Chúng
ta nên ghi nhớ rằng, trong ngàn năm muôn kiếp, ngày cung nghinh Xá Lợi
vừa rồi,
là ngày duy nhứt trong đời tu Phật của chúng ta. Ngày ấy là ngày 25
tháng 07
Nhâm Thìn, nhằm ngày 13 tháng 09 năm 1952. Kể lại, từ khi Đức Thế Tôn
nhập diệt
đến ngày chúng ta gặp duyên may yết kiến Xá Lợi, thời gian đã trôi chảy
được
2.496 năm, 4 tháng và mười ngày.
Thấy
rằng, mặc dầu sanh vào thời kỳ vô cùng xa cách với niên đại nói trên,
chúng ta
vẫn còn duyên lành với Phật Tổ Như Lai; vì chúng ta không mong mà tình
cờ lại
được đứng trước hòn ngọc Xá Lợi, để đem tất cả lòng nhiệt thành sùng
tín, hoài
niệm tưởng nhớ đến ân đức của một Đấng Trọn Lành, đã tận tụy hy sinh từ
vô
lượng kiếp, quyết chí tìm phương cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng đau khổ.
Trong
kiếp chót, khi đạt được mục đích cao cả rồi, vị Chánh Đẳng Chánh Giác,
ngày đi
đêm nghỉ, châu du từ thành này sang xứ nọ, trọn 45 năm trường, hướng dẫn
tín đồ
trên đường giác ngộ. Vì quá thương xót chúng sanh đương bị chơi vơi
trong biển
khổ, mà Ngài hy sinh, mệt nghỉ, khoẻ đi, đi hoài cho đến mòn hơi, kiệt
lực;
giữa đường thọ bịnh nan y.
Đấng
Cứu Thế, đã vì nhân loại, với cái tuổi thọ 80, với bao nhiêu sự cam go
hiểm trở
trên những con đường gồ ghề băng xuyên giữa rừng núi, dưới những đám mưa
phùn,
tuyết đổ; mà Ngài vẫn vui lòng nhẫn nại làm tròn phận sự cho đến giờ
phút kiệt
quệ, phải chịu phép vĩnh biệt thế gian.
Trên
đời này còn ai hy sinh trong sự mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại hơn Phật
tổ
Gotama.
Cao
cả thay! cái đời sáng lạng của đấng Hiền Triết duy nhất của thế gian.
Cao quý
thay! cái ân đức từ bi rộng lớn của bậc siêu nhân hy hữu của cõi Á châu!
Chúng
tôi là kẻ đã thọ ân sâu dày của Ngài, nhờ giáo pháp của Ngài để lại,
biết cải
ác tùng thiện, theo dõi con đường vạch sẵn của Ngài, xin đem tất cả tấm
lòng
trong sạch, cúi đầu tôn kính Ngài.
Chẳng
biết lời nào để tán dương ca tụng ân đức của Ngài, chúng tôi, nhân dịp
này xin
mượn lời của đức trời Đế Thích để chiêm bái Ngài:
“Namotassa
Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa”
Thưa
quý ông quý bà.
Phật
Gotama, là một đức Phật đã ra đời tại xứ Ấn Độ, dấu tích đã còn; bằng
chứng là
Ngọc Xá Lợi mà chúng ta đã cung nghinh trọng thể, 5 ngày trước đây.
Chúng ta
chớ nên lầm lộn, mà cho Ngài là một nhân vật thần thoại, khi thì biến
hóa ông
ra Phật này, khi thì hiện ra ông Phật khác.
Phật
Gotama, là một người như chúng ta, và nhờ tu hành nhiều kiếp, mà Ngài
tiến hóa
đến mức cùng tột trong sự tiến hóa của loài người, gọi là Bậc Toàn Giác,
đến
trình độ ấy, Ngài không còn bị luật sanh tử luân hồi chi phối nữa, nên
gọi là
Phật. Hết sanh tử luân hồi, tất là Ngài không còn biến hoá, thị hiện
trong thế
gian nữa, nên gọi tịch diệt.
Đó là
sự thật, là chơn lý. Nếu còn vịnh theo các pháp thần thông của Ngài, mà
tin
rằng Ngài còn thị hiện trong thế gian là trái với chơn lý. Bