nói:
Thật
hân hạnh cho rừng cây Sàlagosinga này. Ðêm nay có trăng. Tất cả những cây Sàla
trổ đầy hoa và tỏa hương thơm như mùi hương từ cung trời bay xuống, thoang
thoảng đâu đây. Này đạo huynh Ànanda! Theo Ngài thì vị nào sẽ làm cho rừng Sàla
Gosinga này rực rỡ hơn lên?
Cùng
câu hỏi đó, Ngài cũng đem hỏi những vị kia, và mỗi vị đã trả lời khác nhau tùy
theo cá tính của họ. Sau cùng Ðại Ðức Sàrìputta nói lên câu trả lời của riêng
Ngài như sau:
Chỉ
có vị Tỳ kheo nào đã kiểm soát được tư tưởng mình, không còn lệ thuộc dưới sự
sai khiến của phóng tâm nữa. Bất cứ ý nghĩ nào có tính cách lâu bền và đạt được
đạo quả mà Ngài hằng ao ước để nghiền ngẫm về buổi sáng, Ngài có thể suy gẫm
đúng trong khoảng thời gian ấy. Bất cứ kiến thức nào có tính chất lâu bền hay
đạt được quả vị mà Ngài hằng mong muốn để nuôi dưỡng chơn tâm vào buổi trưa
Ngài cũng có thể gìn giữ được vào lúc đó. Và bất cứ nhận thức nào bền vững hữu
đạt mà Ngài ưa thích để nhiếp giữ đề mục vào buổi tối, Ngài cũng có thể làm
được trong thời gian đó.
Vì
thế như một chiếc tủ đựng quần áo, đựng đồ trang sức của một ông vua hay một
quan đại thần, dù có chứa đầy những loại phục sức nhiều màu sắc đi nữa, khi
được sử dụng nhà vua hay một quan công thần sống có thứ tự cũng ăn mặc hợp
thời, hợp cách theo từng mỗi khung cảnh, mỗi thời gian của nó. Những hạng vua
chúa hay vương thần hằng giữ đúng phong ngoại của mình như thế thường được mọi
người chiêm ngưỡng và có mãi vẻ uy nghi.
Với
một Sa môn, khi đã kiểm soát được tâm tính rồi, không còn bị lệ thuộc dưới sự
thống trị của ái dục nữa, thì mọi hành vi, cử chỉ cũng điều độ như thế. Nghĩa
là tâm nào phải bền vững, tâm nào tự phát sinh mọi biến chuyển được nhiếp nhận
một cách thuần thục, thoải mái, không dư sót, đúng thời điểm chắc chắn.
Này
đạo huynh Moggallàna. Một Sa môn như thế thì chỉ có Ngài, vị có thể ban cho khu
rừng Sàla Gosinga này sự trong sáng đó.
Sau
đó các Ngài cùng đến đức Phật bạch lại mọi việc. Và đức Thế Tôn đã tán dương
đồng ý hết thảy những lời đàm luận của họ.
Ngài
còn tiếp:
Các
ông có thể nhận thấy trong lời nói của ông Sàrìputta: Với tất cả sức thông minh
và địa vị của ông trong hàng Tăng lữ. Ông đã dẹp bỏ được những khuôn mẫu độc
tôn của kẻ thường cố gắng đặt kiến thức của mình lên trên những kẻ khác. Làm
thế nào mà ông đã hiểu một cách dễ dàng phương pháp tiêm nhiễm những ý thức
riêng của ông vào những bậc đồng đạo trong một nghệ thuật tự nhiên và huyền dịu
đem đến cho họ một sự thấm nhuần lồng trong một khung cảnh vui tươi như vậy.
Ðây
quả thực là bản thức của ông đã phản ảnh ra, và đã lôi cuốn những người đồng
đạo với ông hưởng ứng để đối đáp một cách tương tự.
Ngoài
các vị Ðại Ðức vừa kể trên ra, Ðại Ðức Sàrìputta còn luận đạo với những vị Tôn
giả khác nữa. Chẳng hạn như các Ngài Kotthita, Upavàna, Samiddhi, Savittha,
Bhùmija và một số vị nữa.
Riêng
đức Phật, theo kinh điển chúng ta thấy Ngài rất thường đích thân nói chuyện với
Ðại Ðức Sàrìputta. Và ngược lại có khá nhiều bài pháp mà đức Bổn Sư thuyết cho
những đệ tử thông luật của Ngài nghe, đã được Ðại Ðức Sàrìputta dùng làm đề tài
để học hỏi...
Có
một lần, Ðại Ðức Sàrìputta đã lập lại những lời dạy mà đức Phật thuyết cho Ngài
Ànanda nghe vào một dịp nọ: "Những đối xử làm cho đời sống trong sạch
(Brahmacariyà) gọi là tình bằng hữu, tình đồng đạo và tình đoàn thể cao
đẹp" (theo Kinh Magga SAMYUTTA Khandha No. 2).
Không
có gì hoàn hảo hơn là những thí dụ cắt nghĩa về giáo lý mà chính một Ðại đệ tử
của một bậc Tôn Sư đã thể hiện được.
MỘT KẺ ÐỠ ÐẦU
TĂNG LỮ
Sự
nổi bật của Ðại Ðức Sàrìputta trong hàng môn đồ của đức Phật là đức tính chăm
lo giúp đỡ những vị khác. Chúng ta tìm thấy thuật sự này trong kinh Devadaha
Sutta:
"Những
vị khách Tăng khi sắp trở về chốn cũ của họ, đến từ giã đức Phật, Ngài thường khuyên
các Tỳ kheo ấy đến chia tay với Ðại Ðức Sàrìputta. Phật bảo:
Này
các đệ tử! Sa môn Sàrìputta thật không những là một người thông thái hằng giúp
đỡ huynh đệ trên phương diện tinh thần, mà ông còn có khả năng cung ứng những
nhu cầu vật chất cho đồng đạo nữa.” (Kinh gọi hai sự giúp đỡ đó là
Àmisànuggaha: Vật dụng và Dhammà nuggaha: Pháp dụng).
Chú
giải còn nói: Vị Trưởng lão này không đi khất thực trong lúc sáng sớm như những
vị Tỳ kheo khác. Thay vì thế, khi các vị đã đi rồi, Ngài bèn thả bước xung quanh
Tinh xá. Và bất cứ ở đâu nếu Ngài tìm thấy đồ đạc không thu xếp, chỗ ngụ không
sạch sẽ, Ngài liền dọn dẹp quét hốt mọi rác rưới, và sửa soạn ngay cả giường
chiếu, bàn ghế, chén bát, bình nước, thứ tự và sẵn sàng để cho những vị kia đi
về sẽ dùng. Ngài làm như thế, ngoài đức tính chăm sóc chư Tăng, còn nghĩ rằng:
"Những đạo sĩ khác, không phải người trong Phật giáo khi viếng thăm Tinh
xá, có thể thấy được sự vô trật tự rồi chỉ trích chư Tỳ kheo hoặc coi rẻ Tăng
chúng.”
Sau
đó Ngài thường đi đến bịnh xá và an ủi những bịnh nhân bằng cách tìm hiểu xem
họ cần những gì. Ðể đáp ứng các nhu cầu của họ, Ngài đã dắt các vị Sa di cùng
đi với Ngài để tìm thuốc men dưới hình thức đi khất thực như thường lệ. Hay
Ngài dẫn họ đến những nơi thích hợp (tức thí chủ đã yêu cầu Ngài trước) để kêu
gọi thuốc men. Khi đã được thuốc, Ngài bèn giao lại cho các vị Sa di và bảo:
Này
các ông! Chăm sóc cho những người bịnh là một điều mà đức Bổn Sư hằng khen
ngợi. Bây giờ các ông hãy trở về và phải luôn luôn làm việc hết lòng.
Rồi
Ngài tiếp tục khất thực hoặc đến dùng bữa tại một nhà thí chủ. Ðây là một thói
quen của Ngài trong khi ở chung với cộng đồng Tăng chúng.
Nhưng
khi Ngài có một cuộc hành trình cùng với đức Thế Tôn, Ngài thường không đi
chung với những vị dẫn đầu, hay không tỏ ra kiểu cách cho người ta biết Ngài là
một Ðại đệ tử. Trái lại Ngài chỉ giao y bát cho các vị Sa di mang hộ, rồi đích
thân trước tiên chăm sóc những Tăng sĩ già yếu, thứ đến là những vị không được
khỏe mạnh và những vị mới xuất gia hay những đệ tử mới bước chân vào đường đạo.
Trong nhiều trường hợp Ngài phải ở cạnh họ trong nhiều giờ, tự tay thoa bóp vào
những chỗ đau đớn trên thân thể bịnh nhân và phân lượng thuốc uống cho từng
người một. Chỉ khi nào Ngài thấy họ thuyên giảm Ngài mới từ giã đi săn sóc chỗ
khác.
Có
một lần, khi cũng vì những lý do như vậy mà Ðại Ðức Sàrìputta đã đến nơi rất
trễ, lúc đó những vị kia đã ngơi nghỉ. Ngài không tìm được một chỗ vừa phải để
nghỉ lưng qua một đêm. Ngài phải ngồi dưới một mái lều làm bằng những lá y. đức
Bổn Sư rõ như vậy, nên ngày hôm sau Ngài triệu tập Tăng Chúng và thuật cho họ
nghe câu chuyện đối xử của một con voi, một con lừa và một con chim đa đa. Phật
kể: "Ba con thú này cảm thấy muốn được an ninh phải sống nương dựa lẫn
nhau. Chúng quyết định tôn một con lên làm anh cả để tạo trật tự rồi từ đó sống
chung hòa thuận: nhỏ kính lớn, lớn thương nhỏ" (Truyện số 67, ghi trong
Tittira Jàtaka).
Sau
đó đức Phật chế ra điều luật rằng: "Chỗ nghỉ ngơi phải được sắp đặt theo
thứ bậc.” (Theo Vinaya Cùlavagga, Senàsanà Khandhaka).
Còn
về việc tiếp độ các hàng Tăng lữ trên phương diện tinh thần, Ðại Ðức Sàrìputta
cũng tích cực không kém. Căn cứ Kinh Thera Gathà và chú giải thì khi Ngài đến
thăm ông Samittigutta, người đang bịnh cùi hoành hành trong một bịnh xá, Ngài
đã thân mật giảng cho ông Samittigutta nghe rằng:
Này
bạn! Ðã lâu lắm rồi, pháp tập hợp (Khandha) hằng tiếp diễn. Và cảm nghĩ chỉ là
sự đau khổ. Chỉ khi nào Ngũ uẩn không còn hoạt động liên tục nữa thì sẽ dứt
khổ.
Khi
nghe xong những lời này, sự quán tưởng về những cảm nghĩ đã trở thành một đề
mục cho bịnh nhân. Lúc Ðại Ðức Sàrìputta đi rồi, ông Samittigutta theo những
lời chỉ dạy của Ngài đã phát triển được nội thức và đạt tới Lục thông
(Chalabhinnà) của một bậc A la hán (theo Thera Gathà.).
Lần
khác khi ông Anàthapiịđika (Cấp Cô Ðộc) đang hấp hối nằm trên giường bịnh thì
Ðại Ðức Sàrìputta đã cùng với Ðại Ðức Ànanda tới thăm, Ngài đã thuyết vào tai
cho người sắp chết một phần pháp nói về sự ra đi không dính mắc, và ông bá hộ
Anàthapiịđika đã thức tỉnh do bài pháp thâm thúy này (trong Majjhima Nikàya, Số
143.).
Có
một bài pháp khác cũng do Ngài Sàrìputta thuyết cho ông Anàthapindika (Cấp Cô
Ðộc) nghe khi ông này ở trong giường bịnh đã được ghi lại trong kinh Sotàpatti
SAMYUTTA, đoạn III câu số 6 như sau:
"Những
động lực đưa đến sự tái sinh trong trạng thái thống khổ là ba gốc chướng ngại,
năm sợi dây thằng thúc, và mười điều bất thiện.”
Pháp
này được thấm nhuần khi ông Anàthapiịđika đang bước vào trong lãnh vực Thánh
Lưu nên sự đau đớn thể xác không còn lung lạc ông ta được nữa. Kết quả ông đã
thấy rõ bốn uẩn như không và bốn Quả, bốn Ðạo không còn dư sót.
Lại
một lần đức Trưởng lão Channa đang ngã bịnh, bị một nỗi đau đớn vô biên. Ðại
Ðức Sàrìputta đến thăm Ngài, cùng đi với Trưởng lão Mahà Cunda. Khi trông thấy
vị Sa môn bị bịnh hoạn dày vò, Ðại Ðức Sàrìputta lập tức tình nguyện đi tìm
thuốc men và vật thực thích hợp cho Ngài. Nhưng Trưởng lão Channa vội cho biết
Ngài quyết định chấm dứt cuộc đời. Nên sau khi họ đã đi rồi Ngài liền nhập
diệt.
Kế đó
đức Phật đã giảng giải về hành động của Trưởng lão Channa. Ngài xác nhận đó
không phải là một điều quyết định sai lầm vì Trưởng lão Channa đã đắc A la hán
trước khi dứt khoát an nghỉ.
Nghệ
thuật tiếp độ của Ðại Ðức có thể tìm thấy trong kinh Channovàda Sutta thuộc bộ
Majjhima Nikàya số 144. Ðoạn ấy nói rõ:
"Bất
cứ khi nào Ðại Ðức Sàrìputta làm bổn phận đạo sư đến những người sắp trút hơi
thở cuối cùng, Ngài cũng luôn luôn tỏ ra là một người kiên nhẫn phi thường.
Ngài cứ khuyên nhủ và khai ngộ dồn dập cả đến trăm ngàn lần, cho đến khi nào
bịnh nhân phát khởi thiện tâm Ngài mới an lòng chấm dứt.
Nghệ
thuật ấy cũng được Ðại Ðức Sàrìputta áp dụng để dạy dỗ học trò. Bất cứ người
nào mới bước chân vào đạo mà được Ðại Ðức Sàrìputta hướng dẫn, Ngài cũng đều
làm cho người ấy đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn), sau đó Ngài mới chịu thả lỏng
để đi dạy dỗ các vị khác.
Số
Tăng lữ dưới sự dạy dỗ của Ngài nhờ thu thập được giai đoạn căn bản vững chắc
ấy đã tiếp tục thực hành đến lúc đạt được quả vị A la hán nhiều vô số kể.”
Trong
kinh Sacca Vibhanga Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 141, đức Phật đã nói:
"Ðại
Ðức Sàrìputta như một người mẹ nuôi nấng các con, trong khi Ðại Ðức Mahà
Moggallàna như là một người vú hằng nâng niu các con. Ðại Ðức Sàrìputta hướng
dẫn cho đến quả Nhập Lưu còn Ðại Ðức Mahà Moggallàna thì nâng đỡ hành giả đến
mục tiêu cao nhất.”
Ðể bổ
túc về nghệ thuật dẫn đạo của Ðại Ðức Sàrìputta, Chú giải còn nói thêm:
"Ðiểm
đặc biệt của Ðại Ðức Sàrìputta là không phân biệt học trò mình hay học trò
người. Hễ ai chịu sự dạy dỗ của Ngài, Ngài luôn luôn hướng dẫn bằng tất cả sự
sốt sắng, luôn luôn giúp đỡ trên mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần nhất là
chọn cho họ đề mục Thiền Ðịnh cùng thường xuyên khai triển trí thông minh của
họ, cho đến khi nào họ thấu triệt được Thánh Lưu và tiến lên khỏi sự nguy hiểm
của dục trần thấp thỏi. Khi nào Ðại Ðức Sàrìputta tách rời học trò khi ấy Ngài
biết chắc rằng: "Giờ đây, với sức trưởng thành của họ, họ có thể tự tiến
hóa để nhường tay cho những vị cần hướng dẫn khác.”
Nhưng
Ðại Ðức Mahà Moggallàna thì khác. Ngài cũng huấn luyện học trò cùng phương pháp
như vậy, nhưng Ngài không thả lỏng họ, dù cho họ có vững chắc trong giai đoạn
đầu. Ðại Ðức Mahà Moggallàna có vững chắc trong giai đoạn đầu. Ðại đức Mahà
Moggallàna có một đức thận trọng vô song, Ngài quan niệm như một lần Phật đã
thuyết:
"Chỉ
một mầm móng vi tế của tội lỗi còn ngấm ngầm trong tâm, Như Lai cũng không khen
ngợi. Dù cho hành giả có được pháp Hữu tịnh trong một thời gian nào đó đi nữa
mà gốc rễ của tội lỗi vẫn còn thì pháp Hữu tịnh ấy có thể tan biến dễ dàng như
một cái búng ngón tay.”
Nhắc
đến nghệ thuật huấn đạo của Ðại Ðức Mahà Moggallàna khác với Ðại Ðức Sàrìputta
như vậy không có nghĩa là nói rằng phương pháp của Ngài Mahà Moggallàna tỏ ra
chắc chắn hơn phương pháp của Ðại Ðức Sàrìputta, mà chỉ có thể chứng minh tại
sao hai vị đã theo đức Phật cùng một lần, mà về sau học trò của Ðại Ðức
Sàrìputta lại nhiều hơn học trò của Ðại Ðức Mahà Moggallàna.
Mặt
khác, Chú giải ghi lại những lần Ðại Ðức Sàrìputta đã dắt dẫn nhiều huynh đệ
đạt đến đạo quả A la hán không phải là ít.
Chẳng
hạn như có một đoạn nói: "Vào lúc ấy có chư Tỳ kheo trong giai đoạn huấn
luyện tâm thức bậc cao (Sekhà) thường đến gần Ðại Ðức Sàrìputta để nhờ chọn đề
mục Thiền Ðịnh. Trong số đó có Sa môn Trưởng lão tên Lakuntika Bhaddiya đã đắc
được quả A la hán nhờ sự hỗ trợ của Ðại Ðức Sàrìputta" (Theo Kinh Udana
VII 1).
Với
những đóng góp như vậy, Ðại Ðức Sàrìputta đã có công trong việc phát triển Pháp
bảo rất nhiều. Ngài là một bậc lãnh đạo vĩ đại của Tăng Già, và là một tấm
gương sáng trong hàng Tứ chúng. Những bài học mà Ngài đã lưu lại cho ta sau này
không những chỉ bén nhọn và cho ta sau này không những chỉ bén nhọn và sáng tỏ,
thức tỉnh được tâm tánh của con người mà còn là một sự lợi ích thiết thực,
trong đó cái tên Sàrìputta giống như một bàn tay nâng niu, một bóng mát vĩ đại
cho những ai ngưỡng mộ muốn bước theo dấu chân của Ngài.
Lại
nữa, trong kinh còn ghi nhận những tiểu tiết về cách thưởng thức Pháp bảo của
Ðại Ðức Sàrìputta trước những Sa môn mà Ngài chưa có dịp thân cận. Chẳng hạn
như chuyện Ngài Punna Mantàniputta, một Cao Tăng mà Ðại Ðức Sàrìputta chỉ nghe
danh chứ chưa được làm quen. Khi hay tin Trưởng lão này muốn đến thăm, Ngài đã
vui vẻ tiếp đón và chăm chú thưởng thức một bài pháp của vị khách Tăng một cách
kính phục khi bài pháp chấm dứt, Ngài đã vô cùng khen ngợi (theo Trung A Hàm (
Majjhima Nikàya) số 24.).
Sự
làm chủ được thể xác cũng như đối với những nhu cầu tinh thần của chư Tỳ kheo
dưới sự đảm trách của Ngài. Ngài đã không kềm chế họ bằng những lời quở dạy
hiền từ, và làm cho họ trở nên quả cảm bởi sự khen ngợi về những cố gắng xứng
đáng, hướng dẫn họ trên con đường tiến hóa, cùng chỉ cho họ tất cả những gì mà
họ cần làm để xứng đáng là đệ tử của Phật. Những gì Ngài nói ra tự Ngài đã thực
hành được. Ðó là mãnh lực lôi kéo và làm biểu lộ những đức tánh tốt nhất của
các hàng học trò.
Ðại
Ðức Sàrìputta đã hòa hợp những phẩm tính của một ông Thầy hoàn toàn với đức
hạnh của một người bạn trọn vẹn. Ngài như một ánh đèn, vừa là một vật dụng hằng
ngày, cần thiết của Giáo hội Tăng Già vào thời đức Phật.
Vị đã
được trọn đủ những đức tánh của một kiếp sống đầy phẩm Thánh của chính mình nên
Ngài rất tinh tường trong khi nhận thấy giới đức nơi những vị khác. Ngài là
chuyên viên để phát triển nó trong những ai đang ngấm ngầm chứa đựng nó. Và
trong số những người ca ngợi khi giới đức của một vị nào bộc lộ ra ngoài như
một cánh hoa đến kỳ khai nở thì Ngài là người đầu tiên làm việc đó. Sự ca ngợi
của Ngài là một sức mạnh che chở cho đóa hoa tiếp tục nở rộ, chứ không phải gây
kinh động cho nó dừng lại ở đó. Ðức tính hoàn toàn riêng biệt này của Ngài
không phải vô tình hay giả tạo, mà là một sự hòa hợp súc tích bên trong, về sự
tán dương tinh thần với những phẩm tính tốt nhất và huyền dịu nhất của một
Thánh nhân.
SỰ ÐẠT TỚI MỤC ÐÍCH
Trong
Theragàthà có hai bài kệ số 995 và 996 là những câu mà nhờ đó Ðại Ðức Sàrìputta
khi nghe đã đắc quả A la hán.
Ngài
đã thuật lại rằng: "Có một lần nọ, đức Phật thuyết pháp cho một vị Tỳ kheo
khác nghe, bần đạo đã chú tâm theo dõi bài pháp ấy để tìm sự lợi ích thiết thực
cho mình. Kết quả thật vô cùng xứng đáng, vì nhờ nó bần đạo đã thoát khỏi những
dục tâm, bần đạo đã tẩy trừ được phiền não.”
Trong
hai bài kệ nối tiếp số 996 và 997 Ðại Ðức Sàrìputta đã nói lên rằng: "Ngài
không gặp một chút trở ngại nào trong việc phát triển năm sức mạnh phi thường
(Abhinnà).” Còn căn cứ theo kệ ngôn Iddhividha, trong kinh Patisamhbidà Magga
thì khi ấy Ngài đã đại tín thắng thức và nắm vững sự định tâm trong các bậc
Thiền. Sức thuần thục ấy gọi là Lực an trụ (Samàdhi Vipphàriddhi), nó có khả
năng hộ trì tâm lý khỏi những biến hiện tự nhiên và bất thần của Nội ma lẫn
Ngoại ma. Ðiều này được diễn tả do một mẫu chuyện chép trong kinh như sau:
"Một
lần nọ, khi Ðại Ðức Sàrìputta đang hành đạo với Trưởng lão Mahà Moggallàna tại
miền Kapotakandarà. Lúc ấy Ngài đang tham Thiền ngoài chỗ trống với cái đầu vừa
cạo. Khi đó có một hung thần xuất hiện và đánh lên đầu Ngài một cái như trời
giáng. Cú đánh thực là ác nghiệt. Nhưng ngay lúc bị đánh, đức Sàrìputta đã hoàn
toàn nhập định. Kết quả Ngài cũng chẳng hay biết chi cả.”
Câu
chuyện này rút từ kinh Udàna, cuốn số 15, đoạn 4. Kinh ấy còn tiếp tục câu
chuyện như sau:
Ðại
Ðức Mahà Moggallàna đã trông thấy việc bất ngờ đó và lại gần Trưởng lão
Sàrìputta hỏi xem Ngài có làm sao không. Ðại Ðức hỏi:
Này
đạo huynh! Ngài có an tịnh không? Và chẳng có việc gì làm rầy Ngài chứ?
Tôi
rất thoải mái, phỉ lạc, này pháp đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham Thiền nhiều tiến
triển lắm. Chỉ khi xả Thiền thì cái đầu của tôi làm trở ngại chút ít thôi.
Ðại
Ðức Mahà Moggallàna liền tán thán lên ngay nơi ấy:
Này
đạo huynh Sàrìputta! Thực là kỳ diệu. Thật là một trạng thái kỳ lạ. Này đạo
huynh Sàrìputta! Sức mạnh thể xác và năng lực của Ngài thực là vô địch. Vì vừa
đây đạo huynh Sàrìputta. Có một hung thần đã giáng cho Ngài một cái đánh trên
đầu, và là một cú đánh đầy sức mạnh. Với một cái đánh như thế, người ta có thể
hạ nổi một con voi cao bảy tám do tuần. Hoặc giả một người có thể dùng sức mạnh
đó thì xẻ đôi được một quả núi. Thế mà Ðại Ðức Sàrìputta chỉ nói: "Tôi cảm
thấy phỉ lạc lắm này đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham Thiền khá tiến hóa, chỉ có
cái đầu tôi làm trở ngại chút ít thôi.”
Sau
đó Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:
Ôi!
Thực là tuyệt diệu, này đệ Mahà Moggallàna! Thực là một kỳ lực, này đệ Mahà
Moggallàna! Sự bén nhạy thể chất và năng lực tinh thần của Ngài vĩ đại làm sao
đến nỗi Ngài có thể trông thấy một hung thần tức khắc. Về phần tôi, tôi đã
không trông thấy kịp như đôi mắt siêu tốc của Ngài.
Kinh
Anupada (Trong Majjhima Nikàya No III) còn chứa phần mô tả sự đạt được đạo quả
của Ðại Ðức Sàrìputta, do chính đức Thế Tôn thuyết. Trong đó đức Phật nói rằng:
"Ðại Ðức Sàrìputta ta đã thành công và thông hiểu chín bậc Thiền, nghĩa là
bốn thể chất Thiền và bốn siêu thể chất Thiền (Jhàna) đồng thời với sự Không
thức và Không nghĩ.”
Trong
kinh Sàrìputta Samyutta, phần Khandha Vagga, chính đức Trưởng lão đã xác nhận
sự thật như thế khi nói chuyện với Ðại Ðức Ànanda. Ngài phân tích:
"Xuyên
qua các bậc Thánh mà Ngài đã vững chắc tiến lên là nhờ những TUỆ DIỆT TƯ THỨC
như": Tôi chẳng bao giờ quan niệm là tôi đang tiến vào bậc Thiền này hay
vượt khỏi bậc Thiền kia, cho dù thực tế tôi đang tiến hành trong đó.”
Và
trong một dịp khác, Ngài đã diễn tả cho Ðại Ðức Ànanda nghe về sự đạt được an
trụ để phát triển nội trí như thế nào. Nhất là làm sao để thoát khỏi sự lôi
cuốn của Tứ đại gồm đất, nước, lửa và gió. Thí dụ như Ngài nói "Hãy niệm
đất như đất mà không cần biết đất đó nằm trong Tứ đại. Và tương tự như thế, đối
với ba đại kia cũng vậy.”
Theo
đó, đối với bốn bậc Thiền, Lạc Trụ Siêu Thế (hay còn gọi là Lạc Trụ Vô Sắc),
Ngài cũng không để cho Lực Tri Giác xuất hiện.
Ðiều
này mới nghe qua ta có cảm tưởng như lúc ấy Ngài đã hoàn toàn biến thành một
người Vô thức. Nhưng kỳ thật Ngài vẫn còn một thức. Ðó là Thức hướng về Niết
Bàn, thức tách rời mọi sự ràng buộc từ bất cứ pháp thể nào (Bhava Nirodha).
Thái
độ tách rời này đối với các bậc Thiền là những công lực sẵn sàng để duy trì an
tịnh trong trạng thái trống rỗng (Sunnata Vihàra), mà Ðại Ðức Sàrìputta hằng
nuôi dưỡng.
Chúng
ta đọc trong Kinh Pindapàta Pàrisuddhi, số 151 (thuộc bộ Majjhima Nikàya Trung
A Hàm) thấy rằng: Có một lần đức Phật đã khen ngợi về những nét tươi tỉnh của
Ðại Ðức Sàrìputta, và Ngài dạy Ðại Ðức hãy nói ra cho chư Tăng biết nhờ trạng
thái tư tưởng nào mà có được những nét tươi tỉnh này. Ðại Ðức Sàrìputta vâng
lời đáp:
Ðệ
tử thường tập tánh pháp bền chịu trong sự trống rỗng.”
Do đó
đức Phật đã tán thán: "Ðây chính là nơi cư trú của những hàng vĩ nhân.”
Tiếp
theo là Ðại Ðức Sàrìputta đã mô tả pháp trạng ấy bằng chi tiết. Kinh Udàna còn
ghi rõ "Chính đức Thế Tôn đã ba lần trông thấy Ðại Ðức Sàrìputta khi ngồi
Thiền phía ngoài Tinh xá đã ngâm những câu kệ (Udàna) để làm vững chắc cho tâm
con yên tĩnh.”
Chúng
ta hãy đọc lại và thử tưởng tượng theo kinh Devadaha, trong SAMYUTTA Khandhaka
No 2, một khung cảnh ngồi Thiền của Ðại Ðức Sàrìputta thật ngoạn mục như sau:
"Một
lần nọ, đức Thế Tôn ngụ trong nước Sakya, tại thành Devadaha, Ngài đã tìm thấy
Ðại Ðức Sàrìputta nhập sâu trong Thiền cảnh dưới một vòm cây Elagalà. Giống cây
này chỉ mọc ở chỗ nào luôn luôn có một dòng nước chảy qua. Người ta đã làm cái
vòm cây ấy bằng bốn cây trụ trên đó để bụi cây đan nhau tạo thành một mái nhà.
Bên dưới, mặt đất được trải cát bằng phẳng và ở chính giữa có lót những viên
gạch để ngồi. Thật là một chỗ mát mẻ, yên lặng với những luồng gió nhẹ, trong
sạch từ dưới nước thổi lên.
Và
đức Thế Tôn đã tán thán cái khung cảnh ấy.
Còn
nói về sự đạt được Tuệ Phân Biệt (Patisambhidanàna) của Ngài, Ðại Ðức Sàrìputta
đã diễn tả trong kinh Anguttara Nikàya số 172 như sau:
"Này
các đạo huynh. Sau khi bần Tăng xuất gia được nửa tháng, bần Tăng đã trực nhận
được ý nghĩa của Pháp Thân, trong sáng của ngôn ngữ, an tịnh của ý thức do Tuệ
Phân Biệt từ thể phần chi tiết. Những điều này bần Tăng đã nhiều lần đem trình
bày cho chư huynh đệ và giảng giải cho quí vị hiểu một cách tận tường về bản
chất của nó. Nếu vị nào bị phân vân hoặc không nắm vững trong khi bần Tăng đã
tận lực thì chỉ có đức Bổn Sư là người có khả năng làm sáng tỏ tất cả.”
Căn
cứ theo đó thì Ðại Ðức Sàrìputta là người rất am tường về mọi trạng thái chứng
đạt đạo quả. Ngay cả Trí tuệ là vấn đề phức tạp nhất mà Ðại Ðức Sàrìputta cũng
thông đạt, nên đức Phật đã nói:
Nếu
có một kẻ hằng nói về mình rằng họ đã vững chắc và hoàn toàn trong đức hạnh, an
trụ trong thanh tịnh, giải thoát trong cao thượng thì người ấy chính là
Sàrìputta, một Sa môn có thể nói được một cách trung thực.
Rồi
Phật còn xác nhận:
Nếu
có một kẻ hằng nói về mình rằng họ là đứa con thật sự của đức Thế Tôn thấu hiểu
được giáo lý của Ngài, thông suốt và thực hành được Pháp bảo, xứng đáng làm
người thừa tự Pháp bảo và không thừa hưởng những nguồn lợi ở đời thì người đó
chính là Sa môn Sàrìputta mới có thể nói đúng.
Này
chư Tỳ kheo! Ngoài Như Lai ra, Sàrìputta sẽ là người có thể lăn được bánh xe
tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn gần giống như Như Lai đã lăn. (theo
Majjhima Nikàya III, Anupada Sutta).
ÐẠI
ÐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG ÐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO
Những
bài pháp của Ðại Ðức Sàrìputta và những mô tả của đức Phật hay của các vị Tôn
túc khác về Ngài đã chứng tỏ Ðại Ðức Sàrìputta đóng một vai trò hàng đầu trong
việc chuyển lăn bánh xe pháp.
Chúng
ta thấy điều này đã được chứng minh bằng hai thời pháp cổ điển trong kinh
Sammàditthi No 9, thuộc bộ Majjhima Nikàya (Trung A Hàm) và một phần trong kinh
nói về "Sự so sánh những bước chân voi.”
Ðoạn
nói về "Sự so sánh những bước chân voi" này quả là một kiệt tác trị
tâm bịnh một cách rất khoa học. Nó bắt đầu bằng sự nhắc lại bốn Pháp Diệu Ðế.
Tiếp theo nó phân tích từng sự thực về mỗi hoạt động của Ngũ uẩn, của bản chất
con người, từ sự kết hợp thân thể tính đến sự kết hợp ý thức tính. Nó còn nói
rõ sự cấu tạo của Tứ Ðại mà mỗi đại trong đó cái nào được gọi là Nội thể hay
cái nào được gọi là Ngoại thể. Những bộ phận và những động tác thân thể nào
được ý thức chỉ huy và những cái nào bị ngoại cảnh chi phối. Nó còn nói rõ cái
mà người ta gọi là bản ngã vốn chỉ là nội tâm bám chặt vào ngoại cảnh. Khi đã
nhận thức như vậy thì sẽ thấy rõ xác thân tứ đại hẳn là một ngoại cảnh. Tuy cả
hai nội tâm và ngoại cảnh đều có bản chất vô thường, nhưng cái vô thường của
nội tâm ta có thể dùng Thiền định chỉ huy, còn cái vô thường của ngoại cảnh ta
chỉ biết có khổ.
Rồi
bài pháp lại tiếp:
"Vô
thường là một định luật, không phải là nguyên nhân của khổ, chỉ vì sự bám chặt
vào những sắc thái vô thường mới là mầm móng của muôn điều khổ não. Sự bấn loạn
khi ý thức không bắt kịp hay không biết rõ mọi biến đổi của sắc thân chính là
khởi điểm của một chuỗi huân tập và làm nẩy sinh ra cái mà ta gọi là bản ngã
(tức Ngũ uẩn) đau khổ.”
Khi
một Sa môn có được sự nhận thức như thế rồi, đồng thời với sự thanh tịnh sáng
suốt đã được phát triển trong tâm, Sa môn ấy khi đương đầu với những chướng
ngại như mất mát, chê trách hoặc thù hận, họ sẽ không khó chịu hay bấn loạn tư tưởng.
Trái lại, họ sẽ rất sáng suốt thấy rõ phiền não nổi lên ở nơi nào liền diệt
ngay tại nơi ấy. Chẳng hạn như phiền não nổi lên ở nhãn căn thì diệt ngay nhĩ
thức, phiền não nổi lên ở thiệt căn thì diệt ngay thiệt thức, phiền não nổi lên
ở thân căn thì diệt ngay thân thức, phiền não nổi lên ở ý căn thì diệt ngay ở ý
thức, phiền não nổi lên ở tâm sơ định thì diệt ngay ở sơ định thức, phiền não
nổi lên ở tâm cận định thì diệt ngay ở cận định thức v.v...
Cứ
như thế, Sa môn trong Phật giáo khi đã an tịnh và nhập lưu (kể từ đạo quả Tu Ðà
Hườn) thì họ chỉ tiến chứ không có thối. Dù trong khi tiến hóa, sắc thân tứ đại
của họ có bị đánh ngã, tâm trí họ cũng vẫn không bị tổn thương. Ðối với họ, sau
khi đã dẹp bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc, mọi câu chấp rồi tâm trí chỉ còn
một việc duy nhất là đề mục Thiền Ðịnh.
Những
hạng Sa môn này khi nghe được Pháp bảo của chư Phật thì trạng thái an tịnh nơi
họ liền trở nên tinh khiết, trong suốt, ý niệm vô lượng liền lập tức phát sinh.
Họ tưởng nhớ đến đức Phật, đức Pháp và đức Tăng cùng một lúc tỏa ra tâm đại xả
trước vạn pháp vui cũng như khổ.”
Còn
đối với những ai chưa đạt được quả Thánh, thời pháp tiếp:
"Khi
hành giả hướng tới đức Phật, đức Pháp và đức Tăng, sự bình thản của họ nếu
không được bền vững, họ cũng vẫn tiếp thụ kinh cảm để tinh tấn gầy dựng thanh
tịnh. Và sự tiếp thụ kinh cảm ấy chính là tia sáng hướng dẫn hành giả trở về
với đề mục cao thượng. Mặc khác, nếu sự an tịnh luôn luôn bền vững hành giả
chắc chắn sẽ tăng trưởng phỉ lạc. Và họ chỉ cần kéo dài tình trạng phỉ lạc này
để bước đến ngưỡng cửa Thánh nhân không còn xa mấy.”
Trên
đây là tất cả những Yếu pháp được coi như do Ðại Ðức Sàrìputta đã khám phá và
thuyết ra. Phần hậu luận dành cho phàm nhân được trình bày bằng cách so sánh
toàn bộ một con người với một ngôi nhà có năm cửa ván xung quanh và một cửa
kính chính giữa. Cửa ván thì khi đóng, che mắt được đạo tặc, song cửa kính thì
dù đóng hay mở, đạo tặc cũng nhìn thấy rõ bên trong. Cửa ván có thể bị những
ngoại vật ô uế làm hư mục, nhưng cửa kính chỉ bị các vật ấy làm mờ đục mà thôi.
Người chủ nhà khôn ngoan là người chỉ mở cửa ván bên ngoài cho bạn lành bước
vào và luôn luôn lau chùi cửa kính bên trong cho thật trong sáng để thấy rõ mọi
phía xung quanh hầu tìm bắt ngoại tặc lẻn vô ẩn núp đâu đấy mà đuổi ra, không
cho xâm nhập tận trung tâm.
Tương
tự như thế, một con người có năm giác quan (Ngũ căn) ví như năm cửa ván bên
ngoài, và ý căn ví như cửa kính bên trong. Bạn xấu ví như đạo tặc, ngoại vật ô
uế ví như ác pháp. Bạn lành ví như giới đức. Việc lau chùi cửa kính ví như
Thiền định. Sự trong sáng ví như thiện pháp. Và sau cùng, người chủ nhà ví như
con tâm.
Người
thiện trí thức là người không phải chỉ biết lo gìn giữ ngôi nhà cho được tốt
đẹp trong khi nó còn vững chắc, mà một cách thấy xa hơn, người ấy còn phải lo
kết nạp bạn lành chuẩn bị vật liệu để khi ngôi nhà cũ xiêu, sụp đổ, họ có thể
dựng lại một ngôi nhà mới khang trang hơn.
Tương
tự như thế, bậc hữu học là người luôn luôn cảnh giác Ngũ căn, ngăn ngừa Ngũ
trần gìn giữ giới đức và thanh lọc nội tâm cho được trong sạch. Cao thượng hơn
nữa là những hàng hữu học ấy tình nguyện xuất gia khép mình vào đời sống Sa môn
để thường xuyên thực hành Thiền định. Nếu giới luật là khuôn thước để huấn
luyện Ngũ căn, thì Thiền định là phương pháp để thuần thục ý thức.
Các
Sa môn khi đã vững chắc trong Thiền định rồi thì sự ham muốn, sự buồn rầu, sự
ràng buộc chỉ là những nhiễu nhương cố hữu của Ngũ uẩn. Loại trừ những phiền
não ấy bằng tâm vô lượng không cảm thấy vui sướng rằng mình đã tiêu diệt được
nó là đạt đến Thánh quả giải thoát.
Do
đó, nội dung của bài pháp nói trên đã diễn tả trọn vẹn bốn chân lý hằng có (Tứ
Diệu Ðế). Trong khi thuyết giảng bài pháp ấy, Ðại Ðức Sàrìputta đã khéo léo như
một nhạc trưởng kỳ tài, biết sử dụng nghệ thuật phối hợp âm thanh ở mức độ toàn
hảo nhất, khiến cho ban nhạc vang lên một cách uy nghiêm và hùng tráng. Còn
trong bài pháp kia, kinh Sammà Ditthi (nói về Chánh kiến), Ðại Ðức Sàrìputta
quả thật là một người cầm đuốc soi đường. Vì giữa rừng sinh tử vô minh, ai muốn
được giải thoát phải bước chân vào hẳn Bát Chánh Ðạo của chư Phật, và cửa ngõ
đầu tiên mà hành giả phải đi xuyên qua là Chánh kiến, tức thấy hiểu chân chánh.
Ðề
pháp này khi được Ðại Ðức Sàrìputta phân tích đã trở thành một kiệt tác giáo
lý. Ngài còn chứng minh cho thính giả thấy rằng Chánh kiến là cái chìa khóa để
mở cổng đi vào Thánh đạo. Ai không có Chánh kiến là người ấy không có tất cả.
Theo
Ngài Chánh kiến không phải chỉ đơn giản là khả năng nhận thức đứng đắn, khách
quan như quan niệm của thế gian, mà một cách khác hẳn "Chánh kiến là thanh
tịnh hiểu biết", hay "không có một câu chấp nào hết trong khi nhận
thức vấn đề.” Vì câu chấp (tức thành kiến) thường rơi vào một trong hai trạng
thái là khách quan hay chủ quan, sẽ làm cho tâm trí của con người vẩn đục. Hoặc
nói một cách khác Chánh kiến trong Phật giáo không phải là nguyên nhân của
Chánh tín như nhiều người lầm tưởng, mà nó chính là thành quả của Thiền định.
Mặt
khác, nếu chúng ta chịu khó đọc lại năm bộ A Hàm (Nikàya) Năm bộ A Hàm ấy là:
Trường
A Hàm (Dìgha Nikàya).
Trung
A Hàm (Majjhima Nikàya).
Tạp A
Hàm (SAMYUTTA Nikàya).
Tăng
Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya).
Tiểu
A Hàm (Khuddaka Nikàya) của Tạng Kinh (Sutta Pitaka),
chúng
ta sẽ thấy Chánh kiến như một đề tài chính, luôn luôn được nhắc đến.
Chú
giải còn ghi rõ: Nói đến Chánh kiến là nói đến Bát Chánh Ðạo. Hay nói đến Chánh
kiến là nói đến Tứ Diệu Ðế. Nơi nào có Chánh kiến là nơi đó có hạt giống thánh
thiện đã được gieo. Trong Tạng Kinh, Chánh kiến và Tứ Diệu Ðế được nhắc đến ba
mươi hai lần, và tất cả ba mươi hai lần ấy đều liên hệ đến Thánh quả.
Một
bài pháp khác của Ðại Ðức Sàrìputta trong bộ Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya
Quyển I 63) là kinh Samma Citta (Chánh Tâm) đã được thuyết cho chư Thiên và
Thánh nhân từ Tư Ðà Hàm trở lên nghe. Trong bài pháp này, Ðại Ðức Sàrìputta đã
nói đến những kiếp sau cùng của "vài hàng chúng sanh sắp bước chân ra khỏi
rừng sanh tử luân hồi.”
Ðây
là một bài pháp phân tích thật rõ ràng về các Thiên cảnh, Siêu thức cảnh, Vô
lượng thọ cảnh v.v... mà Ðại Ðức Sàrìputta đã làm cho chư Thiên tụ hội nhiều vô
số kể.
Có
một đoạn thuật lại rằng: "Khi ấy rất đông chư Thiên từ quả Thánh thấp đã
đắc lên quả Thánh cao, và một số chư Thiên khác nhờ nghe Pháp mà bước được vào
đạo Thánh Lưu (tức Tu Ðà Hườn). Căn cứ theo kinh điển thì ấy là bài pháp đưa
đến kết quả đạt Thánh cao nhất trong đời Ðại Ðức Sàrìputta.”
Mặc
dù đó chỉ là một bài pháp tóm tắt, có vẻ như huyền hoặc, vì không có một chứng
minh thực tế nào, không có một chú giải thí dụ nào cho phàm nhân hiểu được,
nhưng nó là những Thánh ngôn mà các Ðại Thiền Sư từ xưa đến nay hằng tôn tụng
và trì chú.
Lịch
sử Phật giáo Tích Lan cũng chép:
"Thánh
Tăng Mahinda, con trai Hoàng đế Asoka (A Dục), khi truyền Phật giáo vô nước
Tích Lan, một buổi chiều nọ đã thuyết lại hai bài pháp Samma Citta và Mahà
Vamsa (XIV 34ff.)"
Quốc
Sử ấy còn nhấn mạnh: "Khi nghe pháp có vô số chư Thiên và các hàng đại trí
thức đã thấm nhuần Pháp bảo.”
Kết
quả của hai bài pháp này sở dĩ vĩ đại như vậy là vì Ðại Ðức Sàrìputta đã cung
cấp một cách rành mạch những sự gợi thức cho các hàng chư Thiên và đại trí thức
về những cảnh kế tiếp sau kiếp hiện hữu của họ. Chẳng hạn như có một số chư
Thiên khi đang phát triển để đắc lên những bực Thánh cao hơn, thời gian cần
thiết phải còn dài, mà tuổi thọ đang có lại ngắn ngủi, nên họ đâm ra lo lắng
cho tuổi trời của mình, và nhất là không muốn bị tái sinh vào cõi Ngũ uẩn
(người) như trường hợp lắm lúc đã xảy ra. Bài pháp của đức Trưởng lão đã cắt
nghĩa đến họ một cách đầy đủ để cho họ có thể xét đoán nổi vị trí của mình, vì
thói thường khi còn ở ngoài Thánh đạo, muốn được tiến hóa, cần phải có một sự
định hướng giá trị mới có thể dắt dẫn hành giả tiến cao hơn được.
Kinh
Sangiti và Dasuttara là hai bài pháp khác nữa trong những bài pháp của Ðại Ðức
Sàrìputta. Ðó là hai phần sau cùng của bộ Digha Nikàya, một bộ kinh bao gồm
những bài pháp dài. Cả hai phần này có thể xem như là bảng mục lục của bộ Digha
Nikàya hay Trường A Hàm, vì nó liệt kê toàn những đề pháp được đánh số từ một
tới mười. Lý do của sự đánh số là để giúp trí nhớ cho những người muốn nắm vững
nội dung bộ kinh này. Về sau các Phật Học Viện đã gọi bảng mục lục ấy là bảng
kê khai Pháp Số, và toàn thể học Tăng sẽ tùy theo trình độ mà phải học thuộc
lòng những Pháp Số ấy trước khi trở thành Giảng Sư để đăng đàn thuyết pháp.
Kinh
Sangiti đã được Ðại Ðức Sàrìputta nói ra dưới sự chứng minh của đức Phật. Do đó
chúng ta có thể kết luận rằng đức Bổn Sư đã hoàn toàn chuẩn y bảng danh mục
Pháp bảo do Ðại Ðức Sàrìputta thiết lập. Trong khi kinh Sangiti ghi lại những
Ðề Pháp có trật tự từ thấp tới cao, thì kinh Dasuttara nêu rõ các chi của từng
Ðề Pháp một. Như vậy hễ nói đến pháp số một là Ðề Pháp ấy chỉ có một chi, và
khi nói đến pháp số hai là Ðề Pháp ấy có hai chi, pháp số ba có ba chi, pháp số
bốn có bốn chi v.v...
Kỹ
thuật chương mục hóa Pháp bảo này trong Tạng Kinh của Ðại Ðức Sàrìputta rõ ràng
là sự đóng góp sau cùng của cuộc đời Ngài cho Phật giáo. Vì trước khi nhập diệt
Ðại Ðức Sàrìputta đã nghĩ: "Pháp bảo ví như một kho tàng châu báu. Muốn sử
dụng một cách đủ giá trị và có hiệu lực, toàn bộ châu báu ấy phải được sắp xếp
có hệ thống.”
Hơn
nữa, khi ấy lại nhắm vào lúc Giáo chủ Nigantha Nàtaputta, một người cầm đầu tôn
giáo cùng thời với đức Phật, qua đời. Các đệ tử của ông ta đã chia rẽ và y cứ
theo những lời dạy hoàn toàn vô trật tự. Ðại Ðức Sàrìputta e sợ nguy cơ ấy có
thể xảy đến cho Phật giáo, nên đích thân tự làm công tác này.
Mặt
khác, ngay sau khi đức Bổn Sư tịch diệt, hiển nhiên hơn câu chuyện của ông
Nigantha Nàtaputta, còn có câu chuyện của Giáo chủ Mahà Vìra (Ðạo lõa thể).
Ðiều này đã chứng minh rằng Ðại Ðức Sàrìputta đã có một cái nhìn thật xa. Bằng
có là trong các thời pháp sau cùng của Ngài, Ngài luôn luôn lập lại:
"Hỡi
chư huynh đệ! Ðạo pháp này phải được tất cả học thuộc lòng, hòa hợp với nhau mà
không có sự xích mích. Chỉ như thế, đời sống Tăng lữ mới duy trì vững bền để
phục vụ cho sự an vui và hạnh phúc của chư Thiên và Nhân loại.”
Chú
giải còn cho biết rằng: Mục đích của kinh Sangiti là đem đến sự ưa thích ở pháp
hòa thuận (Samaggisasa) trong giáo lý giải thoát bằng sự tiên đoán để di huấn
đầy đủ (Desanà Kusalatà).
Riêng
Kinh Desuttara, Ðại Ðức Sàrìputta đã mở đầu bằng câu:
"Dasuttaraô
pavakkhàmi Dhammaô nibbànappattiyà. Dukkhassantà kiriyàya sabba ganthapamoca
raô....”
Nghĩa
là: Bài pháp mang tên Dasuttara mà bần Tăng sắp nói ra đây là một giáo lý để
đạt đến Niết Bàn và chấm dứt phiền não, cắt đứt sợi dây ràng buộc nô lệ.”
Rồi
trong đoạn sau, Ngài đã nhấn mạnh: "Pháp bảo khi đã kết tập và ghi nhớ có
hệ thống, sẽ được truyền bá nguyên vẹn đủ chi tiết của nó. Ðây chính là lý do
khiến bần Tăng thuyết ra hai bài Yếu Lục ấy.”
Trong
cuốn sách này, chúng ta chỉ có thể nhắc đến một vài "đóng góp độc
đáo" vào kho tàng Pháp bảo của Ðại Ðức Sàrìputta mà thôi, vì hãy còn rất
nhiều những bài pháp của Ngài nằm rải rác trong Tam Tạng kinh điển mà chúng ta
không có dịp bàn kỹ.
Một
bảng tóm tắt về những bài pháp khác của Ðại Ðức Sàrìputta đã thuyết, được trình
bày ở phần cuối cuốn sách này để giúp cho những ai muốn tra cứu có thêm một số
tài liệu.
Bây
giờ chúng ta thử tìm hiểu khả năng Chú Giải (Atthakathà) của Ðại Ðức Sàrìputta
trong Tam Tạng Pàli. Trước hết hãy nói về quyển Niddesa, thuộc bộ Khuddaka
Nikàya (Tiểu A Hàm). Ðây là quyển Chú Giải duy nhất được lưu truyền kể từ thời
đức Phật. Kinh này chia làm hai phần là Mahà Niddesa (Ðại Chú Giải) và Cùla
Niddesa (Tiểu Chú Giải). Mahà Niddesa bàn về Atthaka Vagga ở trong kinh Nipàta.
Còn Cùla Niddesa thì dẫn giải đoạn Paràyana Vagga trong Khagga Visàna nằm ở
phần cuối kinh này.
Nhiều
học giả khi nghiên cứu Phật giáo đã xác nhận cuốn Niddesa là quyển sách xưa
nhất. Có thể nó đã xuất hiện vào thời kỳ đầu tiên có Tăng bảo trong Giáo pháp
của đức Phật Thích Ca. Bằng chứng là trong kinh Udàna có ghi rõ sự thuộc nằm
lòng đoạn Atthaka Vagga của Ðại Ðức Sona. Kinh Anguttara Nikàya cũng ghi lại sự
thuộc nằm lòng đoạn Paràyana Vagga của một tín nữ là bà Nanda Màtà.
Vẫn
biết kinh Phật là do chính đức Phật thuyết ra, nhưng sự chú giải lại do các Ðại
Sa môn đảm nhận. Và Ðại Ðức Sàrìputta là một Ðại môn đồ đã làm công tác đó
trước nhất. Nghĩa là Ngài đã làm ngay trong thời kỳ Phật giáo mới bắt đầu có
Tăng bảo.
Có ít
nhất là năm trường hợp trong kinh Nipàta, chính đức Phật đã tuyên dương công
tác này của Ðại Ðức Sàrìputta.
Cũng
có vài thuyết cho rằng cuốn Niddesa là do công lao của nhiều vị Ðại tông đồ của
đức Phật hợp lại mà thành. Tuy nhiên, căn cứ theo chú giải trong kinh Thera
Gathà do Ðại Ðức Bhadantà Cariva Dhammapàla biên soạn thì tác giả của kinh
Niddesa là Ðại Ðức Sàrìputta (Dhamma Enapati). Còn theo Giáo sư E. J. Thomas
trong "Nguyên Sử Phật giáo" thì hầu hết nội dung của Niddesa là đóng
góp của Ðại Ðức Sàrìputta.
Ngoài
ra, Giáo sư E. J. Thomas còn viết:
"Nét
đặc biệt nhất của kinh Niddesa là gồm có một bảng kê khai đồng ngữ đã được bình
giải rõ ràng. Những giảng luận như thế không phải dùng để cắt nghĩa từng tiếng
hay từ đoạn riêng biệt, mà trái lại có thể áp dụng chung cho bất cứ chỗ nào có
một câu pháp tương tự. Do đó người ta có thể gọi nó là một "Bình Luận Tự
Ðiển.” Những bình luận như thế rất hữu ích trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma), nhất là để y cứ theo thánh nghĩa hơn là cứ suy giải theo sức hiểu
biết của mình.”
Ðiều
này chỉ cho chúng ta thấy rằng: Một hệ thống học hỏi từ ngữ và ngôn lý trong
Phật giáo đã được thành hình tối cổ. Hệ thống này chỉ có một điểm bất tiện là
không có những qui tắc tự vựng như văn phạm ngày nay... Thay vào đó Niddesa lại
có một lối phân tích (Patisambhidà) khá đầy đủ, chẳng hạn như phân tích Nghĩa
lý (Attha), phân tích Ðiều kiện (Dhammà), phân tích Tự căn (Nirutti), phân tích
Ứng đối (Patibhàna) v.v... Riêng cách phân tích Tự căn lại được chia ra làm bốn
phần nhỏ đã rất thịnh hành trong thời gian tiếng Pàli còn là một sinh ngữ.
Ngày
nay, mặc dù tiếng Pàli không được đàm thoại trong đời sống hằng ngày, nhưng các
hệ thống phân tích ấy vẫn giúp ích cho nhiều học giả muốn nghiên cứu Phật giáo
không ít.
Theo
kinh điển chúng ta được biết thì Ðại Ðức Sàrìputta đã đạt được bốn Tuệ phân
biệt (Catu Patisambhidà Ĩàna) hai tuần lễ sau khi xuất gia, nghĩa là lúc đạt
được đạo quả A la hán. Và căn cứ theo nghệ thuật phân tích văn pháp (Nirutti
Patisambhidà) trong Patisambhidà Magga thì chúng ta có thể tin rằng Ðại Ðức
Sàrìputta không những là tác giả của bộ Niddesa mà Ngài còn là tác giả của
Patisambhidà Magga nữa.Trong Mahà Niddesa, có một đoạn kinh mang tên Sàrìputta
(còn gọi là kinh Thera Panhà) được chú giải. Ðây là phần sau cùng của Attaka
Vagga. Mở đầu chú giải này là những kệ ngôn ca ngợi ân đức của đức Bổn Sư và
những câu hỏi đặt ra cho Ngài, nhưng Ngài đã ủy thác cho Ðại Ðức Sàrìputta giải
đáp. Riêng bài kệ mở đầu trong kinh Mahà Niddesa là bài kệ tán dương oai lực
của đức Phật sau khi Ngài đã lên cõi trời Tavatiôsa nói về Vi Diệu Pháp
(Abhidhammà) rồi trở về.
Ngoài
ra trong kinh Thera Panhà, mặc dù mang tên Sàrìputta, nhưng cũng có nhiều chỗ
ghi các câu hỏi của Ðại Ðức Sàrìputta đặt ra và được đức Phật trả lời.
Nhiều
học giả còn cho rằng kinh Patisambhidà Magga là thiên khảo luận của Ðại Ðức
Sàrìputta, vì họ nhận thấy nội dung của nó hoàn toàn là khả năng phân tích và
tầm tư tưởng thâm sâu của vị Thánh Tăng uyên bác này.
Ở
đoạn mở đầu, Patisambhidà Magga trình bày những bài khái luận về bảy mươi hai
thứ hiểu biết (Nàna) và về những loại kiến thức sai lầm, mà xuyên qua đó chúng
ta có thể chiêm ngưỡng được cái Trí tuệ vô song của Ðại Ðức Sàrìputta. Trong
bài kinh khai thuyết về sự hiểu biết cũng như trong những chương khác của tác
phẩm, người ta đã tìm thấy một số lớn những danh từ giáo lý xuất hiện lần đầu
tiên, và chỉ trong Patisambhidà Magga mà thôi. Tác phẩm cũng chứa đựng những
lời cắt nghĩa tỉ mỉ về các thuật ngữ và các giáo thuyết đã được giới thiệu tóm
tắt trong nhiều phần pháp và trong những bộ xưa hơn nữa của Tam Tạng Kinh
(Tipitaka Sutta).
Một
học giả Cao Tăng Tích Lan, Ðại Ðức Mahà Nàma người đã viết bài
Saddhammappakàsini, chú giải cho tác phẩm, đã không ngần ngại phát biểu:
Nói
đến Patisambhidà Magga là nói đến Ðại Ðức Sàrìputta, vì trong đó nhân vật của
Ngài được nhắc đến hai lần: Lần thứ nhất (trong Iddhi Viddha Kathà) như là một
bậc đã làm chủ được phép tỏa rộng thanh tịnh (Samàdhivipphàra Iddhi). Lần thứ
hai (trong Mahà Pannà Kathà) Ngài như là bậc duy nhất hiểu thấu chiều sâu Trí
tuệ của đức Phật (Solasa Pannà Niddesa).”
Cho
nên, chúng ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi đọc trong kinh Atthasàlini
thấy ghi rằng: "Thuở ấy đức Phật thuyết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong
vòng ba tháng ở cõi trời Tàvatiôsa cho mẹ Ngài, Hoàng hậu Màyà, người đã được
sanh làm chư Thiên nơi cõi trời ấy nghe. Cứ mỗi ngày, khi trở về thế gian độ
ngọ, Ngài hằng thuyết lại cho Ðại Ðức Sàrìputta về các pháp thâm diệu vi tế.
Kinh
Atthasàlini còn ghi rõ:
"Trí
tuệ của đức Thế Tôn dồi dào như nước trong lòng biển cả thì sức hiểu biết của
Ðại Ðức Sàrìputta nhiều như những lượn sóng. Hễ nước chảy đến đâu thì sóng gợn
đến đó. Nước bốc thành hơi thì sóng cũng biến thành hơi. Và dưới sức nóng của
ánh sáng mặt trời, người lữ hành mệt mỏi trên sa mạc đã nhìn thấy hơi nước bằng
những lượn sóng.”
Có
điều là Ðại Ðức Sàrìputta, sau khi đã thấm nhuần Vi Diệu Pháp bảo của đức Phật
rồi, chỉ đem truyền lại cho chư huynh đệ và đệ tử những pháp mà Ngài nhận thấy
cần thiết, thực tế và hợp với trình độ hiểu biết của họ. Ngài cũng không quên
hệ thống hóa Vi Diệu Pháp ấy cho dễ học, dễ nhớ.
Nhiều
học giả còn cho rằng: Tất cả Vi Diệu Pháp đều bắt nguồn từ Ðại Ðức Sàrìputta và
ngay cả bộ sách vĩ đại Patthàna cũng là công trình của vị Ðại Thánh Tăng này.
Về
nghệ thuật sắp xếp và thừa truyền lại Vi Diệu Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta, theo
Attha sàlinì, chú giải của đoạn Dhamma Sangani, thì Ngài đã tác văn những phần
như sau:
Ðoạn
bốn mươi hai Song Liên Kệ (Duka) trong Suttanta Màtikà sau Abhidhamma Màtikà.
Cả hai phần này dẫn đầu bảy cuốn Vi Diệu Pháp, và được giảng giải trong kinh
Dhammasanganì.
Kinh
thứ tư và cũng là phần sau cùng trong Dhammasanganì là Atthuddhàrakanda đã dùng
đề cập về sự cương yếu (hay tóm tắt).
Ðặt
ra cách giúp trí nhớ để dễ học nằm lòng (Vàcana Magga).
Ðánh
số cho đoạn Patthàna trong kinh Anupada (thuộc Majjhima Nikàya No III) vì đây
là một phần kinh mà đức Phật đã nói về các chiều biến thiện của Tâm thức Thiền
và những trạng thái đồng sinh tâm mà chính Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã từng trải
qua sau khi tiến lên khỏi mỗi giai đoạn của sự đạt Thiền. Phương pháp đánh số
này là cả một nghệ thuật, vì nhờ đó mà người ta có thể rút ngắn được những phép
phân tích qua chi tiết có thể gây lầm lẫn trong ý thức Thiền định.
Kinh
Dhamma Sanganì còn nhắc lại lời khen ngợi của đức Phật:
Ðại
Ðức Sàrìputta quả thật là một bậc am hiểu Pháp bảo rốt ráo. Ông ta không những
đủ sức trả lời một số câu hỏi của Như Lai trong vòng một ngày hay một ngày một
đêm một cách trong sáng, mà ông ta còn thừa sức để luận đạo với Như Lai cả đến
bảy ngày bảy đêm đem về tất cả mọi vấn đề.
Này
chư Tỳ kheo. Có năm tuyệt phẩm mà một trưởng tử của vị vua cai trị toàn thế
giới có thể lãnh đạo thiên hạ vững chắc như vua cha, không bị bất cứ một kẻ thù
nghịch nào làm đảo lộn.
Vậy
năm tuyệt phẩm ấy là gì? Ðó là người kế vị bậc Thế giới vương biết rõ thế nào
là nhân thế nào là quả, thế nào là điều kiện thiên nhiên, thế nào là điều kiện
xã hội và thế nào là trình độ con người.
Này
chư Tỳ kheo. Tương tự như thế. Khi Sa môn Sàrìputta tròn đủ năm tuyệt phẩm này
rồi thì ông sẽ có thể quay bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn như
Như Lai đã từng lăn. Bánh xe này không thể bị làm đảo lộn bởi những kẻ ngoại
đạo, bởi chư Thiên hay Bà la môn giáo, cũng không bởi bất cứ kẻ nào trên cõi
đời này.
Này
chư Tỳ kheo. Năm tuyệt phẩm ấy là gì?
Là
Sàrìputta trong vô lượng kiếp trước đã gieo trồng hạnh Trí tuệ, ý thức thế nào
là lợi ích cao thượng (Nhân), biết phương pháp giáo huấn (Quả), dùng những biện
pháp đúng đắn (Ðiều kiện thiên nhiên), hiểu rõ lúc nào hợp thời (Ðiều kiện xã
hội), và tùy theo đề tài hội họp (Trình độ) mà ông sẽ nói Pháp. (Anguttara
Nikàya V. 132).
Ngoài
đức Phật ra, những vị Tôn túc khác cũng đã tán dương khả năng của Ðại Ðức
Sàrìputta. Chẳng hạn như Ðại Ðức Sangìsa (về các kệ ngôn số I. 231 I. 233),
Trưởng lão Mahà Kassapa (theo các câu kệ số 1082 1086) và nhất là Tôn giả Mahà
Moggallàna (Mục Kiền Liên) khi nghe Ðại Ðức Sàrìputta thuyết xong bài Pháp
"Nói về sự vô tội", Ngài đã ngâm mấy câu sau đây để ca ngợi công đức
của bậc Thánh Tăng ấy:
"Này
chư Tỳ kheo huynh đệ. Thật là kỳ diệu. Thính giác của tôi, khi nghe được Pháp
bảo của đạo huynh Sàrìputta thì nó tự nhiên thanh tịnh, ý tưởng tự nhiên no
đủ" (Theo Majjhima Nikàya No 5).
Nói
tóm lại, đức hạnh và khả năng của Ðại Ðức Sàrìputta đã vô cùng vĩ đại. Vĩ đại
không những ngay trong lúc đức Phật còn tại tiền, mà sự vĩ đại ấy cho mãi đến
ba trăm năm sau vẫn còn được các bậc Thánh nhân ca tụng. Chúng ta thử đọc lại
kinh Milinda Panhà (Mi Lan Ðà vấn đạo để xác nhận điều ấy là một sự thực).
Kinh
Milinda Panhà chép:
"Vua
Mi Lan Ðà đã so sánh Ðại Ðức Nàgàsena (Na Tiên) với Thánh Tăng Sàrìputta và
nói: "Trong rừng Pháp bảo của chư Phật, không có một nhân vật nào khác như
Ngài để có thể trả lời những câu hỏi của trẫm, ngoại trừ đức Trưởng lão
Sàrìputta, một vị đứng đầu về vạn pháp.” Và uy tín vĩ đại đó vẫn còn sống mãi
cho đến ngày nay, tạo ra một sự khích lệ người đời bởi những giáo lý đáng ôm ấp
của một vị Ðại đệ tử Phật. Tiếng vang ấy được bảo tồn phát triển lẫn tàng trữ
trong một số những cuốn sách quí nhất của Phật giáo.
THÂN QUYẾN CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Như
chúng ta đã biết, Ðại Ðức Sàrìputta sinh trưởng trong một gia đình Bà la môn
giáo (Brahmin) thuộc làng Upatissa (còn gọi là Nàlaka) gần thành Ràjagaha
(Vương Xá). Thân sinh Ngài là ông Vaganta và thân mẫu Ngài là bà Sàrì. Ngài còn
ba người em trai tên là Cunda, Upasena, Revata và ba chị em gái là các nàng
Càlà, Upacàlà và Sìsupacàlà.
Cả
sáu người này đều lần lượt xuất gia và đắc quả A la hán.
Ông
Cunda sau này có tên là Samanuddesa có nghĩa là "Môn đồ non nớt"
trong hàng chư Tăng, mặc dù đã thụ Tỳ kheo giới. Lúc ấy Tăng chúng gọi như thế
là để phân biệt ông với đức Trưởng lão Mahà Cunda.
Khi
Ðại Ðức Sàrìputta tịch diệt, Cunda là vị làm chủ táng, và cũng là người đi
thông báo cho đức Phật biết, đồng thời dâng cốt thể đến Phật vì đó là Thánh
tích của một vị Ðại tôn đồ.
Câu
chuyện được ghi lại trong kinh Cunda. Phần tóm lược của nó sẽ được trình bày
thêm trong cuốn sách này.
Ông
Upasena sau được gọi là Vagantaputta, hay "Con trai nhà Vaganta"
(cũng như Ðại Ðức Sàrìputta có nghĩa là con trai của bà Sàrì) đã được đức Phật
khen ngợi như là một trong những Tỳ kheo gương mẫu, luôn luôn giữ một thói sống
thanh tịnh bằng pháp Tri túc (Samantap Pàsàdika). Theo bộ Salàyatana SAMYUTTA,
chương 7, kinh số 7 thuật lại thì ông ta đã tịch vì bị rắn cắn.
Revata
là người em trai nhỏ tuổi nhất, và chính mẹ ông đã muốn ngăn cản việc xuất gia
bằng cách cưới vợ cho ông khi ông còn là một thiếu niên. Nhưng ngay vào ngày
đám cưới, ông đã trông thấy bà nội của người vợ tương lai, một cụ già một trăm
hai mươi tuổi, tàn tạ với nét già yếu. Ông lập tức trở nên ghê sợ cuộc sống ở
đời, bèn lìa khỏi hôn lễ và trốn vào một ngôi Chùa để xin xuất gia.
Vào
những năm sau, trên đường đến thăm đức Phật, ông đã dừng chân tạm ngụ tại một
khu rừng đầy cây xiêm gai (Khadìvà vana) và trong thời gian nhập hạ ở đó, ông
đắc quả A la hán. Sau đó, người ta gọi ông là Ðại Ðức Revata Khàdìravaniya
(Ngài Revata trong rừng Xiêm gai). Ðức Phật đã xem Ngài như là người đứng đầu
những vị cư ngụ trong rừng ấy.
Còn
ba người chị em gái của Ðại Ðức Sàrìputta là Càlà, Upacàlà và Sisupacàlà, vì
muốn noi gương những người anh, cũng đã trở thành những Tỳ kheo Ni sau khi họ
đã lập gia đình. Trong thời gian sống với chồng mỗi người đều có một đứa con
trai, và chúng được đặt tên có nghĩa là "theo chân người mẹ.” Các cậu ấy
cũng lần lượt "theo chân" như thế. Ba người này lại được Ðại Ðức
Revata Khàdìravaniya cho xuất gia làm Sa di. Hạnh kiểm tốt của họ đã được Ðại
Ðức Sàrìputta khen ngợi khi Ngài đến thăm Thầy họ bị bịnh. Ðiều này có ghi
trong đoạn chú giải của kinh Theragàthà (Phần V, kệ 42).
Riêng
ba nàng Càlà, Upacàlà và Sìsupacàlà là những Tỳ kheo Ni được người đời tán tụng
rằng họ đã từng bị Ma vương (Màra) đến gần cám dỗ rồi không thành thì chất vấn
sỉ vả. Nhưng cả ba Tỳ kheo Ni đã đối phó một cách rất tuyệt diệu. Những chuyện
này được ghi lại trong kệ ngôn Therìgàthà và kinh Bhikhùnì SAMYUTTA.
Trái
ngược với những nàng này, bà mẹ của Ðại Ðức Sàrìputta lại là một người rất đố
kỵ Phật giáo, chỉ trung thành với đạo Bà la môn. Do đó bà đã thường xuyên phỉ
báng Tăng chúng. Trong chú giải kinh Dhammapàda, có một đoạn thuật lại rằng:
"Một
lần nọ, khi Ðại Ðức Sàrìputta còn ở trong làng cũ Nàlaka của Ngài với một số
lớn chư Tỳ kheo theo tu học. Ngài bèn về nhà mẹ trong một dịp đi khất thực. Với
Ngài bà đã không thể từ chối, nên mời vào để lo dâng vật thực, nhưng trong lúc
làm như vậy, bà không ngớt tuôn ra những lời quá khích. Bà nói:
Ai
lại đi ăn những đồ người ta bố thí. Nhỡ khi ông không được những thứ cháo chua
mà người ta cho, chắc ông phải đi từ nhà này qua nhà khác mà kiếm những đồ còn
lại trên vá trên chén chứ!
Ði
xin được chỉ có vậy mà ông dám bỏ cả gia tài hàng tám chín trăm triệu để làm
một ông Thầy tu. Ông đã làm cho tôi mắc cỡ với hàng xóm. Thôi, bây giờ ông hãy
ăn đi.
Và
khi bà cho những vật thực đến các vị Tỳ kheo khác cùng đến với con bà, bà cũng
làm như thế, bà liền bảo:
Lại
mấy ông nữa. Mấy ông là những kẻ đã theo cái nhóm bắt thằng con trai của tôi đi
làm mọi. Thôi, ăn đi các ông ơi.
Cứ
như vậy, bà tiếp tục lăng nhục chư Tăng. Nhưng Ðại Ðức Sàrìputta chẳng nói một
lời Ngài nhận vật thực rồi dùng và im lặng trở lại Tinh xá.
Ðức
Phật biết được chuyện này do Ðại Ðức Ràhula, người trước đó là một trong những
vị Tỳ kheo bị bà lăng nhục, thuật lại. Còn tất cả Tăng Chúng khi được nghe
chuyện đó đều ngạc nhiên về sự nhẫn nại không tưởng tượng nổi của đức Trưởng
lão. Sau đó, đức Phật đã khen ngợi Ngài giữa Tăng chúng bằng cách ngâm bài kệ:
"Kẻ
đã trừ bỏ được sự nóng giận là người có thể làm tròn phận sự của mình một cách
chính đáng. Kẻ biết giữ gìn những lời giáo huấn là người thoát khỏi dục vọng.
Kẻ biết tự chỉ huy lấy mình là biết tạo cho mình một kiếp sinh sau cùng. Trong
Pháp bảo giải thoát, Như Lai gọi kẻ ấy là một vị Phạm Thiên (Brahma) vậy.”
Nhưng
đến khi cuộc đời của Ðại Ðức Sàrìputta gần chấm dứt, chuyện lăng nhục ấy không
còn nữa. Ngài đã cảm hóa được người mẹ. Câu chuyện sẽ được kể sau này. Và mục
đích thuật lại chuyện ấy là cốt đưa chúng ta đến một sự suy gẫm về những đặc
tính tự thắng của một Trưởng lão vĩ đại. Ấy là ba đức tính khiêm tốn, nhẫn nại
và hỷ xả của Ngài.
LỬA SÂN HẬN ÐÃ HOÀN TOÀN DẬP TẮT
Nhắc
lại vùng xung quanh Kỳ Viên Tinh xá nơi đức Phật đang cư ngụ, có một nhóm rất
nhiều người bàn tán với nhau về những phẩm tính cao thượng của Ðại Ðức
Sàrìputta. Họ nói rằng:
Với
một đức nhẫn nại như thế, Sa môn Sàrìputta đã trở nên bậc Vô Ngại. Dù khi có ai
lừa dối hay đánh đập Ngài. Ngài cũng không cảm thấy một ý nghĩ oán hận.
Có
một ông Bà la môn là người cố chấp cái thiện kiến sai lạc của mình, đã hỏi:
Ai là
người không nóng giận đâu?
Ðó là
Ðại Ðức Sàrìputta.
Ông
bèn xuyên tạc: "Ông ấy không nóng giận bởi vì chẳng có ai khiêu thích ông
ta. Và chính tôi rất rành cách làm cho kẻ khác giận mình.”
Một
hôm, khi đi khất thực, Ðại Ðức Sàrìputta đã vào trong thành phố, nơi ông Bà la
môn có mặt. Lão Bà la môn ác ý này liền tiến gần phía sau Ngài và bất thần đánh
lên lưng Ngài một cái như trời giáng. Ðại Ðức Sàrìputta vẫn tiếp tục chầm chậm
bước đi, mặt cũng không quay lại. Ngài chỉ thản nhiên nói: "Cái gì vậy
kìa?.”
Ông
Bà la môn vừa hổ thẹn vừa hối hận, ông bèn quì mọp người xuống dưới chân đức
Trưởng lão để tạ tội. Ðại Ðức Sàrìputta tỏ vẻ ngạc nhiên, hiền từ hỏi:
"Ông làm như thế để chi vậy?.”
Người
Bà la môn ngượng ngập trả lời:
"Thưa
Ngài! Vì muốn thử lòng nhẫn nhục của Ngài nên tôi đã đánh lén Ngài một cái rất
tàn nhẫn. Bây giờ tôi hiểu ra sự thật, xin Ngài tha lỗi cho tôi.
Rồi
ông Bà la môn tiếp: "Bạch Ngài. Nếu Ngài sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của tôi,
tôi xin thỉnh Ngài từ nay về sau chỉ đến khất thực trước nhà tôi để tôi được
chuộc tội bằng cách dâng cúng.”
Trong
khi yêu cầu như vậy, ông đã cung kính nâng lấy bình bát của đức Trưởng lão.
Ngài đã dịu dàng trao bát lại cho ông và ra dấu bảo ông ta hãy đưa mình về nhà
để dâng hiến vật thực.
Nhưng
những người khác khi thấy ông ta xúc phạm một vị Ðại Sa môn như vậy, họ trở nên
tức giận, tay cầm gậy gộc tập trung trước nhà ông Bà la môn với mục đích trừng
phạt lão già hung ác này.
Khi
Ðại Ðức Sàrìputta nhận vật thực xong bước ra và ông Bà la môn theo sau, hai tay
bưng bình bát của Ngài. Thấy vậy họ đồng la lên:
Bạch
Ngài! Xin Ngài hãy bảo ông Bà la môn này quay lại.
Ðức
Trưởng lão hỏi: "Này các đạo hữu tại gia! Tại sao các người làm như vậy?.”
Họ
đồng trả lời: "Người này đã vô lý đánh lén Ngài. Và chúng tôi đến đây cốt
để trả lại cho ông cái hành động bất nhân đó.”
Ðức
Trưởng lão mỉm cười nói: "Cám ơn các đạo hữu đã có lòng che chở cho bần
đạo, và những kẻ bất bình trước mọi hành động bất thiện là những người tốt.
Nhưng này quí vị thiện tâm! Ông ấy đã đánh quí vị hay đánh bần đạo?.”
Tất
cả đều trả lời: "Bạch Ngài! Chính Ngài bị đánh.”
Nghe
thế đức Trưởng lão bèn tuyên bố: "Ðược rồi! Nếu chuyện đó xảy ra đến bần
đạo thì ông ta đã sám hối với bần đạo rồi. Bây giờ quí đạo hữu hãy vui vẻ giải
tán.”
Sau
khi đức Trưởng lão đã khuyên nhủ đám người trở về xong, Ngài bèn cho phép ông
Bà la môn quay vào, rồi im lặng tìm đường trở về Tinh xá. Chuyện này xảy ra
đúng vào lúc đức Phật đang thuyết những câu Pháp Cú Kinh số 389 và 390 (Theo
chú giải Dhammapada). Những câu ấy đã nói lên sự giảng nghĩa của đức Phật về
bản chất của ông Bà la môn, tức là chỉ rõ tính thực thà hơn là nghiệp thức do
tái sinh. Ngoài ra, Phật cũng gián tiếp dạy rằng: "Chính tư tưởng phân
chia giai cấp đã khiến cho một số người có hành động ngông cuồng như vậy.”
Ðức
Phật còn dạy tiếp:
Ðừng
để ai đánh đập kẻ lầm lỗi ấy. Người có sự hổ thẹn là người sẽ nhận sự trừng
phạt xứng đáng nhất. Chính sự hổ thẹn sẽ làm cho ông bị cắn rứt còn hơn là nhận
lại trăm ngàn cái đánh.
Thu
phục được ông Bà la môn như thế không phải là chuyện dễ. Người nào đã kềm giữ
được tư tưởng của mình khỏi những gì thương yêu trìu mến càng nhanh thì sự đau
đớn sẽ không dày vò thân xác được. Và như vậy sự bực tức trong nội tâm cũng dần
dần biến mất đi.
Tính
hướng thiện của Ðại Ðức Sàrìputta cũng vĩ đại như đức nhẫn nhục của Ngài. Ngài
sẵn sàng ghi nhận mọi sự khuyên bảo của bất cứ ai không những bằng sự thành
thật mà còn với lòng biết ơn nữa.
Trong
chú giải kinh Devaputta SAMYUTTA Susimo có một đoạn thuật rằng:
"Một
lần nọ vì vô ý mà chéo y nội của Ngài lệch đụng xuống đất. Một ông Sa di bảy
tuổi đã trông thấy và chỉ cho Ngài. Ðại Ðức Sàrìputta liền bước sang một bên và
sửa lại y phục với một thái độ vâng lời và vui vẻ. Sau đó Ngài tiến đến trước
mắt vị Sa di và đưa tay nói rằng:
Giờ
thì y phục của tôi đã chỉnh tề rồi Sư ạ.
Ðể ám
chỉ đức tính này, trong kinh Vua Mi Lan Ðà Vấn Ðạo (Milinda Panhà Sutta) còn có
mấy dòng kệ nói về Ðại Ðức Sàrìputta như sau:
"Người
nào dù chỉ là bảy tuổi, nếu nhìn thấy hình thức dễ duôi trước tôi, và chỉ rõ
cho tôi, tôi sẽ sẵn sàng hoan hỷ nhận. Tôi luôn luôn mong mỏi được nhắc nhở một
cách ham thích và nhiệt thành. Tôi còn biết ơn những người ấy mãi mãi và kính
trọng họ như những ông Thầy.”
Có
một lần đức Phật hiền từ khiển trách Ðại Ðức Sàrìputta vì đã không tiếp độ một
kẻ hữu duyên đến nơi đến chốn. Ðó là câu chuyện liên quan đến người Bà la môn
tên Dhànanjàni. Ðại Ðức Sàrìputta ngẫu nhiên đến viếng nhằm lúc ông này đang
đau nặng và thoi thóp trên giường bịnh. Ðức Trưởng lão vì biết những người Bà
la môn hằng ngưỡng mộ cõi trời Phạm Thiên, nên Ngài đã chỉ dẫn cho ông Bà la
môn sắp chết ấy con đường đạt tới cõi trời đó bằng những giới hạnh của chư Phạm
Thiên.
Kết
quả ông Bà la môn đã được sinh lên cõi trời Phạm Thiên thực sự.
Nhưng
khi Ðại Ðức Sàrìputta thăm viếng xong trở về, đức Bổn Sư đã bèn dạy:
Này
Sàrìputta! Trong khi có nhiều Pháp đẻ đạt được những quả vị cao hơn, sao ông
không cống hiến mà chỉ gieo vào tư tưởng của bịnh nhân chỉ có pháp lành tới cõi
trời Phạm Thiên rồi ông ra về?
Ðại
Ðức Sàrìputta trả lời:
Bạch
đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ: "Vì những người Bà la môn này luôn luôn ngưỡng mộ
cõi trời Phạm Thiên, nên đệ tử đã không hướng dẫn cho ông Bà la môn Dhànanjàni
ấy con đường đạt tới cảnh Phạm Thiên là gì?.”
Ðức
Phật bảo:
Nếu
nghe được Pháp bảo cao hơn thì ông ấy có thể đắc vào Thánh đạo. Nhưng bây giờ
là quá muộn vì Dhànanjàni đã chết và đã trở thành một trong những Phạm Thiên
rồi.
Chúng
ta tìm thấy câu chuyện này trong kinh Dhànanjàni, thuộc bộ Majjhima Nikàya như
một sự mô tả rất thâm diệu về thật tính không ưa thích tái sinh của đức Phật,
cho dù đó là sự tái sinh trong cõi trời cao nhất.
Riêng
ông Dhànanjàni, đức Phật xét thấy nếu được tiếp độ đúng mức ông có thể đạt đến
quả A Na Hàm trước khi chết, nghĩa là chỉ tái sinh lại một lần nữa mà thôi.
Bàn
về trường hợp ông Dhànaĩjàni, đây không phải là điều sơ hở của Ðại Ðức
Sàrìputta, mà vì lúc đó đức Trưởng lão chưa đắc được pháp Quán Thế Tâm (Lokiya
Abhinnà) như đức Phật, nên Ngài đã không phân biệt được sự thật đó. Kết quả,
ông Bà la môn Dhànaĩjàni ấy phải tốn một thời gian vô lượng nữa trong cõi trời
Phạm Thiên, và sẽ phải sinh làm người trước khi ông đạt được đạo quả cứu cánh.
(Còn
trong kinh Tevijjà có thuật một vài lần đức Phật đã tiếp độ một số người tới
cõi Phạm Thiên là bởi duyên năng của họ không thể tiến cao hơn được nữa, chứ
không phải đức Thế Tôn đã làm một việc giống như Ðại Ðức Sàrìputta).
Và
Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã nhận một sự khiển trách hiền từ khác nữa của đức Phật
lúc Ngài bạch hỏi đức Bổn Sư tại sao có một số chư Phật trong quá khứ đã không
để cho giáo lý của các Ngài tồn tại lâu dài. Và Ðức Phật đã trả lời rằng:
Ðiều
ấy là bởi những vị Toàn Giác đó không thuyết nhiều Pháp bảo, không đặt ra nhiều
Giới luật cho các hàng đệ tử, cũng không tạo nên sự tuyên đọc Biệt Biệt Giải
Thoát Pháp (Pàtimokkha).
Ðại
Ðức Sàrìputta lại bạch tiếp:
Giờ
đây chắc đức Thế Tôn có nhiều thời gian hơn để ban bố những điều luật và tuyên
hạnh chú đọc Biệt Biệt Giải Thoát Pháp Pàtimokkha để cho đời sống của Giáo hội
sẽ tồn tại lâu dài?
Ðức
Phật bèn dạy:
Này
Sàrìputta! Việc đó hãy để cho chính đức Tathàgata, bậc có trách nhiệm biết rõ
về thời gian tính ấy. Ðức Thế Tôn sẽ không chế định giáo điều cho các hàng đệ
tử, cũng không khuyên đọc Biệt Biệt Giải Thoát Pháp nữa khi nào không thấy có
những dấu hiệu hư hoại trong hàng Tăng lữ (Theo Pàràjika Pàli chương mở đầu).
Ðiều
quan tâm của vị Ðại đệ tử ấy chính là Ngài mong mỏi cho Giáo pháp Giải thoát
được bền vững càng lâu càng tốt. Và đó cũng là điềm "Huyền Cơ Khả
Mật" của một vị Phật.
Bất
cứ một đấng Toàn Giác nào cũng vậy: Giáo pháp của Ngài luôn luôn có một tuổi
thọ và tuổi thọ ấy chỉ có đấng Toàn Giác thuyết ra nó rõ mà thôi. Ðức Phật ấy
phải biết trước thời mạt pháp, và Ngài sẽ không để lại bất cứ một lời dạy nào
khi trên thế gian không còn lấy một người có thiện tâm.
Rồi
đức Thế Tôn giảng giải tiếp cho Ðại Ðức Sàrìputta nghe:
Vào
thời mạt pháp đó, người hành đạo cầu tiến sẽ vô cùng ít ỏi. Và vị Tỳ kheo sau
chót trong Tăng Già của Như Lai sẽ là ông Sotàpàna. Do đó, thật là tội nghiệp
nếu sau ông Sotàpàna mà còn Phật ngôn để cho người đời đem ra chế giễu.”
ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA BỊ KHIỂN TRÁCH
VÌ NHÓM HỌC TRÒ
Theo
Càtuma Sutta, tức kinh số 67 trong Majjhima Nikàya, thì có một lần đức Phật đã
khéo léo khiển trách Trưởng lão Sàrìputta như sau:
"Lúc
ấy có một số đông Tỳ kheo mới nhập môn, là những đệ tử của hai Ðại Ðức
Sàrìputta và Mahà Moggallàna. Lần đầu tiên họ kéo đến để xin ra mắt đức Phật,
nhưng khi đến nơi lại chia ra làm nhiều nhóm nói lời nhảm nhí với những Tỳ kheo
đang ngụ trong Tinh xá Càtuma.
Nghe
có sự ồn ào, đức Phật liền tập trung Tăng chúng để hỏi nguyên do. Ngài được
biết đó là sự hỗn loạn bởi những vị Tỳ kheo mới đến gây ra. Trong kinh không
nói rõ là các vị Tỳ kheo thăm viếng có mặt lúc Phật hỏi hay không. Nhưng chắc
chắn là họ phải có mặt, vì đức Phật đã nghiêm khắc thốt ra những lời dạy như
sau:
Này
các Tỳ kheo! Các ông hãy đi ngay. Như Lai muốn các ông ra khỏi chỗ này lập tức.
Các ông không thể đến gần một vị Phật bằng đức hạnh như vậy.
Bị
quở phạt, có một số Tỳ kheo kinh sợ bỏ đi, còn một số chỉ có mặt trong đám chứ
không gây ra sự ồn ào đuợc phép ở lại.
Sau
đó đức Phật nói với Ðại Ðức Sàrìputta:
Này
Sàrìputta! Ông nghĩ như thế nào khi Như Lai đuổi nhóm Tỳ kheo ấy?
Bạch
đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ: "Ðức Thế Tôn muốn giữ mãi sự trang nghiêm thanh
tịnh trong lúc này.” Do đó chúng đệ tử phải tôn trọng và vâng lời, rút lui một
cách có trật tự.
Ðức
Phật dạy:
Này
Sàrìputta! Dừng lại! Ðừng để cho những ý nghĩ như thế phát sanh trong ông nữa.
Và
đức Phật quay sang Ðại Ðức Mahà Moggallàna cũng hỏi một câu tương tự.
Ðại
Ðức Mahà Moggallàna trả lời:
Bạch
đức Thế Tôn! Khi đức Thế Tôn đuổi những vị Tỳ kheo ấy đi, đệ tử nghĩ rằng:
"Ðức Thế Tôn vì muốn giữ lại sự trang nghiêm thanh tịnh để làm gương giải
thoát cho tất cả nhân loại.” Do đó đệ tử và đạo huynh Sàrìputta giờ đây phải
trở về chăm lo Tăng chúng.
Ðức
Thế Tôn nói:
Này
Mahà Moggallàna! Ðúng thế! Ông trả lời đúng đấy! Việc cần thiết hoặc là chính
Như Lai, hoặc là Sàrìputta hoặc là Mahà Moggallàna phải đích thân khuyên giáo
chúng Tăng.
Phần
kết thúc, tuy bài kinh không nêu rõ nhưng chắc chắn là hai Ðại Ðức Sàrìputta và
Mahà Moggallàna đã trở về giáo huấn những học trò của mình một cách nghiêm khắc
và kỹ lưỡng.
ÐẠI
ÐỨC SÀRIPUTTA BỊ VU CÁO
Có
một lần đức Phật ngụ tại Kỳ Viên Tinh xá cùng với đông đảo chúng Tăng, Ðại Ðức
Sàrìputta là nạn nhân của một sự kết tội sai lầm. Chuyện xảy ra như sau:
Lúc
ấy là thời gian ra hạ, mùa mưa cũng vừa chấm dứt. Chư Tăng phương xa đến nhập
tại Kỳ Viên Tinh xá đang lần lượt kiếu từ đức Phật và những vị Tôn túc để trở
về.
Vì Tăng
chúng quá đông nên khi tạm biệt nhau, Ðại Ðức Sàrìputta đã thành thật tuyên bố
một câu: "Bần đạo chỉ quen nhớ những vị nào theo tên ám chỉ giới hạnh hơn
là tên của gia đình đặt cho họ.”
Trong
số đó có một vị Tỳ kheo, không ai biết tên gọi căn cứ theo giới hạnh của ông là
gì hoặc tên của gia đình đặt cho ông ra sao. Nhưng vì ông hằng mong muốn Ðại
Ðức Sàrìputta gọi ông bằng một cái tên ám chỉ ông là người Ðức Hạnh, ít nhất
cũng trong khi cáo từ nhau.
Tuy
nhiên, giữa đám đông Tăng chúng, Ðại Ðức Trưởng lão đã không cho ông ta sự phân
biệt này. Và vị Tỳ kheo ấy đã trở nên bất mãn, ông bèn suy nghĩ: "Ngài
không tiếp độ mình như tiếp độ những vị khác?.”
Rồi
ông ta có mặc cảm Ðại Ðức Sàrìputta đối xử bất công. Lúc ấy, nhân việc đức
Trưởng lão đi ngang, chéo y của Ngài bị gió phất quét nhẹ lên mình ông, khiến
ông càng bực tức hơn nữa. Ông liền đến gần đức Phật phàn nàn:
Bạch
đức Thế Tôn! Chắc Ðại Ðức Sàrìputta đang hãnh diện mình là một Ðại đệ tử nên đã
đánh con một tát tay đến nỗi tai con gần như bị hỏng. Sau khi làm như vậy, Ngài
đã không tỏ ra vẻ người hối lỗi với con mà còn bỏ đi không đếm xỉa gì đến con
cả.
Ðức
Phật bèn gọi Ðại Ðức Sàrìputta vào và truyền lệnh đại hội Tăng chúng.
Trong
khi chờ đợi, Ðại Ðức Mahà Moggallàna và Ðại Ðức Ànanda dọ biết rõ có một sự cáo
oan xảy ra, vội gặp gỡ tất cả các nhóm Tỳ kheo và nói lên rằng:
Bạch
chư huynh đệ! Xin các Ngài hãy tới dự Tăng hội. Khi Ðại Ðức Sàrìputta đối diện
trước đức Bổn Sư rồi, Ngài chỉ thốt ra những sự thật. Sự thật ấy sẽ vang rền
như tiếng gầm của một con sư tử.
(Câu
này dịch sát theo chữ Pàlì là "Sìhanada" có nghĩa là một giọng nói tự
nhiên lẫn trầm hùng, đảm bảo chắc chắn ấy là sự thật).
Và
đúng như điều vừa nói! Khi đức Bổn Sư chất vấn Trưởng lão Sàrìputta, thay vì
Ngài vạch rõ sự vu cáo, Ngài lại nói:
Bạch
đức Thế Tôn! Khi một người đã được vững chắc trong đạo quả, làm chủ được bản
tâm rồi, người ấy có thể nào làm đau đớn một đồng đạo của mình mà bỏ đi không
một lời sám hối?
Bạch
đức Thế Tôn! Ðệ tử của đấng Siêu Xuất tam giới khi đã thuần thục trong Thánh
đạo thì không còn trạng thái sân hận hoặc thù nghịch nữa, trái lại chỉ có một
phẩm tính hỷ xả vô biên như quả đất. Ðại cầu này có bao giờ phản đối bất cứ vật
gì dù dơ hay sạch, dù đẹp hay xấu, dù thuận hay nghịch mà thế gian vất lên mình
nó đâu?
Mặt khác,
đệ tử của đấng Toàn Giác khi đã chứng quả Bất Lai (A la hán) thì tham dục không
còn nữa, dù chỉ vi tế trong một sát na thời gian hay trong một tế bào vật chất.
Theo
chú giải kinh Sìhanada thì lúc Ðại Ðức Sàrìputta thốt ra những lời như vậy, quả
địa cầu đã rung chuyển đến chín lần để xác minh sự thật. Và toàn thể đại hội đã
giải tán với tấm lòng kinh cảm. Riêng vị Tỳ kheo vu khống thật vô cùng hối hận.
Ông xấu hổ quỳ mọp dưới chân đức Thế Tôn để xin nhận tội nói xấu của mình.
Kế đó
đức Phật liền khuyên:
Này
Sàrìputta. Hãy tha lỗi cho vị Tỳ kheo ngu dại này đi, kẻo không cái đầu của ông
ấy sẽ vỡ làm bảy miếng.
Ðại
Ðức Sàrìputta cung kính đáp lời:
Bạch
đức Bổn Sư. Tự nhiên là đệ tử đã tha thứ cho vị Tỳ kheo này rồi.
Và
với hai bàn tay chắp lại, đức Trưởng lão tiếp: "Ngoài ra, đệ tử cũng xin
Sư ấy tha lỗi cho đệ tử nếu vì vô tình mà đệ tử làm bất cứ điều gì mích lòng.”
Ðoạn
cả hai được đức Phật xử hòa.
Chư
Tăng vô cùng thán phục. Họ đều nói: "Ðại Ðức Sàrìputta quả thật là một tấm
gương tốt. Ngài đã tỏ ra thân mến đối với vị Tỳ kheo vu khống kia. Hành động
của Ngài chính là một hành động đại xá. Lẽ ra ông ta phải tỏ vẻ hạ mình biết
lỗi trước Ngài mới phải, đằng này Ngài lại đưa hai tay với vẻ cung kính xin lỗi
ông ta nữa.”
Nghe
Tăng chúng bình phẩm, đức Phật còn giải thích thêm:
Này
chư Tỳ kheo! Ðối với ông Sàrìputta thì việc nuôi dưỡng lòng sân hận và oán thù
không thể nào có được. Tâm hồn của Sa môn Sàrìputta giống như quả đất vĩ đại
hay vững chắc như trụ thành môn và yên lặng như một hồ nước trong.
Rồi
Ngài ngâm kệ:
"Chỉ
có quả đất và những cột trụ chống đỡ cửa thành trì mới là những vật không bao
giờ biết sân hận. Với một tâm hồn trong sáng như một bể nước yên lặng thì một
Sa môn có giới đức như thế, vòng sinh tử luân hồi sẽ không còn xoay tròn họ
nữa.”
Có một
câu chuyện khác cũng nói về đức tính này của Ðại Ðức Sàrìputta. Ngay trong thời
gian Tăng Già mới thành lập, một Tỳ kheo tên Kolàlika, nhận thấy sự sốt sắng
chăm lo tổ chức Giáo hội của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna, sinh
lòng ganh tị và hiểu lầm hai vị Ðại đệ tử này có dụng ý gì đây, rồi đến bạch
với Ðức Thế Tôn về "những ham muốn tội lỗi của hai vị ấy.”
Ðức
Bổn Sư liền khuyên dạy:
Này
Kolàlika! Ðừng nên nói như vậy. Ông nên có những ý nghĩ thân thiện và tin tưởng
nơi Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna thì hơn vì họ là những người có hạnh
kiểm rất tốt và đầy lòng Từ bi.”
Nhưng
ông Tỳ kheo lầm lạc không vâng lời đức Phật. Ông cứ khăng khăng với sự kết tội
sai lầm của mình. Chẳng bao lâu sau khắp thân thể ông mọc đầy mụn nhọt, và cứ
tiếp tục như thế cho đến khi ông chết vì cái bịnh này.
Chuyện
đó được khá nhiều chỗ trong kinh nhắc đến. Chẳng hạn như trong các kinh Brahma
SAMYUTTA No 10, kinh Nipàta Mahà Vanga No 10, kinh Anguttara Nikàya V 170 và
kinh Takkàriya Jàtaka No 481.
Chính
sự so sánh về hai câu chuyện vu cáo nói trên đã cho ta biết tầm quan trọng của
tính ăn năn tội lỗi. Không phải vấn đề hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna
chịu nhận hay không chịu nhận sự sám hối của Tỳ kheo Kolàlika, mà chính là
đương sự có thấy rõ ác tâm của mình hay không. Những lời sám hối của ông ta nếu
có đến các Ngài cũng sẽ chẳng làm thay đổi gì thái độ của nhị vị Ðại đệ tử ấy,
vì hai Trưởng lão này lúc nào cũng hỷ xả cho vị Tỳ kheo tội lỗi nói trên vì hai
Ngài không muốn cho ông ta phải nhận hậu quả của nghiệp ác.
Cuộc Ðời Đức Xá Lợi Phất Ph. III-" />
PHẦN THỨ BA: ÐOẠN CHÓT CỦA CUỘC ÐỜI NGÀI TRẢ MÓN
NỢ TRẦN CUỐI CÙNG
Bây
giờ câu chuyện của chúng ta lại trùng vào lúc Ðức Bổn Sư sắp an nghỉ Niết Bàn
(Parinibbàna).
Theo
kinh Mahà Parinibbàna, chương 2, thì khi ấy đức Thế Tôn đang kiết hạ tại làng
Beluva gần thành Vesàli. Khi mùa Hạ chấm dứt, Phật đã rời nơi đó, cũng đi trên
con đường cũ, trở về Jetavana Vihàra (Kỳ Viên Tinh xá).
Phật
về tới nơi, đức Trưởng lão Sàrìputta liền đến đảnh lễ đức Thế Tôn rồi lui lại
vị trí nhật hành của mình. Nhưng hôm nay, không phải như thường lệ, Ngài chợt
có tác ý chẳng muốn làm việc gì khác hơn là hành Thiền trọn ngày. Ðoạn Ngài lấy
chiếc tọa cụ bằng da của Ngài ra, và phủi chân sạch sẽ ngồi lên bằng tư thế
kiết già để nhập sâu vào trong A la hán Thánh Ðịnh.
Ấy là
dấu hiệu xác thân tứ đại của Ngài đang tiến đến thời kỳ tan rã. Trong khi Ngài
sắp quyết định giờ an nghỉ vĩnh cửu của mình, Ngài bỗng nhớ đến đức Phật và
muốn biết xem đức Thế Tôn sẽ nhập diệt sau hay trước những Ðại Ðệ Tử? Và Ngài
quán thấy rằng chính những Ðại đệ tử sẽ nhập diệt đầu tiên.
Sau
đó Ngài bắt đầu quán xét thân thể của Ngài và thấy rõ xác thân ô trược ấy chỉ
chịu thêm được một tuần lễ nữa.
Rồi
Ngài tìm hiểu tiếp "Ta sẽ nhập diệt nơi nào đây? Kế Ngài quán thấy: Ðức
Ràhula sẽ nhập diệt cùng lúc với những vị Thiên Thánh trong từng trời thứ 33,
và đức Trưởng lão Kondanna sẽ nhập diệt tại hồ Chaddanta (vùng Hin sàlaya). Sau
đó là đến phiên nhập diệt của mình.”
Khi
những điều quán thấy như vậy và chấm dứt thì Ngài bỗng nhớ đến mẹ già, và một
tác ý hiếu hạnh lại đến: Ngài nghĩ "Mặc dù bà là mẹ của bảy A la hán (bảy
anh chị em của Ðại Ðức Sàrìputta sau khi xuất gia đều đắc quả A la hán) nhưng
bà không tin tưởng gì đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Không biết hiện tại bà có
chút thiện duyên nào hộ trợ để bà có thể đạt đến sư tin kính nơi Tam bảo ấy hay
không?
Rồi
Ngài dùng Tuệ Nhãn xem xét thấy nhất thời bà đang đủ điều kiện để khai thị được
Trực Giác Ðạo (Abhisamaya), tức mở đầu cho những bước tiến hướng vào Thánh Lưu.
Ngài mừng rỡ vội xem xét tiếp thì thấy người có duyên để cứu độ bà lại chính là
Ngài chứ chẳng phải ai ai khác.
Vả
lại Ngài tự nghĩ "Mình đã bao phen dắt dẫn cả nhân loại lẫn chư Thiên
nương ở Tam bảo mà chứng được Thánh quả, chẳng lẽ mình không thể tẩy trừ nổi tư
kiến sai lầm của chính mẹ mình hay sao?.”
Ðoạn
Ngài quyết định phải tiếp độ bà để đền đáp ơn sinh dưỡng ra Ngài trong kiếp
chót. Nhưng hiện tại sức khỏe của Ngài quả rất kém, bởi Ngài đang chuẩn bị để
nhập Niết Bàn. Thời gian còn lại không cho phép Ngài trì hưỡng thêm nữa.
Nhất
tâm như vậy, Ngài lập tức đến xin phép Ðức Bổn Sư để trở về làng cũ Nàlakà.
Ðồng
thời Ngài cũng đến gặp Ðại Ðức Cunda, yêu cầu người bào đệ này mời 500 vị Tỳ
kheo trong nhóm của Ngài, chuẩn bị y bát để cùng đi Nàlakà. Và Ðại Ðức Cunda đã
làm theo ý muốn ấy.
Do
đó, chẳng mấy chốc Tinh xá dưới sự hướng dẫn của Ðại Ðức Sàrìputta bỗng trở nên
hoạt động. Chư Tăng thì mạnh ai nấy lo thu gọn chỗ ở, chuẩn bị hành lý. Phần
Ngài thì Ngài dọn dẹp căn phòng của mình thật sạch sẽ, rồi Ngài bước ra tận
ngoài ngõ đứng nhìn vào nơi ngụ mà nghĩ rằng "Ðây là cái nhìn cuối cùng
của ta, vì ta chẳng bao giờ trở lại chỗ này nữa. Ðoạn cùng với năm trăm vị Tỳ
kheo, Ðại Ðức Sàrìputta đến đảnh lễ đức Thế Tôn thêm lần nữa, và Ngài nói:
Bạch
đức Thế Tôn. Xin Ngài cho phép đệ tử có đôi lời tán dương ân đức một vị Phật,
vì thời gian nhập diệt của đệ tử đã đến. Ðệ tử sắp từ bỏ kiếp sống trần tục
này.
Rồi
Ngài tiếp
Ôi
một đấng Cứu Thế. Một Thánh nhân vĩ đại vô biên. Từ kiếp sống trầm luân, nhờ
Ngài mà đệ tử đã được giải thoát. Ðệ tử sẽ không còn đi và về trong cõi tội lỗi
nữa. Và đây là lời phụng bái sau cùng đến Ngài.
Kiếp
sống nhục thể của đệ tử đã ngăn lại rồi. Chỉ còn bảy hôm nữa, sau đó Ngũ uẩn
này không kéo dài thêm được. Khi thân thể đã nằm xuống, gánh nặng luân hồi của
đệ tử cũng không còn nữa.
Ôi
đức Bổn Sư! Thực là một hồng ân xin Ngài cho phép đệ tử ca ngợi Ân Ðức của
Ngài. Với lần sau cùng sắp nhập Niết Bàn này, đệ tử đã từ bỏ các ràng buộc hiện
có để tương lai sẽ bất sinh bất tử.
Bây
giờ, chúng ta hãy nhắc lại những lời dạy của đức Phật. Nếu đức Thế Tôn trả lời
là "Như Lai cho phép ông nhập diệt" những kẻ hẹp hòi thù nghịch sẽ
nói rằng: "Ngài tán đồng sự chết.” Và nếu Phật trả lời: "Ðừng nhập
diệt vội" thì họ sẽ bảo Ngài mong muốn sự tiếp tục kiếp vô thường.
Do
đó, đức Thế Tôn đã không nói gì theo hai cách trên. Nhưng Ngài lại hỏi:
Này
Sàrìputta!. Nơi nào sẽ là chỗ nhập diệt của ông?
Bạch
đức Thế Tôn! Trong xứ Magadha, tại làng cũ gọi là Nàlakà, và chính căn phòng mà
ngày xưa đệ tử được sinh ra sẽ là nơi nhập diệt của đệ tử.
Rồi
Ðức Thế Tôn đề nghị:
Này
Sàrìputta!. Hiện ông có đủ thời giờ chăng? Sau lần tiếp xúc này, những huynh đệ
của ông trong hàng Tăng lữ sẽ không có dịp để thấy lại một Tỳ kheo như ông nữa.
Vậy ông nên ban bố cho họ một thời pháp cuối cùng đi.
Ðức
Trưởng lão bèn thuyết một bài pháp, từ sự trình bày những uy lực mầu nhiệm của
Ngài cho tới mọi chiều sâu chân lý tối thượng, rồi trở lại những tầm thường
diễn tả các sự thực về cuộc đời. Cứ như vậy mà Ngài đưa thính giả lên những
pháp tận cùng sâu xa rồi lại cắt nghĩa thấp xuống đến những pháp tầm thường
thấp thỏi. Ngài đã giảng giải Bảo pháp hết sức trực tiếp theo một phương pháp
ước lệ thực tế. Và khi Ngài kết thúc thời pháp, Ngài đã quỳ mọp dưới chân đức
Bổn Sư để tỏ lòng tôn kính. Khi ôm đôi chân Chí Tôn của đức Phật, Ngài đã nói:
Sở dĩ
đệ tử lễ bái những bàn chân này là vì đệ tử đã được đầy đủ sự hoàn toàn của một
bậc Giác Ngộ để được sống trong cái thời gian vĩnh cửu và trong một không gian
bất hoại (Kalpas). Nguyện vọng duy nhất của đệ tử đã được thể hiện đầy đủ. Kể
từ đây về sau, đệ tử sẽ không còn dịp để tiếp xúc hay gặp gỡ đức Thế Tôn nữa.
Giờ là phút nghiêm trọng, vì nó là sự thông tri sau cùng giữa các bậc Toàn
Giác. Cõi Niết Bàn, một cảnh giới không tuổi thọ, không sanh tử, bình thản, tối
thượng lạc, chẳng tạo sinh đau khổ và vô cùng ổn định. Nơi đó hàng trăm ngàn
chư Phật đã bước chân vào, và rồi đây đệ tử cung sẽ nhập vào cảnh đó.
Sau
cùng, đức Trưởng lão khải sám:
Bạch
đức Thế Tôn! Từ trước đến giờ nếu đệ tử có hành vi hay lời nói nào làm Ngài
không vừa ý, xin đức Bổn Sư hãy tha lỗi cho Ðệ tử vì giờ đây là điểm thời gian
mà đệ tử sắp ra đi, không bao giờ trở lại.
Ðức
Phật hiền từ trả lời:
Này
Sàrìputta!. Không một hành vi hay lời nói nào của ông có thể làm cho Như Lai
chẳng vừa ý hay quở trách ông được, bởi ông là một Tỳ kheo uyên bác, có một sức
thông minh vĩ đại, có một Trí tuệ tiềm tàng sắc bén, nhanh nhẹn, sáng sủa và
quảng đại (viết dựa theo kinh Vangisa Saômyutta No. 7 )
Rồi
Phật lại tiếp:
Này
Sàrìputta!. Thật là cao thượng khi một Ðệ tử chân thành khải sám trước Tôn Sư.
Nhưng thực sự lỗi lầm dù chỉ một tiếng nói hay một hành vi vô ý của ông cũng
không có nữa. Với lòng Từ bi, Như Lai luôn luôn chúc lành đến ông. Bây giờ thì
ông có thể lên đường, và hãy tưởng nhớ đến những gì hợp thời.
Ðến
đây chúng ta thấy rằng vào những dịp hiếm có như đã nói. Khi đức Bổn Sư tỏ lời
khiển trách các Ðại đệ tử của Ngài: Ðó không phải là Phật bất bình đối với Ðại
Ðức Sàrìputta về bất cứ chuyện gì. Nhưng ấy chính là Ngài muốn vạch rõ cho đệ tử
ưu tú của Ngài thêm con đường nhận định bổn phận, hoặc thêm phương pháp quán
sát một vấn đề.
Ngay
sau khi đức Thế Tôn cho phép, và Ðại Ðức Sàrìputta đã lìa khỏi đôi bàn chân của
đức Phật theo thể thức tôn kính mà Ngài đã thường làm, thì lúc ấy đại địa cầu
đã làm cho nước trong năm châu bốn biển dao động như chứng tỏ rằng: "Mặc
dù tôi đã chịu đựng được những dãy núi điệp trùng thắt lên thân thể tôi, như
ngọn Meru hùng vĩ, như thành sơn cao ngất Cakkavàla và Himavantu (Hy Mã Lạp
Sơn) chẳng hạn tôi cũng không chịu nổi ngày hôm nay, một ngày mà giới đức Từ bi
vô lượng đã được qui tụ.”
Tiếp
theo đó, bỗng có một tiếng sấm đầy uy vũ vang lên trên tất cả các từng trời, và
không biết một dãy mây khổng lồ từ đâu hiện ra che áng hầu hết không gian, rồi
một trận mưa lịch sử đã đổ ào trên mặt đất.
Ðức
Thế Tôn lại nghĩ: "Giờ đây ta sắp cho phép một vị Chưởng Pháp như
Sàrìputta khởi hành.” Rồi Ngài rời khỏi chỗ ngồi của mình đến một căn phòng đầy
hương thơm và đứng trên một tấm thảm ngọc.
Ðại
Ðức Sàrìputta đi xung quanh căn phòng ấy đến ba lần giữ bên mặt của Ngài về
hướng đức Phật và làm những động tác tôn kính tại bốn nơi khác nhau. Khi ấy thì
một ý nghĩ phát lên trong trí óc Ngài. "Một thời gian vô lượng và một
không gian bất tận không biết đã trải qua bằng bao trăm ngàn đại kiếp (Kalpas)
chính là giờ phút này. Khi ta mọp xuống dưới chân Ðức Phật ANOMADASSI và phát
đại nguyện được gặp vị Thích Ca Như Lai. Nguyện vọng ấy đã được thể hiện và ta
đã gặp Ngài. Lần gặp gỡ đầu tiên ta đã được Ngài thọ ký. Giờ đây là lần chiêm ngưỡng
sau chót của ta đối với Ngài vì trong tương lai sẽ chẳng bao giờ có nữa.”
Sau
cùng, bằng một cử chỉ chắp tay đưa lên cao đầy tôn kính, Ðại Ðức Sàrìputta đã
dời gót khởi hành, mắt nhìn về hướng đức Phật với một tư thế bái biệt. Ngài
bước đi thụt lùi như vậy cho đến khi nào không còn trông thấy đức Thế Tôn nữa.
Và do đó, lại một lần nữa đại địa cầu cũng không thể chịu được, đã rung động
làm cho nước bốn bể năm châu nổi sóng.
Kế
đó, đức Phật bèn nhắn nhủ giữa những hàng Tăng chúng: "Này chư Tỳ kheo!
Các ông hãy đi đi! Ði tiễn chân vị Ðại sư huynh của mình.”
Phật
vừa nói xong thì cả bốn nhóm Tăng Lữ có mặt lập tức nối gót Ðại Ðức Sàrìputta
ra khỏi Kỳ Viên Tinh xá, để lại một mình Phật ở đó.
Riêng
Ðại Ðức Ànanda là người sẵn sàng đưa tiễn đầu tiên, và là người tỏ vẻ u buồn
nhiều nhất. Ngài không ngớt thốt ra những lời thống thiết. (Như đã nói ở hai
trang 44 45).
Dân
chúng sống trong thành Xá Vệ cũng vậy khi nghe tin này, họ đồng kéo nhau ra
khỏi nhà tiễn đưa Ðại Ðức Sàrìputta như một dòng suối dài bất tuyệt. Họ còn
mang cả những vật thơm và tràng hoa để tỏ dấu chịu tang nữa. Cả đoàn dân chúng
đi tiễn chân đức Trưởng lão, người nào cũng tỏ vẻ thổn thức và rơi lệ.
Ðại
Ðức Sàrìputta sau đó đã khuyên nhủ đám đông dân chúng rằng:
Hỡi
quí Phật tử! Ðây là con đường mà không ai tránh khỏi. Rồi Ngài yêu cầu họ trở
về.
Còn
đối với chư Tỳ kheo không cùng đi với Ngài đến Nàlakà, Ngài lại nhắc nhở:
Xin
các vị hãy trở về. Ðiều bần đạo mong muốn nhất là từ nay về sau mong các vị
đừng dễ duôi trong việc chăm sóc đức Phật.
Cứ
như thế, Ngài đã khuyến dụ cả Tăng lẫn tục lần lượt trở lui. Sau cùng chỉ còn
lại nhóm đệ tử riêng của Ngài mới cùng Ngài lên đường theo ý định. Tuy nhiên,
trong số đó vẫn còn những Tăng sĩ đang thổn thức, vừa đi vừa kể lể:
Trước
đây, vị Ðại Ðức của chúng ta dù có đi bao nhiêu chuyến hành trình rồi cũng trở
về, nhưng lần này thì chuyến đi lại là lần ra đi không bao giờ trở lại.
Ðức
Trưởng lão nghe được liền khuyên họ rằng:
Này
các huynh đệ! Các vị hãy giữ tâm thanh tịnh, vì sự luyến tiếc bất cứ hình thức nào
của thế gian cũng đều vô nghĩa mà chỉ tạo thêm cho mình cái khổ.
Dù
sức đang yếu nhưng Ngài đã phải giảng giải cho họ nghe thật nhiều lần họ mới
bình tâm.
Suốt
cuộc hành trình, Ðại Ðức Sàrìputta đều nghỉ lại một đêm ở bất cứ nơi nào có
người nghinh đón. Và như vậy trong một tuần lễ, Ngài đã gieo rắc ân huệ giải
thoát cho khá nhiều kẻ hữu duyên trong chuyến gặp gỡ sau cùng này.
Khi
đến Nàlakà vào một buổi chiều, Ngài bèn dừng chân gần một cây đa ở cổng làng.
Thình lình lúc ấy có người cháu trai của Ngài nhân việc đi ra ngoài nhìn thấy.
Người ấy vội đến đảnh lễ đức Trưởng lão. Xong Ngài bèn hỏi:
Thân
mẫu của bần Tăng có ở nhà không?
Người
ấy trả lời: "Bạch Ngài có ạ!"
Ðức
Trưởng lão liền nói: "Vậy phiền ông đi thông báo giùm cho bà biết là bần
Tăng sắp về và nếu bà có hỏi chi tiết thì hãy bảo với bà rằng bần Tăng sẽ ở lại
trong làng này chỉ một ngày mà thôi! Xin bà cứ sửa soạn căn phòng mà trước đây
bần Tăng đã chào đời, và sắp xếp chỗ ở cho năm trăm vị Tỳ kheo khác nữa nhé.”
Ông
Uparevàta, tên người cháu của Ðại Ðức Sàrìputta, sốt sắng đến gặp mẹ Ngài và
báo rằng:
Thưa
bà Ngài! Sàrìputta đã về.
Nghe
xong bà liền hỏi: "Hiện giờ ông ấy ở đâu?.”
Thưa
bà! Ngài đang ở tại cổng làng.
Ông
ta đi một mình hay có ai nữa không?
Thưa
bà, Ngài về với năm trăm vị Tỳ kheo.
Khi
bà hỏi "Tại sao ông ta về" thì người cháu bèn thuật lại những lời nói
của đức Trưởng lão. Bà liền nghĩ "Tại sao ông ta yêu cầu mình cung cấp chỗ
ngụ cho rất nhiều người như thế? Phí bỏ thời gian còn trẻ để làm một Sa môn, bộ
khi về già ông ta muốn trở về làm cư sĩ hay sao?.”
Nhưng
rồi bà cũng sắp đặt chỗ ngụ đầy đủ như vậy cho đức Trưởng lão và những vị Tỳ
kheo kia. Bà còn đốt nhiều cây đuốc và trao lại cho người cháu đem đến đức
Trưởng lão và chư Tăng để soi đường đi về nhà.
Chẳng
mấy chốc, Ðại Ðức Sàrìputta cùng với chư Tỳ kheo đã vào đến sân nhà bà và Ngài
tự ý bước thẳng vào căn phòng cũ của mình. Sau đó Ngài nhân danh mẹ Ngài mời
tất cả chư Tỳ kheo đến những chỗ dành riêng cho họ để nghỉ ngơi.
Ðại
Ðức Sàrìputta khi ấy chợt cảm thấy một sự đau đớn lan tràn cả thân xác, Ngài
vội vã lên nằm trên chiếc giường của mình và nhập ngay vào Ðại Ðịnh. Những Tỳ
kheo có bổn phận hầu hạ Ngài liền túc trực quan sát. Họ thấy da mặt Ngài lúc đỏ
lúc xanh, nhưng đức Trưởng lão vẫn nằm im thiêm thiếp, phong thái vẫn bình an.
Kế đến từ hạ thân của Ngài thải ra một chất nước. Thì ra Ngài đang bị bịnh đi
tả hoành hành. Những học trò của Ngài phải thay phiên nhau tẩy uế. Cứ một chiếc
thùng đưa ra thì một thùng khác trao vào.
Người
đàn bà Bà la môn thoạt đầu có vẻ đố kỵ những vị Tỳ kheo kia, nhưng khi thấy họ
chăm sóc con bà một cách tận tình và kính trọng thì đâm ra có hảo cảm. Rồi càng
theo dõi bịnh tình của Ðại Ðức Sàrìputta bà càng lo sợ. Lúc bấy giờ chính bà
lại nhận thấy sự có mặt của năm trăm vị Tỳ kheo kia quả là một điều cần thiết
cho bà.
Trong
kinh còn thuật lại rằng: Lúc đó có một chuyện lạ xảy ra: Bốn vị Thiên Vương
cùng hỏi lẫn nhau "Hiện tại không biết vị Ðại A la hán, bậc thông hiểu vạn
pháp kia đang trú ngụ nơi đâu?" Cả bốn vị Phạm Thiên ấy đã lập tức thấy rõ
Ngài đang ở tại Nàlakà, trong căn phòng Ngài được sinh ra trước đây. Ngài lại
đang nằm trên giường bịnh và sắp nhập Niết Bàn.
Liền
đó họ cùng bảo nhau giáng trần để chiêm bái Ngài lần chót. Khi bốn vị Thiên
Vương đã đến phòng bịnh của Ðại Ðức Sàrìputta, họ tự động dùng thiên lực làm
cho cơn đau của đức Trưởng lão giảm xuống, rồi thỉnh Ngài xả Thiền để xin lời
chỉ dạy.
Ðức
Trưởng lão hỏi:
Các
ông là ai?
Bạch
Ngài! Chúng tôi là Tứ Ðại Thiên Vương.
Tại
sao các ông đến đây?
Chúng
tôi muốn hầu Ngài trong thời gian bịnh hoạn.
Nghe
thế Ðại Ðức Sàrìputta bèn nói:
Xin
để mặc tôi. Vì tôi đã có học trò chăm sóc ở đây rồi, các ông có thể đi đi.
Khi
Tứ Ðại Thiên Vương rời khỏi thì có vị vua Trời khác tên Sakka, cũng trong một
vẻ tôn kính như thế, lại hiện đến thăm Ngài. Tiếp theo là những vị Ðại Phạm
Thiên cũng đến vấn an, nhưng tất cả đều được đức Trưởng lão bảo trở về như
trước.
Người
đàn bà Bà la môn, mẹ Ngài, khi thấy những vị chư Thiên đến rồi đi như thế, bèn
tự hỏi: "Họ là ai vậy kìa? Ai mà đến tôn kính con ta như thế rồi lại đi?.”
Bà tới tận cửa phòng của đức Trưởng lão để hỏi thăm Ðại Ðức Cunda về bịnh trạng
của Ngài. Ðại Ðức Cunda vốn thấu rõ ý muốn của Ðại Ðức Sàrìputta từ trước nên
bước vào trong bạch với Ngài rằng:
Bạch
đức Trưởng lão. Vị đại Tín nữ đã đến.
Ðại
Ðức Sàrìputta liền mời bà vô và hỏi:
Vì
sao thân mẫu lại đến đây vào giờ bất thường này?
Bà
trả lời:
Này
con! Thân mẫu đến để thăm con. Con hãy nói cho thân mẫu biết những người vừa
rồi đến thăm con đầu tiên là ai vậy?
Thưa
thân mẫu! Ðó là bốn vị Ðại Thiên Vương.
Nghe
thế bà liền hỏi:
Như
thế thì ông còn cao quí hơn những người đó nữa ư?
Ðức
Trưởng lão đáp:
Họ
chỉ là những bậc hộ trì Phật pháp. Khi đức Bổn Sư đản sinh họ chính là những kẻ
đến hầu hạ đầu tiên. Trong giáo lý Giải Thoát, họ ví như những cận vệ quân luôn
luôn có uy quyền trong tay để bảo vệ một vị Phật Tổ.
Sau
khi họ đi rồi thì vị đến kế tiếp là ai thế?
Thưa
thân mẫu. Ðó là vua Trời Saka.
Này
ông con yêu quí! Ðối với đức vua Trời kia, ông có cao thượng hơn không?
Ðại
Ðức Sàrìputta trả lời:
Thưa
thân mẫu! Ông chỉ như vị Sa di là người theo hầu hạ và mang vác những vật dụng
của một Tỳ kheo. Khi đức Bổn Sư từ trên cõi trời thứ ba mươi ba (Tàvatimsa, Ðao
Lợi) trở về vị trời Sakka đã mang bát và y phục của Ngài để tiễn Ngài từ Thiên
giới đến cõi trần với một lòng tôn kính.
Bà
lại hỏi tiếp:
Và
khi vị trời Sakka đi rồi, những vị đến sau đã dùng hào quang làm sáng cả căn
phòng này là ai vậy?
Thưa
tín nữ thân mẫu. Ðó là các vị Giáo chủ, những Ðại Phạm Thiên, những Thiên Sư
của chính thân mẫu đấy.
Vậy thì
ông là người cao cả nhất. Này ông con quí mến của mẹ, ông còn cao quí hơn những
Ðại Phạm Thiên mà xưa nay thân mẫu hằng ngưỡng mộ ư?
Vâng,
thưa thân mẫu. Vào ngày đức Bổn Sư ra đời, thân mẫu nào biết rằng chính bốn vị
Ðại Phạm Thiên ấy đã đón rước Ngài trong một vuông lụa đầy hào quang vàng chói.
Khi
nghe vậy, mẹ Ngài bèn nghĩ: "Nếu oai lực của người con trai mình như thế
thì oai lực vô biên của đấng Bổn Sư ông còn to lớn biết dường nào?.”
Trong
khi bà đang phân xét như vậy, bất chợt một sự kính ngưỡng nơi Tam bảo bỗng phát
sinh và phỉ lạc tràn ngập cả tâm tư bà.
Ðức
Trưởng lão quán thấy biết rằng sự thỏa thích và niềm tin đã bừng lên trong tâm
hồn người mẹ rồi, đây chính là lúc mà Ngài phải thuyết pháp để báo ơn sinh
thành dưỡng dục. Ngài hiền hòa hỏi:
Này
thân mẫu tín nữ. Thân mẫu đang suy nghĩ gì vậy?
Bà
trả lời:
Thân
mẫu đang suy nghĩ: "Nếu con trai của mình mà có phước hạnh như thế thì ân
đức của Phật Thích Ca Cồ Ðàm còn to lớn biết là dường nào?"
Ðại
Ðức Sàrìputta liền tiếp lời:
Ngay
giây phút đức Bổn Sư ra đời, ngay giờ khắc Ngài chứng được quả giải thoát vĩ
đại và sau khi đạt đến sự Toàn Giác rồi, Ngài bắt đầu Chuyển pháp luân. Trong
ba lần này có hàng vạn hiện tượng cõi đời phải rung chuyển và chấn động. Không
có một đấng nào có phước đức ngang hàng với đức Phật. Không có một đấng nào có
sự an trụ, có Trí tuệ, có hạnh giải thoát, có một độ thuần thục và một sức nhận
thức pháp Giải Thoát cao hơn Phật.
Tiếp
theo, Ðại Ðức Sàrìputta liền cắt nghĩa cho bà một cách chi tiết những lời tán
dương vừa rồi. Chẳng hạn như Ngài nói:
Thực
ra, chỉ có đức Thế Tôn mới là Ðấng Ðại Phúc hơn hết. Vì Ngài đã tròn đủ mười ân
đức như: Ứng Cúng (Araham), Chánh Biến Tri (Sam màsambuddho), Minh Hạnh Túc
(Vijjàcaranasam panno), Thiện Tuệ (Sugato), Thế Gian Giải (Lokavidù), Vô Thượng
Sĩ (Anuttaro), Ðiều Ngự Trượng Phu (Purisadammasàrathi), Thiên Nhơn Sư
(Satthàdeva manussànaô), Phật (Buddho), Thế Tôn (Bhagavà)
Cứ
như thế Ngài đã lần lượt làm cho bà thấu hiểu hết Ân đức Phật đến Ân đức Pháp,
hết Ân đức Pháp đến Ân Ðức Tăng.
Khi người
con cao thượng của bà sắp chấm dứt bài pháp, cụ bà Bà la môn tín nữ kia liền
đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn) một cách không dư sót. Và bà nói:
Này
người con đáng kính của mẹ! Này Ngài Upatissa, tại sao trước đây ông không làm
như thế để dắt dẫn mẹ? Tại sao trong suốt những năm qua ông không ban bố cho mẹ
một sự hiểu biết bất tử này?
Ðức
Trưởng lão bèn nghĩ: "Giờ thì ta đã đền đáp xong công ơn sinh thành của
người mẹ ta rồi, người thiếu phụ Bà la môn mà trước đây dân làng ai cũng tôn
kính và đều gọi là Rùpa Sàri. Chính nhờ bà, ta đã nên người. Pháp bảo mà ta vừa
giảng cho bà thế là đủ.”
Ðoạn
Ngài yêu cầu bà để Ngài nằm yên trong chốc lát.
Khi
bà đã rút lui, Ngài bèn hỏi Ðại Ðức Cunda:
Này
Pháp đệ! Không biết bây giờ là canh mấy rồi nhỉ?
Bạch
Ngài! Trời chỉ mới vừa rạng đông.
Ðức
Trưởng lão liền yêu cầu:
Xin
Pháp đệ hãy bảo chư Tỳ kheo tập hợp lại.
Và
lúc chư Tỳ kheo tề tựu đông đủ, Ngài bèn nói với Ðại Ðức Cunda rằng:
Hãy
khiêng tôi đem đặt vào phòng khách.
Ðại
Ðức Cunda liền vâng lời và làm theo ý muốn của Ngài.
An vị
xong, đức Trưởng lão bèn tuyên bố với chư Tỳ kheo:
Này
các huynh đệ. Trong bốn bốn năm, bần đạo đã cùng sống và du hành truyền đạo với
các vị, nếu bần đạo có một hành vi hay lời nói nào không vừa lòng, xin chư
huynh đệ bỏ lỗi cho tôi nhé.
Tất
cả đồng trả lời: "Bạch Ngài, dù một sự mích lòng nhỏ nhất đi nữa cũng
chẳng bao giờ phát sanh giữa Ngài với chúng tôi, ai đã noi gương Ngài, theo
chân Ngài dù Ngài khuất bóng đi nữa, họ cũng còn ghi khắc hình ảnh của Ngài
trong tâm khảm và như vậy Bạch Ngài: Nếu trước đây chúng tôi có lỗi lầm gì xin
Ngài Từ bi tha thứ! .”
Nói
xong đức Trưởng lão liền góp nhặt những y phục xung quanh Ngài, rồi tự mình phủ
lên mặt, nằm xuống nghiêng mình về phía phải. Sau đó, ngay khi đức Bổn Sư đang
sắp sửa nhập vào vô dư Niết bàn (Maha parinibbana) thì Ngài bèn nhập vào trong
cửu phẩm đại định theo cách tiến và thoái rồi nhiếp lại từ nhất Thiền trở lên
cho tới đệ tứ đại định. Ngay giây phút Ngài đạt đến mức định ấy, thì vừng thái
dương cũng vừa ló dạng ở chân trời và Ngài đã hoàn toàn nhập diệt vào Niết bàn
vĩnh cửu nơi không còn dư sót bất cứ một sự dính mắc đau khổ nào.
Hôm
ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika theo dương lịch là ngày 15 tháng 10.
Cụ Bà
Bà la môn khi chưa hay Ngài đã nhập diệt suy nghĩ rằng: Không biết bịnh tình
của ông con ta ra làm sao? Bà ngồi dậy đi vào trong phòng của đức Trưởng lão
đặt tay lên hai chân của Ngài. Lúc đó Bà mới biết rằng Ngài đã nhập diệt. Bà
liền quì xuống dưới chân Ngài than khóc: "Ôi người con trai yêu quí của
mẹ! Trước đây mẹ đã không biết được phúc đức vô lượng của người. Vì thế mẹ
không tạo được của cải bất diệt trong nhà này, và mẹ đã không biết nuôi nấng,
giúp đỡ đến hàng trăm vị Sa môn chân chánh như giờ đây. Mẹ không tập được hạnh
quí không xây cất được Tinh xá.
Bà cứ
than thở như vậy cho đến khi mặt trời mọc. Lúc vầng thái duơng vừa soi rõ cả
không gian, bà mới cho mời những thợ chạm danh tiếng và ra lệnh mở kho của báu
để lấy ra những khối vàng nặng nhất hầu chi dụng, và chế tạo đồ trần thiết
trong tang lễ.
Sau
đó là những cột phướn và những cửa tam quan được dựng lên ở trung tâm ngôi
làng. Nơi ấy, vị tín nữ đã cho cất một ngôi nhà tế toàn bằng các loại gỗ quí. Ở
xung quanh ngôi nhà tế, bà cho kiến tạo một số tiểu đình giao thông nhau bằng
những hành lang rộng rãi, có mái che, và hai bên có những bao lơn bắt dính vào
nhiều cây cột khảm vàng thật đẹp.
Ðoạn
cuộc tế lễ bắt đầu. Người tham dự chẳng những rất đông họ hàng dân chúng mà còn
có cả các hàng chư Thiên lẫn lộn. Khi số người vĩ đại ấy đã lễ bái theo nghi
thức đủ một tuần lễ, họ bèn dựng lên một lò thiêu cao trọng bằng tất cả các
loại trầm có mùi thơm quí nhất. Nhục thể của Ðại Ðức Sàrìputta được đặt lên
giàn thiêu ấy và châm lửa đốt bằng những bó mồi do những rễ cây Usiva làm ra.
Suốt đêm hỏa thiêu ấy, tất cả mọi người tham dự đều được nghe chư Tăng thay
phiên nhau thuyết pháp. Ðức Trưởng lão Anuruddha cũng có mặt trong đêm lễ hỏa
thiêu này. Ngài chính là người đã đích thân dùng nước hoa dập tắt ngọn lửa sau
cùng. Ðại Ðức Cunda bèn góp nhặt những di hài còn lại và đặt vào trong một
vuông vải lọc.
Trong
khi làm như vậy, Ðại Ðức Cunda lại nghĩ "Ta không nên lưu lại tại đây lâu
vì lúc này là thời gian Ðức Bổn Sư cũng chuẩn bị Nhập Diệt. Ta phải đi báo cáo
cho đấng Toàn Giác biết sự nhập diệt của Ðại sư huynh ta, vị đệ tử mà Ngài gọi
cái tên Sàrìputta như một người thông hiểu vạn pháp.”
Liền
đó, Ngài lấy vuông vải lọc chứa đầy di hài Thánh thể, đồng thời với những di
vật bình bát và y phục của Ðại Ðức Sàrìputta, rồi đến thành Sàvatthì (Xá Vệ).
Trên đường đi, chỉ có ban đêm là Ðại Ðức mới dừng chân tạm nghỉ.
Trên
đây là những mẫu chuyện đã được ghi lại trong chú giải kinh Cunda, thuộc
Satipatthàna SAMYUTTA. Kinh này còn được bổ khuyết do những song kệ trong chú
giải bộ Mahà Parinibbàna Sutta. Sự tự thuật còn giữ lại trong kinh Cunda được
trích dịch như sau:
KINH
CUNDA (SATIPATTHÀNA SAMYUTTA 23)
Có
một lần Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên Tinh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc
(Anàthapindika) trong thành Xá Vệ (Sàvathì).
Khi
ấy Ðại Ðức Sàrìputta lại ngụ trong làng Nàlaka, xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà) và đang
bị bịnh hoạn dày vò thân thể trầm trọng. Vị Sư đệ tên Cunda là người đã hầu cận
Ngài.
Sau
khi Ðại Ðức Sàrìputta tịch diệt, ông Cunda vội nhặt tất cả những di vật như
bình bát, y phục của Ðại Ðức Sàrìputta đem đến thành Sàvatthì, vào tận trong rừng
Jeta công viên của ông, bá hộ Cấp Cô Ðộc. Khi đến nơi, ông đi thẳng đến Ðại Ðức
Ànanda để thông báo trước tiên, và lúc chào kính xong, ông ta bèn bạch với Ðại
Ðức Ànanda rằng:
Bạch
Ðại Ðức. Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt rồi, và đây là bình bát và y phục
của Ngài để lại.
Ðại
Ðức Ànanda liền buồn bã đề nghị:
Này
đạo hữu Cunda! Về việc này chúng ta nên đến yết kiến đức Thế Tôn. Biết đâu khi
hầu Ngài, chúng ta sẽ chẳng được nghe đức Phật dạy dỗ nhiều điều hữu ích?
Ðại
Ðức Cunda lập tức tán đồng: "Vâng Bạch Ngài!.”
Sau
đó họ cùng đến ra mắt đức Thế Tôn. Khi đã đảnh lễ đức Bổn Sư xong, họ ngồi sang
một bên và Ðại Ðức Ànanda liền bạch với đức Thế Tôn rằng:
Bạch
đức Bổn Sư. Ðạo hữu Cunda thuật với đệ tử là Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt
và đây chính là bình bát và y phục của Ngài.
Rồi
Ðại Ðức Ànanda buồn bã tiếp:
Ôi
đức Thế Tôn! Khi đệ tử nghe tin Ðại Ðức Sàrìputta đã nhập diệt, thân thể đệ tử
trở nên bàng hoàng yếu ớt. Mọi vật chung quanh trở nên mờ hẳn đi, và đối với đệ
tử chúng không còn là những vật hữu dụng nữa.
Ðức
Phật dạy: "Này Ànanda!. Sao lại như vậy? Khi Sàrìputta nhập diệt, ông ấy
đã lấy đi của ông phần phước đức hay phần an trụ nào không? Ông ấy đã chia của
ông phần Trí tuệ hay phần giải thoát nào không?
Bạch
Ðức Thế Tôn, không phải như thế. Khi Ðại Ðức Sàrìputta nhập diệt, Ngài không
lấy của đệ tử một phần phước đức, an trụ Trí tuệ hoặc pháp giải thoát nào cả.
Ngài cũng không lấy của đệ tử một phần hiểu biết và nhận rõ con đường giải
thoát nữa. Nhưng bạch Phật Ðại Ðức Sàrìputta là một vị cố vấn Trí tuệ hoàn toàn
của đệ tử. Ðại Ðức đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn, chính Ngài là đấng
dẫn dắt các hàng Tỳ kheo lên Thánh đạo. Chúng đệ tử cũng còn nhớ rõ sự huấn
pháp của Ðại Ðức nó linh hoạt, hữu lạc và thực dụng làm sao.
Này
Ànanda!. Trước đây Như Lai chẳng dạy cho ông rồi hay sao? Tất cả bản chất của
mọi vật gần gũi và yêu mến đối với ta, trước sau gì cũng phải chịu một sự chia
lìa, và do đó đệ tử của Như Lai phải quán tâm về pháp ấy chứ? Những hình thức
nào được sinh ra, được lớn lên, được đoàn tụ, hẳn đều là nguyên nhân của sự tan
rã, sự bại hoại. Những trạng thái đó đến với ta không có báo trước như thế nào
thì cũng sẽ bỏ đi, không cần ta như thế ấy!
Thực
ra, ta muốn bám víu cũng không bao giờ được. Này Ànanda!. Ví như một cành cây
đến lúc không chịu nổi sức nặng của nó, tự nó phải gãy đổ, dù cho thân cây có
cứng rắn đến đâu. Sàrìputta cũng vậy, ông sẽ nhập diệt, tức là ông đã rời khỏi
cộng đồng Tăng lữ dù cho cộng đồng ấy có vĩ đại, có mạnh mẽ đến đâu. Này
Ànanda!. Như Lai xin lập lại cho ông ghi nhớ rằng: Mọi pháp hành thực tiễn hay
không thực tiễn, mọi hình thức vi tế hay thể khối sinh có mặt trên cõi đời này,
tập hợp, phát triển rồi thì phải tiêu hoại. Chúng đã đến như thế nào thì sẽ đi
như thế đó. Ðây chính là pháp Vô Thường vậy!
Này
Ànanda!. Do đó ông hãy tạo cho mình một hòn đảo rắn chắc để khỏi chìm đắm trong
bể khổ. Ông nên từ bỏ những trạng vật vô thường. Ngay cả thể xác của ông, ông
cũng nên cảnh giác để diệt trừ những pháp dễ duôi trên con đường xây đời vĩnh
cửu. Phật giáo sẽ là hòn đảo rắn chắc, sẽ là động lực thoát khỏi sự vô thường,
sẽ là bước chân liên tục để đưa ông vào cảnh giới bất tử.
Chú
giải còn ghi rõ một đoạn thuật sự như thế này:
Khi
ấy đức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay của Ngài để nhận lấy vuông vải lọc chứa di hài
của Ðại Ðức Sàrìputta do Tỳ kheo Cunda đặt vào tận bàn tay của Ngài và Nói:
Này
chư Tỳ kheo. Ðây là những di vật có màu sắc ngọc trai của một Tỳ kheo mà trước
đây không lâu đã xin phép Như Lai để nhập diệt. Ông là người đã tu tập để hoàn
toàn trong một thời gian vô lượng và trải qua hằng trăm ngàn đời kiếp. Công đức
ấy đã tạo ông thành một bậc Sa môn vô cùng xứng đáng. Ông là người đã đạt được
quả vị gần nhất của Như Lai. Và chỉ có ông mới được như thế. Trừ Như Lai ra không
ai có thể bì kịp Trí tuệ của ông, vì Trí tuệ ấy đã được tạo ra do công trình
hàng vạn kiếp. Sự vĩ đại của Trí tuệ ông có thể ví như ánh sáng mặt trời, lúc
nào cũng nhanh chóng tinh anh và tiềm tàng vô cùng tận. Vị Tỳ kheo ấy bao giờ
cũng tri túc, không ham thích dù chỉ là sự ham thích của những bậc Thánh nhân,
không ưa tạo hợp, đầy nghị lực và là người dẫn dắt khả kính của nhiều bạn đồng
đạo, bởi luôn luôn biết tẩy trừ những điều tội lỗi của kẻ khác. Ông là người đã
đi vào trong cuộc sống không gia đình, chối bỏ những của cải ham chuộng của thế
gian mà ông có thể hưởng được như một người thừa tự. Gia tài bá hộ của cha mẹ
ông không phải chỉ to lớn gần đây, mà thực sự đã giàu có qua hằng năm trăm đời.
Ông chính là một Sa môn đích thực và trong vô lượng kiếp qua ông đã thực hành
pháp Ba la mật của Như Lai. Ông đã song hành và kiên nhẫn như quả đất. Với ông,
tất cả đều vô hại, nhưng với ác pháp ông ví như một con vật chúa đoàn có đôi
sừng bén nhọn, sẵn sàng ngăn chận những kẻ xấu có thể gây nguy hại cho đồng loại
của mình. Ôi cao quí thay! Một Tỳ kheo trong Phật giáo bao giờ cũng có một tư
tưởng khiêm nhượng, người con trai cứu thế chính là ông vậy.
Này
chư Tỳ kheo! Các ông hãy xem đây! Di hài của Ðại Ðức Sàrìputta, một vị Thánh
Tăng đầy Trí tuệ, đầy quảng đại, trong sáng, linh hoạt, sắc bén và tiềm tàng.
Sự tri túc, ít ham muốn của ông với đức tính thích ẩn dật, không ưa động hợp và
đầy nghị lực đã làm cho ông trở nên một vị cố vấn lỗi lạc đối với những đồng
đạo, khi họ còn tiến bước trên con đường giải thoát.
Tiếp
theo, đức Phật còn đọc những câu kệ sau đây để ca ngợi vị đệ tử vĩ đại của
Ngài:
Trong
một trăm ngàn kiếp sống qua, người đã năm lần thoát ly xiềng xích gia đình đem
thân hành đạo thiện. Người luôn luôn giữ tâm mát mẻ đối với những kẻ xung
quanh, tình thương bao giờ cũng tỏa rộng. Căn thức được kềm chế rồi thì linh
hồn trở nên cao thượng và ngày nay cũng như mãi mãi về sau này đều được mọi
người tôn kính. Dù ông Sàrìputta đã nhập diệt, tấm gương sáng chói biểu lộ sức
mạnh kiên nhẫn của ông, người sau chỉ còn biết ví như quả đất. Trong Trí tuệ
của ông chỉ có một con đường duy nhất, con đường phát tiết lòng Từ bi, thiện
cảm và mát mẻ một cách êm ả. Quả địa cầu này đã bền vững song song với ông giờ
đây vẫn còn nâng đỡ con người đáng tôn kính ấy. Chư Tỳ kheo hãy hướng về con
đường Sàrìputta mà đi, mặc dù giờ đây ông đã nhập diệt.
Người
ấy thuở thiếu thời đã xa hẳn gia đình chỉ biết giữ trong tâm hồn mình một sự ôn
hòa khiêm nhượng, tìm kiếm một thành trì kiên cố và bình thản bước mãi trên một
lộ trình duy nhất. Sống cuộc đời khất sĩ, từ nơi này đến nơi khác, không màng
danh lợi, không phải để cái tên Sàrìputta được người sau tôn thờ, mà là để soi
sáng đồng loại đang vướng mắc trong vòng đau khổ. Nếu có ai mà suốt đời dù sống
giữa đô thị náo nhiệt hay trong rừng sâu thăm thẳm cũng chẳng làm phương hại
đến một chúng sanh thì người đó chính là Sàrìputta. Chư Phật đã ví ông như một
con vật chúa đoàn uy vũ, suốt đời chỉ biết thương hàng đồng loại. Người đã
thắng tất cả, hoàn toàn làm chủ lấy mình dù đã tịch diệt, người sau có tôn thờ
đến đâu cũng không xứng đáng được.
Sau
khi đức Thế Tôn đã ca ngợi hạnh phúc vô lượng của Ðại Ðức Sàrìputta như thế
Ngài bèn cho xây một Bảo Tháp để tôn thờ di hài ấy.
Tiếp
đó Phật ngỏ ý với Ðại Ðức Ànanda. Ngài muốn đi đến thành Ràjagaha (Vương Xá).
Ðại
Ðức Ànanda bèn thông báo cho chư Tỳ kheo hay để chuẩn bị hành trình với đức Thế
Tôn. Khi đức Phật vừa đến nơi thì Mahà Moggallàna Trưởng lão cũng đã nhập diệt.
Ðức
Phật, một lần nữa, lại nhận những di hài như trước và dạy các hàng Phật tử lập
Bảo Tháp phụng thờ. Xong xuôi Ngài khởi hành từ thành Ràjagaha, qua nhiều đoạn
đường, đi về hướng sông Ganga để đến xứ Ukkacela. Nơi đó Phật dẫn chư Tỳ kheo
đến bờ sông Ganga để thuyết một bài pháp nói về sự an nghỉ Niết Bàn của hai Ðại
Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna mà chư Thánh Tăng sau này gọi là Ukkacela
Sutta.
KINH
UKKACELA
Sau
khi hai Trưởng lão Sàrìputta và Mahà Moggallàna nhập diệt chẳng bao lâu thì có
một lần khi đức Thế Tôn đang ngụ tại xứ Vajji, trong vùng Ukkacela, gần bờ sông
Ganga (Hằng Hà). Nhân vào lúc đức Phật vừa an tọa ngoài trời và có chư Tỳ kheo
ngồi xung quanh, đức Thế Tôn bèn bảo các đệ tử im lặng rồi thuyết rằng:
Này
các vị Tỳ kheo! Sự hội họp này ngày hôm nay dường như có vẻ trống rỗng, vì hiện
tại Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã nhập diệt rồi. Không phải Như Lai cho đó là
một sự trống rỗng thường tình vì dù sao cũng có chư Tăng hội họp nơi đây. Cũng
chẳng phải Như Lai đang thương tiếc Sàrìputta và Mahà Moggallàna, hay nghĩ đến
những nơi nào mà hai Ðại đệ tử ấy đã ngụ mà Như Lai cảm thấy trống rỗng bởi
lòng từ mẫn đối với chư vị đó. Hiện tại xác thân Như Lai cũng yếu chẳng bao lâu
sẽ nhập Niết Bàn. Như Lai làm sao đủ sức khỏe để dắt dẫn toàn thể Tăng chúng
đoạt được mục đích mong muốn? Phải chi Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn hiện
tiền thì con đường tiến tới giải thoát của chư đệ tử có thể đảm bảo hơn.
Trong
quá khứ, những bậc Ðộc Giác, những bậc Toàn Giác và những đấng Thế Tôn cũng đều
có những cặp đệ tử ưu tú như Như Lai đã có Sàrìputta và Mahà Moggallàna vậy.
Trong tương lai chư Phật cũng sẽ có như thế, như hiện tại Như Lai đã có hai vị
đệ tử ưu tú vừa nhập diệt. Ðó là những công đức vô lượng, những nhân vật tuyệt
diệu nhất. Này chư Tỳ kheo! Các ông nên tưởng nhớ đến những Ðại đệ tử Phật như
thế, vì họ đã song hành và hòa hợp trong Ba la mật pháp của vị Bổn Sư. Họ có
thể thay thế đức Thế Tôn để giáo huấn các hàng đệ tử một cách đúng đắn. Ðối với
toàn thể tứ chúng họ rất yêu mến và cũng được kính mến tin tưởng trở lại bởi
mọi người. Này chư Tỳ kheo, họ là hiện thân của những phúc đức kỳ lạ, là hội tụ
của những tâm trí cao thượng nhất. Các ông hãy niệm tưởng đến các bậc hoàn toàn
như thế. Và khi một đôi Ðại đệ tử thuộc hạng này đã nhập diệt, đối với một đấng
Toàn Giác, không có vấn đề âu sầu than tiếc.
Những
hình thức nào được sinh ra, trưởng thành bởi cấu hợp chỉ là những sự biểu thị
cho giai đoạn tan vỡ. Nó đã bắt đầu như thế nào thì nó cũng sẽ kết thúc như thế
ấy, đây là một định luật không ai có khả năng biến đổi được.
Này
chư Tỳ kheo! Do dó các ông hãy tự tạo cho mình một hòn đảo, để tránh làn sóng
sinh tử luân hồi. Hãy tập từ bỏ cái bản ngã vô thực của mình đi, tẩy trừ sự dễ
duôi, phải đem giáo lý giải thoát mà xây dựng cho đời mình.
Chúng
tôi muốn kết thúc CUỘC ÐỜI CỦA ÐẠI ÐỨC Sàrìputta (Hay XÁ LỢI PHẤT)... Bằng
những lời dạy trên đây của đức Phật. Những giáo huấn này vẫn còn âm vang mãi
cho đến ngày nay.
Ðại
Ðức Sàrìputta không phải chỉ được chính Ðức Phật khen ngợi, không phải chỉ được
toàn thể Thánh Tăng thời Phật còn tại tiền tán dương, mà ngày nay Ngài cũng vẫn
được tất cả Phật tử trên năm châu bốn biển tôn kính, xem Ngài như là một Ðại
Bác Học trong kho tàng Phật giáo.
Ðại
Ðức Sàrìputta tịch vào ngày trăng tròn tháng Kattilà, tức nhằm ngày Rằm tháng
mười dương lịch. Còn Ðại Ðức Mahà Moggallàna nhập diệt sau đó nửa tháng, vào
một ngày Uposattha có trăng non. (Theo chú giải Kinh Ukkacela). Rồi nửa năm sau
thì đến ngày nhập Niết Bàn theo thông lệ của chư Phật quá khứ.
Nếu
kể luôn sự nhập Niết Bàn của đức Phật, thì đây là một chuỗi tịch diệt vô cùng
lịch sử của ban nhân vật vĩ đại nhất thế gian.
Khoảng
cách từ Ðại Ðức Sàrìputta viên tịch đến khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn chỉ có
sáu tháng. Trong vòng nửa năm trời đó, chư Thiên và nhân loại đã trải qua một
thời gian đầy quả phúc lẫn mất mát:
Ðầy
quả phúc vì trước khi nhắm mắt, các Ngài dù Thinh Văn Giác hay Toàn Giác, đã
đem tất cả ân đức của mình ban bố hết cho thế gian, bởi các Ngài không bao giờ
mang quả phúc vào trong cõi Vô Sinh Bất Diệt.
Mất
mát vì nhân loại khi đã vắng bóng các Ngài rồi thì muôn ngàn kiếp sống luân hồi
về sau mỗi ngày một tiến sâu vào cảnh hỗn mang đen tối.
Một
điều đáng cho chúng ta lấy làm thắc mắc là tại sao các Ngài không nhập diệt
bằng một lịch trình xa hơn, nghĩa là cách nhau đôi ba năm nay càng lâu càng
tốt, để cho chúng sinh mê muội được nhờ. Ðàng này các Ngài đã lần lượt ra đi
chỉ trong vòng sáu tháng?
Sự
giải đáp chỉ có thể tìm thấy trong Kinh Milanda Panhà (Mi Lan Ðà Vấn Ðạo): Theo
đó, đức Na Tiên Tỳ kheo đã giảng giải cho vua Mi Lan Ðà nghe rằng:
Tâu
đại vương! Trong nhiều trăm ngàn kiếp qua, đức Trưởng lão Sàrìputta đã từng làm
thân phụ của vị Bồ Tát. Có khi là ông nội, có khi làm chú bác, anh em, con
cháu, hoặc bạn bè của chính Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca.
Do
vòng nhân duyên tiến hóa ấy, liên kết họ cùng thời từ nhiều kiếp trước. Cho nên
đến kiếp sau cùng, sự gặp lại của ba vị chỉ là giai đoạn viên mãn tự nhiên, và
tuổi thọ nhục thân của họ phải suýt soát nhau. Còn cái vòng sinh tử trước đó
chính là những nấc thang để nâng họ lên cõi bất tử.
Trong
kiếp sống sau cùng, các Ngài chỉ còn một việc phải làm là thắp sáng ngọn đuốc
giải thoát một cách vinh quang để chiếu sáng cho cõi đời.
Sức
sáng ấy bây giờ và mãi mãi về sau vẫn còn tiếp tục.
PHẦN THỨ TƯ: PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Những
kinh đã được Ðại Ðức Sàrìputta thuyết ra bao gồm nhiều đề tài khác nhau có liên
hệ với đời sống phạm hạnh. Nó diễn tả từ những tư thức đơn giản đến những điểm
sâu xa trong giáo lý và sự thực hành Thiền Ðịnh của nhà Phật. Một bảng kê khai
những bài pháp ấy với sự trình bày tổng quát về mỗi đề tài sẽ được đưa ra dưới
đây. Vị trí sắp xếp của chúng trong Kinh Tạng không chỉ rõ một hệ thống đạo sử
nào để người Phật tử có thể định được thời gian tính của nó.
Tuy
nhiên, cũng có một số ít nội dung các cuốn kinh nói về những biến cố đặc biệt
đã xảy ra và được ghi nhận trong thời gian đức Phật còn sinh tiền và đang lãnh
đạo Giáo hội.
Pháp
của Ðại Ðức Sàrìputta trong Majjhima Nikàya
PHÁP
SỐ 3: NHỮNG KẺ THỪA HƯỞNG PHÁP BẢO (DHAMMA DÀYÀDA)
Sau
khi đức Phật đã thuyết về "Kẻ thừa hưởng Pháp bảo và loại người đáng thừa
hưởng của cải trên đời", Ngài bèn vào tư thất an nghỉ. Ðại Ðức Sàrìputta
liền tiếp tục giảng giải cho chư Tỳ kheo về đề tài "Làm thế nào để kềm chế
lấy mình và tại sao không kềm chế được?.”
Sau
thời pháp là lúc đức Bổn Sư nhập định họ bèn theo cách đó để luyện tập cho tư
tưởng mình trở nên thuần thục và thanh tịnh hầu loại trừ những điều phóng tâm
lẫn chán nản. Kết quả là tâm họ đã trở nên trong sáng và ưa thích pháp cô tịch.
Lý do, Ngài đã nói rõ sự nguy hiểm của mười sáu Tùy phiền não trong tâm và chỉ
cho Tăng Chúng biết được con đường Trung đạo, con đường có thể tận diệt tất cả
các pháp xấu xa. Hay nói cách khác đó là Bát Chánh Ðạo.
PHÁP
SỐ 5: SỰ CHẤM DỨT TỘI LỖI.
Trong
số bốn hạng người:
Kẻ
gây tội và biết rằng đó là tội.
Kẻ có
tội mà thành tâm ăn năn quyết lòng chừa bỏ.
Kẻ
không làm tội và ghê sợ tội lỗi.
Kẻ
không tội lỗi mà luôn luôn tinh tấn tiêu diệt những nguồn gốc gây ra tội lỗi.
Nếu
phạm tội mà biết rằng đó là tội hoặc khi mình dễ duôi phạm nhằm tội lỗi rồi sau
đó tự ăn năn, vẫn còn có thể giác ngộ, hơn là làm tội mà không biết tội hay có
tội mà không ý thức được nó.
Ðại
Ðức Sàrìputta đã giảng giải rõ ràng tại sao Phật giáo lại phân tích như vậy.
Trong bài pháp này, Ngài còn chỉ rõ tầm quan trọng trong việc tự kiểm soát lấy
tư tưởng và làm sao tạo cho nó sự phát triển.
PHÁP
SỐ 9: SAMMÀDITTHI SUTTA
Nói
về Chánh Kiến (Sammàditthi) xin xem cuốn "Chánh Kiến Trong Ðạo Phật.”
PHÁP
SỐ 28: MAHÀ HATTHIPÀDA PAMA SUTTA
Ðó là
bài pháp khá sâu sắc, nói về "Sự so sánh những bước chân voi"
(Hatthipàda) đã được nhắc đến trong đoạn trước.
PHÁP
SỐ 45: MAHÀ DEVALLA SUTTA
Bài
pháp thuộc loại thâm thúy này nhắc lại sự Minh Giảng của Ðại Ðức Sàrìputta
trước một số câu hỏi do Ðại Ðức Mahà Kotthika đặt ra. Ðại Ðức ấy cũng là một
trong những người đã đạt được Tuệ Phân Biệt.
Trưởng
lão Sàrìputta đã tạo cho cuộc đối đáp trở nên vô cùng tuyệt diệu với những câu
hỏi sáng sủa và những đoạn trả lời thâm thúy, sâu xa đã làm cho thính giả lẫn
người luận đạo chấp nhận một cách thích thú mọi khía cạnh trong chiều sâu của
Trí tuệ. (Dĩ nhiên là bắt đầu bằng Chánh Kiến và kết thúc bằng Chánh Ðịnh.)
PHÁP
SỐ 69: GULISSÀNI SUTTA
Ðây
là bài pháp thuyết cho ông Gulissàni nói về phương diện trông nom cũng như thực
hành Pháp bảo của các Tăng sĩ trú ngụ trong rừng. Ðại Ðức Mahà Moggallàna (Mục
Kiền Liên) đã đặt nhiều câu hỏi để bàn luận. Ðức Trưởng lão còn xác nhận rằng
"Không phải riêng những Sa môn ẩn tu trong rừng mà ngay cả các Tăng sĩ ngụ
trong những vùng phụ cận thành phố cũng phải thực hành cùng một phận sự mà Pháp
bảo đã dạy rõ.”
PHÁP
SỐ 79: DHÀNANJÀNI SUTTA
Ðại
Ðức Sàrìputta giảng giải cho ông Bà la môn Dhànanjàni nhiều phận sự khác nhau
của một người cư sĩ, là không phải chỉ lo sám hối những ý nghĩ hay hành động
sai lầm. Cũng không phải cứ lo làm sao tránh khỏi những hậu quả đau khổ của
những tội lỗi đã tạo từ trước sẽ đem đến trong tương lai.
Khi
chưa lâm chung, còn nằm trên giường bịnh được nghe bài pháp ấy, ông đã tỉnh ngộ
trút hết những phiền toái trong tâm, rồi một lòng tin nơi Ðại Ðức Sàrìputta,
niệm tưởng đến ân đức của những bậc Phạm Hạnh. (Như đã nói ở đoạn trước).
PHÁP
SỐ 114: ASEVITABBA SUTTA
Pháp
nói về điều nên thực hành hay chẳng nên thực hành (Sevitabba: Nên. Asevitabba:
Chẳng nên).
Ðại
Ðức Sàrìputta nghiên cứu kỹ lưỡng những lời dạy tóm tắt của đức Phật về các
pháp nên thực hành, nên nuôi nấng hay phát triển. Và những pháp nào không nên
thực hành như thế. Pháp này được trình bày một cách có liên hệ với những hành
động, lời nói và ý nghĩ của con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những đối cảnh
của Lục căn.
PHÁP
SỐ 143: ANÀTHAPINDIKA SUTTA
Pháp
thuyết cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika): Ðại Ðức Sàrìputta đã đến bên
giường bịnh để giảng giải cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc nghe về sự gìn giữ tâm hồn,
không cho dính mắc vào những âu lo cố hữu.
Ngài
hướng dẫn bịnh nhân lần lượt từ căn thức một và dạy ông theo lối kiểm soát:
"Này người thợ sinh diệt. Ta không còn âu lo ở con mắt, không còn âu lo ở
lỗ tai, không còn âu lo ở cái lưỡi, không còn âu lo ở lỗ mũi, không còn âu lo ở
làn da xúc cảm nữa. Vì ngươi đã không bao giờ ngừng nghỉ việc tạo ra xác thân ô
uế này. Nó đã chứa trong đó sáu cái nguy hiểm mà giờ đây ta đã biết rồi. Chúng
đã được sáu đối tượng là hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngọt và sự xúc tiếp
vừa lòng nuôi nấng. Sáu sự cấu hợp ấy đã tạo ra sáu cảm nhận đầy vô thường, đầy
phiền não.”
Ông
cứ tiếp tục quán xét như vậy, ghi nhớ theo thứ tự từ Lục thức, Lục nhập (hay
còn gọi là Lục thọ), rồi đến những biến thức trong Thiền tâm. Những hình thức
gồm sự tan rã từ một thế giới này sinh ra một thế giới khác. Và tất cả các cảnh
giới cũng thế. Nghĩa là thoát ly khỏi những màng lưới ràng buộc của Danh và
Sắc.
Tóm
lại, chỉ có phép quán xét để an tịnh thì mới nên thực hành cho thuần thục, thấm
nhuần bởi khi một người sắp chết, sự bắt đầu cho một kiếp sống tiếp theo chính
là ở chỗ tâm trí an trụ, các thức sẽ duyên theo đó mà tiến sinh.
Pháp
của Ðại Ðức Sàrìputta trong Dìgha Nikàya
PHÁP
SỐ 28: SAMPASÀ DANIYA SUTTA
Ân
đức trọn lành là nguồn phát sinh niềm tin tưởng. Ðại Ðức Sàrìputta đã ca ngợi
một cách hùng hồn ân đức của chư Phật trước sự hiện diện của đức Bổn Sư, khi đó
Ngài đang thuyết về những phẩm tính vô song (Anuttariya) của những bậc Toàn
Giác. Ðó là sự phát biểu đúng lúc để nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối của Ðại
Ðức Sàrìputta đối với Ðức Phật. Ðây có thể xem như một sự bổ túc cho bài pháp
được đức Phật mệnh danh là "Tiếng Gầm Con Sư Tử" (Sìhanada) của Ðại
Ðức Sàrìputta. Nội dung của nó hoàn toàn trùng hợp với phần đầu của một đoạn
giảng giải về Giáo Lý Giải Thoát đã được ghi trong kinh Mahà Parinibbàna.
PHÁP
SỐ 33: SANGÌTI SUTTA
Ðây
là một bài pháp do Ðại Ðức Sàriputta nghe đức Phật thuyết rồi lập lại một cách
thuộc lòng trong kinh Sangìti Sutta.
PHÁP
SỐ 39:
Một
bài pháp gồm 10 chi, cắt nghĩa rộng rãi, đã được nói một cách tóm tắt ở đoạn
trước (Pháp này nằm trong kinh Dasutara Sutta).
Pháp
của Ðại Ðức Sàrìputta trong Anguttara Nikàya
Những
số la mã sau đây là số đánh trên các cuốn sách (Nipàta) và những "số
thường" là số những bài kinh. Sự phân chia các kinh phần trong Anguttara
Nikàya chỉ danh số như vậy.
II.
37. SAMACITTA SUTTA
Pháp
này nói về sự Nhập Lưu (Kể từ Tu Ðà Hườn trở lên). Và các Thánh chỉ tái sinh
lại một lần mà thôi. Pháp ấy còn nêu rõ điều kiện tái sinh của chư Thánh A Na
Hàm nữa.
III.
21
Pháp
Phân Biệt những đấng Cao Thượng (Aniya Puggala). Thân Biệt Chứng là hậu quả của
Chánh kiến hoàn toàn (Ditthipatto) và được giải thoát là nhờ Ðức tin vững chắc
(Saddhà Vimutto).
IV.
79
Ðại
Ðức Sàrìputta bạch hỏi đức Phật tại sao lòng can đảm của một số người lại bị
chướng ngại pháp đánh bại. Có một số người khác nhờ lòng can đảm ấy đã chiến
thắng được chướng ngại pháp, và những thành quả đôi khi còn vượt khỏi sự mong
muốn của họ. Ðức Phật trả lời rằng: "Sức mạnh chính trong lòng can đảm là
có Tâm đại lượng.” Nếu thiếu đức tính đó thì lòng can đảm không thể bền bỉ để
vượt qua mọi ác pháp. Ðó là điều mà chư Phật đã chỉ rõ và hằng được các hàng
Ðạo sĩ hay Bà la môn thực hành từ lâu.
IV.
156
Pháp
này nói về bốn điều Thái quá và bốn Trực giác tính. Bốn điều Thái quá thì làm
nguyên nhân của sự biến mất những trạng thái tinh thần lành mạnh. Còn bốn Trực
giác tính thì khiến cho hành giả biết được cách chắc chắn là họ sắp mất thiện
tâm. Ðức Thế Tôn gọi bốn điều Thái quá là pháp Hư Hỏng và bốn Trực giác tính là
nền tảng của Trí tuệ. Vậy bốn điều thái quá ấy là gì?
Là
tham quá độ. Oán giận quá độ. Dối trá quá độ. Ngu dốt (hay Vô minh) quá độ.
Người mắc phải bốn điều thái quá ấy rồi thì khó đạt đến quả Giác Ngộ.
Ngược
lại nếu một người có bốn Trực giác tính thì khi những ác pháp như tham, sân,
si, dối trá phát sinh họ lập tức cảnh giác không để cho chúng lộng hành thái
quá. Rồi từ đó họ tinh tấn dũa mòn chúng lần lần để trở lại làm chủ được lý trí
và phát triển Trí tuệ. Họ chắc chắn sẽ chứng quả Giải Thoát.
IV.
167
Nói
về sự không dễ duôi, không lười biếng và hạnh tinh tấn. Ðó là những pháp phát
triển vững chắc trên con đường Giải Thoát.
IX.
171
Ðại
Ðức Sàrìputta phân tích về một lời dạy tóm tắt của đức Phật bao gồm cả những
trạng thái Chấp ngã (Attabhàva) và đặt một câu hỏi bổ túc. Ðức Phật đã giảng
giải rành câu hỏi đó và được Ðại Ðức Sàrìputta tái thuyết lại trong kinh
Samacitta Sutta.
IX.
172
Ðại
Ðức Sàrìputta nói rõ về sự Ngài đã đạt đến bốn Tuệ phân biệt (Patisambhidàĩàna)
hai tuần lễ sau khi Ngài được xuất gia (Nghĩa là cùng lúc Ngài đắc quả A la
hán). Ngài công bố như vậy cốt để đức Phật xác nhận.
Phần
Pháp luận với Ngài Mahà Kotthika về những giới hạn của hai pháp có thể cắt
nghĩa được là pháp Ngoại Trần và pháp Nội Thức (Phassayatana). Sâu xa hơn nữa
là nói về thế gian có đặc tính phân tán và sau khi phân tán, hình thức của cõi
người sẽ biến thể ra sao. Theo đó, Ngũ trần dù nằm trong trạng thái vi tế...
(Tiểu thế giới) hay trong khung cảnh hoàn vũ (Ðại thế giới) đều luôn luôn vô
thường. Khi Ngũ trần vô thường thì Ngũ căn cũng không thể nào vững bền được.
Kết quả, Lục thức, nhất là Ý thức là những cái hoàn toàn giả tạo. Ðại Ðức
Sàrìputta nhắc lại lời Phật dạy: "Ai có Chánh Kiến thì nhận thức được như
thế và sẽ chắc chắn giải thoát.”
IV.
175
Nói
về sự cần thiết trong việc kiểm soát được cả hai cảm thức: Cảm thức ngoại cảnh
và cảm thức nội tâm. Ðồng thời với khả năng suy luận một cách hợp lý
(Vijjàcarana) sẽ giúp cho hành giả chấm dứt được một số tà ý hay phiền não.
IV.
179
Pháp
đề cập về những động lực hỗ trợ để đạt đến Niết Bàn, và những chướng ngại cản
trở sự tiến tới mục tiêu ấy.
V.
165
Nói
về năm nguyên nhân tại sao người đời thường chất vấn một vị Sa môn với một ý
nghĩ khinh thường rằng: "Nếu ông ấy trả lời câu hỏi một cách đúng đắn thì
tốt, bằng không ta sẽ dạy lại cho ông ta cách giải đáp.” Ðây chính là một ý
định tội lỗi do vô minh ngã mạn gây ra. Ác tính đó chỉ có ở hạng người phàm tục
chứ không bao giờ phát sinh trong tâm một vị Thánh hay Bồ Tát.
V.
167
Pháp
nói về phương pháp để thanh lọc các hàng Tăng lữ trong Giáo hội.
VI.
14, 15
Nói
về hai nguyên nhân hằng gây ra hậu quả trong giờ phút lâm chung là trạng thái
tâm tính êm dịu hay bức rức. Ý nói cái chết diễn ra một cách bình thản hay đau
khổ.
VII.
41
Ðại
Ðức Sàrìputta giảng rằng một Sa môn khi đã có những sức mạnh siêu phàm. Nếu vị
ấy vui mừng tán dương sức mạnh đó vững chắc như tảng đá, tinh túy như một chất
nước lấy ra từ những đóa hoa, có sức thiêu đốt như lửa, bàng bạc mọi nơi như
không khí. Hoặc giả Sa môn ấy, cứ xem thường nó, coi như không có gì cả thì
năng lực siêu phàm ấy vẫn có thể hỗ trợ hành giả một cách hữu hiệu như nhau.
VII.
66
Nói
về cử chỉ tôn kính lễ bái, Ðại Ðức Sàrìputta thuyết: "Những hành vi này có
thể giúp cho người Phật tử quen đi một số động tác phạm hạnh. Nhất là thói quen
ấy lại hướng về đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Ngoài ra; cũng có thể hướng về
tư tưởng độ thế hay mong muốn lợi tha (Patisanthàra).”
IX. 6
Nói
về phương pháp tìm hiểu tính tình dân chúng của một địa phương xuyên qua y
phục, vật thực, chỗ ở, làng xóm, thành thị hay xứ sở v.v... Một Sa môn trước
khi truyền bá giáo lý giải thoát vào một vùng mới cần phải hiểu rõ như thế.
Nghĩa là sứ giả của Như Lai khi ở trong một quốc độ nào phải thấy quốc độ ấy
thích hợp với mình.
IX.
11
Một
tiếng "Gầm sư tử" thứ hai của Ðại Ðức Sàrìputta được trình bày, trước
sự chứng minh của đức Phật ngay khi có một Tỳ kheo cáo oan về Ngài. Khi ấy Ðại
Ðức Sàrìputta chỉ mỉm cười, rồi công bố cho mọi người biết những pháp Giải
Thoát khỏi sự oán giận là hai đặc tính không cố chấp trong bản ngã và tâm chẳng
bao giờ muốn làm hại kẻ khác của một số Ðại Sa môn.
IX.
13
Ðây
là bài luận đạo của Ngài với Ðại Ðức Mahà Kotthika về mục đích của đời sống
Thánh Tăng.
IX.
14
Ðại
Ðức Sàrìputta chất vấn Ðại Ðức Sàmiddhi về những yếu pháp giải thoát, rồi cống
hiến thêm một số chứng minh của mình để bổ túc.
IX.
16
Một
đoạn trình bày về tính ngay thẳng tự nhiên của Ðại Ðức Sàrìputta dù cho đối với
những kẻ đối lập cũng vậy. Ngài đã cải chính một câu nói của Ðề Bà Ðạt Ða
(Devadatta)... Vì Ngài cho rằng câu nói ấy có thể bị vị Tỳ kheo đến thuật lại
với Ngài thêm bớt. Sau đó đức Trưởng lão đã thuyết cho vị Tỳ kheo ấy nghe về
một tư tưởng vững chắc đã được phát triển đầy đủ. Tư tưởng ấy không thể bị lung
lay bởi bất cứ ác ý nào hết.
IX.
84
Ðề
cập về Niết Bàn (Nibbàna), một cứu cánh được diễn tả bằng những từ ngữ như Vô
Sinh, Bất Diệt, Tịnh Lạc, Chẳng Cấu Hợp, Không Ðiều Kiện v.v... Tất cả đều vượt
khỏi cảm thức của con người.
X. 7
Ðại
Ðức Sàrìputta mô tả về những trạng thức Thiền định của Ngài. Cuối cùng bài mô
tả ấy Ngài đã nói rõ điểm hội tụ của những trạng thức ấy là Niết Bàn, là sự
chấm dứt sinh diệt.
X. 65
Bài
pháp có tựa "Tái sinh là một nỗi khổ và không tái sinh là một hạnh phúc.”
X. 66
Nghe
được giáo lý của đức Phật, làm được lời Phật dạy là hạnh phúc. Không thỏa thích
trong việc nghe giáo lý và không thỏa thích trong sự thực hành Phật giáo là một
điều bất hạnh và thoái hóa.
X.
67. 68
Những
nguyên nhân làm hăng hái hay thối chí trong việc phát triển thiện tánh.
X. 90
Nói
về mười sức mạnh để giải thoát những ác pháp ngấm ngầm trong tâm mà một vị A la
hán lúc còn phàm đã nhờ nó mà đạt tới Thánh quả. Mười sức mạnh này chỉ hiển
hiện khi hành giả đã vững chắc trong Thiền Ðịnh, nhất là trong Minh Sát Tuệ.
Ðại Ðức Sàrìputta phân tích rõ: Sự thanh lọc nội tâm không phải chỉ mang lại sự
yên ổn, mà còn đạt được trạng thái trong sáng nữa.
Pháp
của Ðại Ðức Sàrìputta trong Samyutta Nikàya
No 24
Ðại
Ðức Sàrìputta chỉ dẫn phương pháp thoát khỏi vòng luân hồi bằng cách nói rõ
trong sự sinh tử ấy khổ não không phải chỉ phát sinh đơn phương từ nội tâm của
một chúng sinh, mà nó hằng phát sinh song song từ tâm của một chúng sanh khác
hay từ ngoại cảnh, ở đây ám chỉ sự ảnh hưởng tâm tánh giữa người này với người
kia và những khoái lạc Ngũ trần.
No 25
Bài
pháp này cũng đồng nội dung với số 24, nhưng có thêm hai chi tiết là sự vui và
sự khổ (Sukha Dukkha).
No 31
Nói
về những điều kiện để kéo dài kiếp sinh tồn. (Ý đề cập về những thể chất và vật
thực).
No 32
Kàlàra
Sutta: Khi được đức Phật chất vấn, Ðại Ðức Sàrìputta đã bạch rằng: Tuệ phân
biệt đã giúp Ngài hiểu rõ sự đắc quả A la hán và cũng nhờ đó Ngài nhận thấy
nguyên nhân của sự Sanh đã bị tận diệt. Hành động trong hiện tại của một vị A
la hán (hay Phật) sẽ không có quả trong tương lai.
Ðại
Ðức Sàrìputta còn nói "Tận diệt tức là sinh vĩnh cửu" (Khìnà Jàti).
Sau đó, Ngài tiếp tục đáp những câu hỏi sâu xa hơn của đức Phật về nguyên nhân
và khởi đầu của sự SANH, rồi đến sự TRƯỞNG THÀNH cùng những trạng thức phát
triển phụ thuộc khác dự phần vào việc lập thành những cảm nghĩ.
Ðức
Trưởng lão đã tiết lộ: Chính tuệ thấy rõ mọi vật đều Vô Thường một cách chắc
chắn, không nghi ngờ đã giúp Ngài ghê sợ các khoái lạc từ Ngũ trần (Nandi).
KHANDHA
SAMYUTTA.
No 1
Ðại
Ðức Sàrìputta cắt nghĩa tỉ mỉ về lời nói sau đây của đức Phật: "Ta không
thể cản được sự đau đớn của xác thân, nhưng ta có thể sửa trị nổi những đau khổ
của linh hồn.”
No 2
Bài
pháp nói về sự huấn luyện của Ðại Ðức Sàrìputta cho những Tỳ kheo sắp đi hành
đạo tại những vùng biên giới xa xôi. Vì những Tỳ kheo này sẽ phải đối phó với
nhiều câu hỏi do những kẻ ngoại đạo chất vấn. Cuối thời pháp Ngài đã tóm lược:
Làm thế nào để tẩy trừ được tất cả các tính tham, sân, si trong Ngũ uẩn, đó
chính là đề tài mà quí vị có thể giảng cho bất cứ ai nghe về Giáo pháp của chư
Phật.
No
122, 123
Nói
về tầm quan trọng của sự hiểu biết rằng "Ngũ uẩn chỉ là một khối giả
tạo" Nếu một người đang trau giồi giới hạnh mà ý thức được như vậy thì có
thể đạt tới Thánh Lưu. Còn một bậc đã nhập Thánh Lưu rồi mà lấy Vô thường, Khổ
não, Vô ngã làm đề mục thì từ bậc Thánh thấp họ sẽ tiến lên bậc Thánh cao hơn.
Riêng một vị A la hán mà có thói quen quán tưởng thường xuyên như vậy thì vị A
la hán ấy có thể đạt được Trí tuệ viên giác.
No
126
Bài
pháp nói về sự ngu muội và sự hiểu biết khi một người may mắn gặp được Pháp bảo
của đức Phật.
SÀRÌPUTTA
SAMYUTTA
No 1
9
Ðây
là một loạt chín bài pháp đã được Ðại Ðức Sàrìputta thuyết về sự phát triển đầy
đủ trong chín phẩm trật Thiền Ðịnh, nghĩa là từ nhất Thiền đến trạng thái chấm
dứt mọi ý nghĩ, mọi cảm thức, Ngài còn bổ túc thêm: Trong khi tiến hóa như vậy,
hành giả phải coi chừng sự xuất hiện của Ngã Mạn. Vì theo tâm ý phàm tình, khi
một người đạt được bất cứ một phẩm hạnh gì, kẻ ấy thường cho là quan trọng, và
do đó cái TA lại được "Bổ Dưỡng.”
No 10
Một
lần nọ, gần thành Ràjagaha (Vương Xá). Sau khi đi khất thực, Ðại Ðức Sàrìputta
đã ngọ thực gần một trường thành. Lúc ấy có một nữ đạo sĩ tên là Sucimukhì tới
gần Ngài và hỏi:
Thưa
Ngài! Trong khi thọ thực Ngài có bắt buộc phải quay mặt về một hướng hay một số
hướng nào cố định như những đạo sĩ (dĩ nhiên ngoài Phật Giáo) hay không?
Ðại
Ðức Sàrìputta vui vẻ trả lời:
Bần
Tăng không hướng vào bất cứ một hướng nào nhất định hết. Tất cả phương hướng
đối với bần Tăng đều như nhau. Một Sa môn khi đã kiếm được vật thực bằng một
cách chân chánh rồi thì trước khi thọ hưởng chỉ nghĩ đến cha mẹ hoặc Thầy Tổ.
Nếu biết những bậc ân nhân ấy ở phương nào thì Sa môn có thể hướng về phương ấy
để cúng dường. Nhưng hành động đó không phải là một ngưỡng vọng phương hướng,
mà chỉ đơn giản là một phạm hạnh tri ân.
Nữ
đạo sĩ Sucimukhì nghe những lời lẽ chân chánh ấy và nhìn thấy phong độ an tịnh
của Ðại Ðức Sàrìputta đã kinh cảm một cách sâu xa. Sau đó bà liền đi từ đường
này sang đường khác, phố nọ đến phố kia mà truyền rao lên rằng: "Những Tu
sĩ phái Sakya (Thích Ca) nuôi mạng rất chân chánh. Họ dùng những vật thực mà
không ai có thể chê trách được. Xin quí vị hảo tâm hãy cúng dường cho họ.”
(Nghệ
thuật giảng đạo của Ðại Ðức Sàrìputta trong bài này, theo Dìgha Nikàya 31, cũng
có khả năng cảm hóa như phương pháp cuả đức Phật trong kinh Sìgàlavàda).
SÀLÀYATANA
SAMYUTTA
Nội
dung bài pháp này có thể tóm lược như sau: "Chính dục vọng trong những đắm
say trần cảnh (Lục trần) đã tạo nên vòng sinh tử luân hồi, chứ không phải do
nơi Lục căn và đối tượng của chúng là Lục trần.”
JAMBUKHÀDAKA
SAMYUTTA
Kinh
gồm phần giải đáp đến một số câu hỏi của người cháu Ðại Ðức Sàrìputta tên là Jambukhà
Daka. Ông ấy là một đạo sĩ thuộc phái Paribbàjaka. Nội dung có thể chia ra làm
hai phần:
No 1:
Giảng
giải về đặc tính giải thoát tuyệt đối của Niết Bàn.
No 2:
Phương
pháp để chứng đạt được phẩm A la hán, trình độ Thánh tâm đã tẩy trừ hết tham
lam, sân hận, và si mê.
No 3
16:
Ðại
Ðức Sàrìputta trả lời những câu hỏi về "Những kẻ truyền bá chân lý. Mục
đích của đời sống thanh tịnh và các Ðấng đã tìm được nơi an nghỉ vĩnh cửu.” Nổi
bật nhất là Ngài đã làm cho thính giả chú ý và ghê tởm những cảm não và si mê,
những xấu xa nhơ bẩn mà bản tâm con người bị phủ kín. Rồi Ngài nói đến các pháp
mà người đời khó làm được trong giáo lý của đức Phật.
INDRIYA
SAMYUTTA
No
44.
Có
một lần được đức Phật gạn hỏi, Ðại Ðức Sàrìputta đã bạch rằng: "Chính nhờ
sự không trông cậy vào đấng Siêu Thoát và từ kinh nghiệm của bản thân, Ðại Ðức
bỗng hiểu được năm sức mạnh của tâm linh (Ngũ lực). Nghĩa là nhìn thấy con
đường dẫn đến chỗ bất tử.”
No
48, 50
Phần
pháp này đề cập trọn vẹn về Ngũ lực (Pãnca Bala) và trình bày rất chi tiết do
Ðại Ðức Sàrìputta. Một chỗ khác trong kinh còn gọi "Ấy là con đường Trí
tuệ.”
SOTÀPATTI
SAMYUTTA
No
55.
Pháp
nói về bốn yếu tố cần thiết để nhập Thánh Lưu (Sotàpattiyamga).
PHẦN
THỨ NĂM: ÐẠI ÐỨC SÀRIPUTTA TRONG TÚC SINH TRUYỆN (JÀTAKA)
Theo
kinh điển, chúng ta thấy rằng Ðại Ðức Sàrìputta xuất hiện rất thường trong Túc
Sinh Truyện, tức những câu chuyện về tiền thân của đức Phật. Trong đó, tiền
thân Phật (hay còn gọi là Bồ Tát) và Ðại Ðức Sàrìputta đã tái sinh làm nhiều
nhân vật khác nhau nhưng có liên hệ.
Có
những kiếp sống, chúng ta thấy Ðại Ðức Sàrìputta là một ông Thầy, còn đức Bồ
Tát là người học trò. Chẳng hạn như các câu chuyện Túc Sinh có tên là Susìma
(số 163) Cùlanandiya (số 223), Sìlavimasa (số 305), Kàrandiya (số 356) và Mahà
Dhammapàla (số 447).
Trong
câu chuyện ghi sau cùng, tuy đức Bồ Tát là người học trò và Ðại Ðức Sàrìputta
là ông Thầy, nhưng người học trò cũng đã đem đến cho Thầy mình một bài học giá
trị là hãy nên phân biệt mỗi hạng người mà dạy dỗ. Không nên khuyên nhủ kẻ
không muốn nghe hoặc không có ý định tìm hiểu kiến thức của mình.
Cũng
có những lần luân hồi mà Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm người, còn đức Bồ Tát là
một con thú. Ví dụ như trong các truyện: Romaka Jàtaka (số 227).
Chuyện
Ðại Ðức Sàrìputta là một đạo sĩ rất khéo léo, có thể nuôi và huấn luyện một con
chim đa đa (tiền thân Phật) theo ý muốn của mình. Và chuyện Bhojàjaniya Jàtaka
(số 23) hay Dhammadhena Jàtaka (số 122).
Cũng
có lắm khi vai trò của hai vị này lại đổi ngược. Chẳng hạn như trong Jaruda
Pàna (số 256) và truyện Kundakakucchi Sindhava (số 254) thì Ðại Ðức Sàrìputta
sinh làm một con thú, còn đức Bồ Tát thì làm người.
Nhưng
ngộ nghĩnh hơn nữa là trong câu chuyện Kurunga Mìga, cả đức Bồ Tát lẫn Ðại Ðức
Sàrìputta đều sinh làm thú.
Phần
sau đây là những mẫu tóm tắt trong Túc Sinh Truyện. Ở đó ta thấy tiền thân của
Ðại Ðức Sàrìputta đã xuất hiện một cách có ý nghĩa:
No
11. LAKKHANA JÃTAKA
Khi
ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một trong hai anh em con một gia đình nọ. Người
em (tiền thân Sàrìputta) rất thông minh, còn người anh thì ngu tối. Cả hai đã
giúp đỡ cha mẹ bằng cách chăn coi một đàn thú trên đồi. Từ nhà họ đến nơi cho
đàn thú ăn cỏ phải trải qua một khu rừng nguy hiểm. Người em nhờ óc thông minh
đã đưa bầy thú đến nơi một cách an toàn. Nhưng người anh ngu tối (tiền thân Ðề
Bà Ðạt Ða) đến phiên mình đã làm mất cả đàn gia súc.
No
23. BHOJÃJANIYA JÃTAKA.
Truyện
này thuật lại kiếp ấy đức Bồ Tát sinh làm một con ngựa chiến phi thường và Ðại
Ðức Sàrìputta sinh làm một kiếm sĩ kỵ mã được giao phó trách nhiệm đi bắt bảy
vị vua đối nghịch. Sau đó người kiếm sĩ đã thành công nhờ tinh thần bền chí của
ông và sự hy sinh của con ngựa tuyệt diệu.
No
69. VISAVANTA JÃTAKA.
Câu
chuyện kể lại một con rắn (tiền thân Sàrìputta) có một thứ nọc trị khỏi bịnh
nan y của người, nhưng khi nhả nọc ra thì rắn phải chết. Kết quả con rắn chịu
chết vì muốn cứu ân nhân của mình.
No
99. PAROSAHASSA JÃTAKA.
Ðại
Ðức Sàrìputta sinh làm đệ tử của một đạo sĩ tu theo phái ẩn dật. Người đệ tử ấy
đã thấu hiểu rõ ràng mọi câu nói vừa ngắn gọn vừa cao xa của Thầy (tiền thân
Phật). Ðây là câu chuyện được xem như nhiều kiếp tu luyện óc thông minh của
Ngài.
No
122. DUMMEDHA JÀTAKA.
Truyện
kể lại kiếp ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm vua xứ Bénares (Ba La Nại). Ðây là
một ông vua rất thông minh, có tài nhìn thú biết được giống tốt. Lúc đó đức Bồ
Tát sinh làm một con bạch tượng loại quí, còn Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) đồng
thời là vua Ma Kiệt Ðà và là chủ con bạch tượng ấy. Sau đó ông bị mất con voi
quí chỉ vì tánh ganh tị.
No
151. RÀJOVÀDA JÀTAKA.
Tiền
thân của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna là hai người đánh xe ngựa
chiến của hai vương quốc hùng mạnh.
Một
hôm nọ cả hai người cùng đánh xe gặp nhau trên một con đường hẹp. Mỗi bên đều
muốn bên kia nhường lối cho mình đi trước. Và họ đã quyết định ăn thua bằng
cách tán dương oai lực của những nhân vật mà họ kính trọng nhất.
Kết
quả, người đánh xe thứ nhất (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta) thắng cuộc, vì ông đã
minh chứng được giới đức của vị vua lãnh đạo xứ sở mình. Vị vua được ca ngợi ấy
không ai khác hơn là tiền thân đức Phật.
No
256. ALINACITTA JÃTAKA.
Chuyện
tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta là một con voi rất khôn ngoan hiền lành và rất nhớ
ơn người.
No
206. KURUNGA MIGA JÃTAKA.
Trong
kiếp nọ, Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một con chim gõ kiến, và Ðại Ðức Mahà
Moggallàna sinh làm một con rùa. Cả hai đã hợp lực cứu được mạng sống của bạn
mình là một con nai tức là tiền thân Phật, khỏi tầm sát hại của tên thợ săn
(tiền thân Ðề Bà Ðạt Ða). Nhưng sau đó đến lượt con rùa bị bắt và nhờ con chim
gõ kiến giải thoát.
No
223. CŨLANANDIYA JÃTAKA.
Thuở
kia Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một giáo sư Bà la môn, và Ðề Bà Ðạt Ða sinh làm
học trò của Ngài. Ngài luôn luôn khuyên đồ đệ chẳng nên khó tính, hiểm ác và
tàn bạo, nhưng lời dạy dỗ ấy đã trở nên vô ích.
No
254. KUNDAKA KUCCHI SINDHAVA JÃTAKA.
Ðại
Ðức Sàrìputta sinh làm một con ngựa thực kỳ diệu, và đức Bồ Tát là một người
buôn ngựa. Con ngựa lúc trước do một người đàn bà làm chủ, nhưng về sau lại
thuộc vào tay người lái buôn.
No
256. JARUDAPÀNA JÀTAKA.
Câu
chuyện nói về Mãng xà vương (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta) đã giúp Bồ Tát lúc đó
là một người lái buôn để chuyên chở một số vàng bạc mà người thương gia ấy vừa
may thu hoạch được.
No
272. VYAGGA JÀTAKA.
Có
một lần Tỳ kheo Kokàlika sinh làm một con chằn tinh, vì thế nên không thể sống
chung được với tiền thân hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna.
No
227. ROMAKA JÀTAKA.
Truyện
thuật Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một đạo sĩ rất Trí tuệ. Vị đạo sĩ ấy đã nuôi
và huấn luyện một con chim đa đa, tiền thân đức Bồ Tát.
No
281, 292. ABBHANTARA VÀ SUPATTA.
Ðây
là hai chuyện kể lại sự ngẫu nhiên trong kiếp chót. Truyện số 281 thuật lúc ấy
Ngài Ràhula nhờ một ít nước xoài pha đường của Ðại Ðức Sàrìputta, đã giúp cho
mẹ là một Tỳ kheo ni trị khỏi bịnh no hơi. Còn trong câu chuyện số 292 thì Ðại
Ðức Sàrìputta đã đích thân tìm hộ những món ăn dễ tiêu để giúp bà. Ðây là kết
quả của việc một kiếp trước bà đã nuôi dưỡng tiền thân của hai Ðại Ðức
Sàrìputta và Ràhula.
No
310. SAYHA JÀTAKA.
Kiếp
ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một ông vua có viên cận thần tên Sayha là tiền
thân Ðề Bà Ðạt Ða. Vua sai người cận thần đi chiêu dụ một đạo sĩ thông thái vừa
là bạn cũ của vua về giúp triều đình, nhưng việc chiêu dụ đã thất bại. Vị đạo
sĩ thông thái ấy chính là tiền thân đức Phật.
No
313. KHANTIVÀDI JÀTAKA.
Tích
thuật khi đức Bồ Tát sinh làm một đạo sĩ rất đức hạnh. Người thuở bấy giờ vẫn
gọi Ngài là một đạo sĩ nhẫn nại (Khantavàdi), đồng thời Ðề Bà Ðạt Ða sinh làm
một vị vua hung bạo. Ðể thách thức đức nhẫn nại, bạo vương đã đem vị đạo sĩ kia
ra hành hạ một cách tàn nhẫn, nhưng không lay chuyển nổi phạm hạnh của người
chân tu. Kết quả đức nhẫn nại của vị đạo sĩ đã cảm hóa được viên quan tổng chỉ
huy quân đội trong triều đình (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta, và chính vị võ quan
này đã đến băng bó những vết thương cho đức Bồ Tát.
No 315.
MAMSA JÀTAKA.
Khi
ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một người thợ săn và đức Bồ Tát làm con trai một
người lái buôn. Lúc cả hai quen nhau và trở thành bạn hữu, thanh niên lái buôn
đã dùng những lời lẽ chân chánh để thuyết phục bạn mình từ bỏ cái nghề hung ác
ấy.
No
361. VANNARODHA JÀTAKA.
Truyện
nói về kiếp chót khi hai vị Ðại đệ tử Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn đang
sống trong một nơi vắng vẻ. Lúc ấy có một người ăn xin hằng sống nhờ vật thực
còn dư của hai Ngài. Nhưng tên ăn mày lại có ác ý muốn gây sự bất hòa giữa hai
Ngài. Kết quả người ăn xin đã thất bại vì hai vị Ðại đệ tử này lúc nào cũng
cảnh giác, không nghe những lời gièm xiểm xấu xa và sau cùng đồng bảo hắn hãy
đi nơi khác.
Trong
Túc Sinh Truyện có đoạn còn thuật lại rằng: Trường hợp tương tự như thế đã xảy
ra trong một kiếp nọ, khi người ăn xin kia sinh làm một con chó sói, còn hai
Ðại Ðức Sàrìputta và Mahahà Moggallàna sinh làm một con sư tử và một con cọp.
No
412. KOTISIMBALI JÀTAKA.
Tích
kể lại khi Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm ông vua xứ Garada hay còn gọi là vua
Supanna. (Supanna Ràja). Vị vua này đã cứu sống một cây cổ thọ khỏi bị hại vì
nơi đó là chỗ ở của một vị thọ thần (tiền thân Bồ Tát).
No
444. KANHA DIPÀYANA JÀTAKA.
Kiếp
đó Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một vị đạo sĩ tên Ànimandiviya đã bị một ông vua
kết tội oan và đem ra hành hạ bằng cách dùng khí giới đâm xuyên qua thân thể.
Nhưng vị đạo sĩ vẫn giữ hạnh nhẫn nại, không để tâm oán hận và ghi nhớ rằng đó
chỉ là kết quả của những nghiệp ác từ kiếp trước.
Ðức
Bồ Tát lúc ấy cũng là một đạo sĩ, bậc huynh trưởng của tiền thân Sàrìputta tên
là Kanda Dipàyana, đã hết lời ca ngợi thái độ cao thượng của người sư đệ mình.
No
472. MAHÀ PADUMA JÀTAKA.
Truyện
kể lúc Bồ Tát sinh làm Hoàng tử Mahà Paduma và tiền thân của Ðại Ðức Sàrìputta
là một vị thần núi. Nhờ vị thần ấy mà Ngài Hoàng tử thoát chết.
PHỤ LỤC: NHỮNG THÁNH TÍCH CỦA HAI ÐẠI ÐỨC
SÀRÌPUTTA VÀ
MAHÀMOGGALLÀNA
Trên
ngọn đồi ÀSaĩchi ở Bhopal. Saĩchi có tên cũ là Kakanara và trong bộ Mahàvansa
gọi là Chetigiri. Có những di tích của mười ngôi Bảo Tháp. Những di tích ấy nằm
trong số các công trình kiến trúc xưa nhất còn tồn tại trên xứ Ấn Ðộ.
Với
những nét kiến trúc cổ kính và nghệ thuật điêu khắc thần kỳ, người ta phải công
nhận rằng nó được kiến tạo trong một thời kỳ Phật giáo cực thịnh và đã biểu lộ
cái văn minh cao ngất của Phật giáo. Những đặc điểm, chẳng hạn như vô số nét
chữ khắc trên đó đã được người ta chép lại và các nhà khảo cổ đã xác nhận rằng
chúng được tạo lập vào khoảng thời đức vua A Dục (Asoka Ràjà), nghĩa là vào
khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch. Một số các di tích ấy được bảo tồn nguyên
vẹn, trong khi những cái kia bị phôi pha bởi thời gian trôi qua bằng bao nhiêu
thế kỷ nên chỉ còn lại bằng những mô đất và đá.
Một
trong những Thánh tích ấy là ngôi Bảo Tháp thứ ba bây giờ vẫn tồn tại và rất
nổi tiếng. Chính ông Alexander Cunningham và Ðại úy F. C. Meisey đã khám phá ra
các di Thánh thể của hai vị Ðại đệ tử Phật là các đức A la hán Sàrìputta và
Mahà Moggallàna vào năm 1851.
Cũng
trong thời gian đó, người ta còn tìm ra nhiều Thánh thể lưu lại của nhị vị A la
hán nói trên trong một Bảo Tháp tại vùng Satadhàra cách Saĩchi chừng sáu dặm.
Khi
chân trục ở trung tâm Bảo Tháp tại Saĩchi bị sụp sâu vào lòng đất rồi, ngọn đồi
Bhopal chỉ còn ló lên như một phiến đá cao khoảng năm thước Anh và nằm theo
hướng Nam Bắc.
Bên
dưới tảng đá tưởng nhớ ấy, người ta tìm thấy hai chiếc hộp làm bằng sa thạch
màu xám. Mỗi cái có những dòng điêu khắc đơn giản bằng nét chữ Brahmin trên nắp
hộp.
Chiếc
hộp nằm ở phía Nam có khắc chữ "S" nghĩa là di tích của Ngài A la hán
Sàrìputta, trong khi chiếc hộp nằm ở phía Bắc mang câu chuyện truyền kỳ của Ðại
Ðức Mahà Moggallàna, hay nói cách khác đó là di tích của một đại A la hán có
nhiều thần thông nhất trong các môn đệ của đức Phật.
Chiếc
hộp nằm cực Nam lại chứa một hộp con khác, phẳng và rộng làm bằng chất bạch nu.
Hộp ấy rộng vào khoảng hơn sáu tấc và cao chừng ba tấc Anh. Bề mặt của nó thật
cứng và bóng nhẵn. Ngay cả chiếc hộp lớn đựng nó, nếu cho một người thợ chạm
hay tiện trông thấy họ sẽ tấm tắc khen rằng "Nó đã được tạo ra do một bàn
tay tinh xảo nhất.”
Xung
quanh cái hộp con là những mảnh gỗ đàn hương mà người ta tin rằng đó chính là
các vật còn lại của những chiếc hộp đựng để thiêu Thánh thể của hai vị A la hán
kia. Bên trong ngoài các di Thánh thể ra, người ta còn tìm thấy nhiều loại ngọc
thạch quí giá. Chiếc hộp con này còn chứa một mảnh xương (Xá Lợi) của Ðại Ðức
Sàrìputta. Ðó là Xá Lợi duy nhất dài đến một tấc Anh.
Còn
chiếc hộp nằm phía Bắc cũng chứa một hộp vuông nhỏ làm bằng bạch nu khác. Tương
tự như chiếc hộp bên này, nhưng nó nhỏ, nhẹ hơn và bề mặt mềm hơn. Bên trong có
chứa hai viên ngọc Xá Lợi của Ðại Ðức Mahà Moggallàna. Trong hai viên ấy, viên
lớn nhất dài khoảng non nửa tấc Anh.
Mặt
trong mỗi chiếc nắp của hai chiếc hộp nhỏ đựng Xá Lợi ấy có khắc sâu bằng một
thứ mực đặc biệt hai chữ "SA" (có nghĩa là chiếc hộp này đựng Xá Lợi
của Ngài Sàrìputta) và chữ "MA" (có nghĩa là Xá Lợi của Ðại Ðức Mahà
Moggallàna).
Theo
những chữ khắc ở Bảo Tháp mà ông Cunningham ghi lại thì hai Ðại Ðức Sàrìputta
và Mahà Moggallàna là những môn đệ dẫn đầu của đức Phật. Do đó các Ngài thường
được kinh sách nói đến như những đệ tử tay mặt và tai trái của đức Bổn Sư.
Ngoài
ra, những tro cốt của các Ngài cũng được bảo tồn kỹ lưỡng sau lễ Thánh hỏa và
được lưu thờ cùng hai vị trí là bên mặt và bên trái của đấng Toàn Giác như lúc
Ngài còn tại thế (Theo cuốn Bhilsa Topes 300).
Diễn
tả như vậy là căn cứ vào một sự thực mà đức Phật thường làm khi còn sinh tiền
là Ngài hay ngồi quay mặt về hướng Ðông, Ðại Ðức Sàrìputta hầu bên phải, còn
Ðại Ðức Mahà Moggallàna hầu bên trái của Ngài, tức là phía Nam và phía Bắc theo
phương hướng vậy.
Một
trong những cuốn sách mà ông Cunningham viết để lại, có lưu chú gọi đó là đoạn
nói về những đài kỷ niệm đức Phật tại địa phương (Buddha Bhita). Ông ta đã tìm
ra hai vuông hộp làm bằng chất bạch nu có vân nhạt cũng đựng Thánh vật trong
một bảo Tháp tại Satadhàra. Những vuông hộp này cũng có chạm khắc giống như hai
cái ở Saĩchi: Ý nói đó là Tôn hài của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna.
Ngôi Bảo Tháp này có nhiều dấu hiệu cho ta biết là đã bị nhiều lần cướp đoạt.
Tuy nhiên, ngọc Xá Lợi trong đó vẫn còn lưu lại an toàn.
Ông
Cunningham, người tỏ ra rất giỏi về môn khảo cổ đã lưu lại một phóng sự tường
trình, nhiều chi tiết nhất về mọi vấn đề trong việc đào xới những bí vật.
Những
bí vật ấy được đem ra ánh sáng một cách rõ ràng giá trị, đầy tôn kính. Và giờ
đây nằm trọn trong các Bảo Tháp mà chúng ta vừa bàn đến. Cũng chính nhờ ông mà
sự tin tưởng đối với những Thánh vật này được trở nên chắc chắn và lâu dài.
Theo
Ấn Sử, các Thánh vật trong cả hai Bảo Tháp trước đây đã bị người Anh dời về
nước và đặt tại Viện Bảo Tàng Victoria và Albert nhưng có vài sự trái ngược do
lời mô tả của ông Cunningham về những vuông hộp đựng ngọc Xá Lợi và những chiếc
hộp vừa kể, trong đó Xá Lợi được tàng trữ, đã cho ta có lý do mà tin rằng chính
ông hoặc một nhân vật khảo cổ nào khác đã di chuyển các viên ngọc Xá Lợi từ
Sãnchi đến đựng trong hộp vuông nhỏ mà sau này người ta tìm ra tại Satadhàra.
Do đó, những chiếc hộp nhỏ trong các hộp lớn mà người sau này không biết rõ gốc
tích một cách quả quyết là những chiếc hộp ở Sãnchi.
Riêng
những Thánh vật Xá Lợi đã được bảo tồn ở Bảo Tàng Viện Victoria và Albert cho
tới năm 1939 thì hội Ðại Bồ Ðề Tràng Ấn Ðộ (Mahà Bodhi Society) đã gởi đến
chính phủ Anh một văn thư yêu cầu hoàn trả những báu vật ấy lại cho Ấn Ðộ. Lời
yêu cầu đó đã một lần được chấp nhận nhưng vào năm ấy đệ nhị thế chiến lại bùng
nổ. Sự hoàn chuyển Thánh tích đã bị hoãn lại vì lý do an ninh. Ðến ngày 24
tháng 12 năm 1946, công việc ấy mới được thực hiện.
Vào
ngày đó, mọi Xá Lợi Thánh vật đã được chánh phủ Anh trao lại cho các đại diện
hội Ðại Bồ Ðề Tràng tại hai Viện Bảo Tàng Victoria và Albert. Sau đó, cuộc lễ
chuyển hoàn về cựu thổ đã xảy ra một cách trọng thể.
Tuy
nhiên, trước khi đem về tàng trữ tại Ấn Ðộ, các ngọc Xá Lợi được chuyển sang xứ
Tích Lan và được dân chúng Tích Lan cung nghinh một cách hân hoan và sùng kính.
Vào
năm 1947, các ngọc Xá Lợi đã được trình bày cho dân chúng lễ bái trong thời
gian hai tháng rưỡi tại Viện Bảo Tàng Colombo. Theo sự phỏng đoán, trung bình
cũng có hai triệu người đến lễ bái. Người ta còn thuật lại rằng không chỉ những
người theo đạo Phật, mà có cả đến rất đông tín đồ Ấn Ðộ giáo và Thiên Chúa cũng
đến chiêm bái ngọc Xá Lợi.
Ðoạn
đường kế tiếp để cung thỉnh Xá Lợi là từ Tích Lan đến một ngôi Chùa mới đang
được xây dựng để tái phụng thờ tại Sanchi, gần thủ phủ Calcutta. Ở đó, người ta
lại một lần nữa, đem ngọc Xá Lợi trưng bày cho dân chúng lễ bái tại Chùa Derama
Ràjika, vì đó là trụ sở trung ương của hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ. Những cảnh tượng
ngưỡng vọng và sùng bái Thánh tích một cách tấp nập như ở Tích Lan lại cũng xảy
ra ở đây.
Hằng
hai ba tuần lễ liên tiếp, những đoàn người chen chúc nhau không dứt đã đến ngôi
Quốc Tự Ấn Ðộ để chiêm bái từ sáng đến chiều tối. Hầu hết những người đến lễ
bái là theo Ấn Ðộ giáo, nhưng cũng có một số lớn những người theo các đạo khác.
Nhưng tất cả đến đó đều lễ bái một cách vô cùng kính cẩn.
Cũng
có nhiều đoàn chiêm bái từ các nơi xa xôi trong và ngoài nước Ấn Ðộ tấp nập về
chiêm ngưỡng di tích của hai bậc Tối Thượng xứ Phật này.
Kế đó
là lời thỉnh cầu của chính phủ Miến Ðiện. Họ cũng ao ước Xá Lợi được đem đến
trưng bày ở nước họ cho dân chúng lễ bái. Sự thỉnh cầu này đã được hoan hỷ chấp
thuận. Vì vậy một cuộc lễ tiếp rước long trọng được cử hành tại Miến Ðiện đã
làm sống lại một thời gian vàng son an lạc nhất trước đây khi Phật giáo còn cực
thịnh. Ðể cho mọi người đều có một dịp chiêm bái, các viên ngọc Xá Lợi đã được
cung nghinh vòng quanh trong xứ, dọc theo nhiều con sông trên một thuyền rồng
(Irrawaddy) từ Mandalay đến Rangoon. Chiếc thuyền rồng cho Xá Lợi chạy bằng hơi
nước này được những chiếc thuyền khác trang trí một cách lộng lẫy theo phong
tục Miến Ðiện hộ tống. Và tại mỗi thành phố dọc theo hai bên bờ sông những
Thánh tích Xá Lợi lại được dân chúng rước lên bờ, đem an vị trong một ngôi Chùa
chính tại nơi ấy cho dân chúng lễ bái. Ðồng thời các cuộc lễ khác cũng được tổ
chức.
Ðã có
không biết bao nhiêu ngàn người từ những làng mạc kế cận đến nghe pháp và cầu
kinh. Ðiều đáng chú ý là trong thời gian Xá Lợi được rước lên an vị như thế
những buổi thuyết pháp và những thời cầu kinh đã được tổ chức liên tục suốt
ngày lẫn đêm.
Ðoạn
để đáp ứng lời thỉnh cầu của chính phủ Népal, ngọc Xá Lợi lại được đưa sang Népal
và Ladakh.
Sau
một thời gian cung nghinh khắp nơi cho người đời chiêm bái, Xá Lợi được rước về
Ấn Ðộ, và chính phủ Miến Ðiện đã thỉnh cầu để được chia một phần Xá Lợi đem về
Miến Ðiện tạo Bảo Tháp phụng thờ.
Giáo
hội Ðại Bồ Ðề Tràng của Ấn Ðộ đã chấp thuận lời yêu cầu đó, và chính vị Thủ
Tướng nước Miến Ðiện đã đích thân bay sang Calcutta tiếp nhận. Hai nước này
cũng tổ chức một cuộc lễ trao Xá Lợi trọng thể vào ngày 20 tháng 10 năm 1950.
Phần
Xá Lợi phân phối cho Miến Ðiện sau này đã đem phụng thờ tại ngôi Lạc Thế Tự mà
người Miến Ðiện gọi là KABA AYE JEDI dịch sang tiếng Anh là World Peace Pagoda.
Ngôi
Chùa này được xây bên cạnh tòa Ðệ Lục Ðại Hội Kết Tập Phật Giáo, một cơ quan
cao cấp Phật Giáo gần Rangoon. Nhiều cuộc lễ thật trang nghiêm cho việc đăng
quang và an vị Xá Lợi đã được tổ chức kéo dài từ 5 đến 11 tháng 3 năm 1952.
Một
phần Xá Lợi khác cũng được cống hiến cho dân tộc Tích Lan để phụng thờ trong
một ngôi Bảo Tháp mới do hội Ðại Bồ Ðề Tràng (Mahà Bodhi) Tích Lan xây cất.
Trong
khi soạn giả đang ghi chép lại các diễn tiến lịch sử này, những viên ngọc Xá
Lợi ấy được tạm thời an vị trong một ngôi Chùa của Giáo hội Ðại Bồ Ðề Tràng
Tích Lan tại thủ đô Colombo để cho công cuộc kiến trúc hoàn tất.
Riêng
phần nước Ấn Ðộ, ngày 30 tháng 11 năm 1958 những Thánh thể vật lưu thế như
chúng ta vừa nói, lại được tái an vị ở Saĩchi, trong Bảo Tháp, tại một ngôi
Chùa nguy nga tráng lệ. Ngôi Chùa và Bảo Tháp này đã được xây cất với một công
trình vĩ đại là cốt để tái phụng trì Xá Lợi vậy.
Giờ
đây Xá Lợi đã trở về cố thổ và gieo vào lòng Phật tử đến hành hương từ khắp các
nước bốn phương trên thế giới một sự sùng kính sâu xa và khiến họ chẳng bao giờ
quên được đời sống của những Thánh nhân đệ tử ưu tú nhất của một đấng Toàn
Giác.
Những
vị đã gặt hái được các Thánh quả cao thượng nhất, đầy đủ nhất trong giáo lý của
chư Phật.
Hai
cái tên Sàrìputta và Mahà Moggallàna (Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên) ấy từ nay
cho đến hết năm ngàn năm sẽ sống song song với Tám Muôn Bốn Ngàn Pháp Môn của
đức Phật như một sức mạnh hộ pháp, hay một gương sáng lưu truyền.
Dịch
xong tại Sài Gòn, tháng 12 năm 1966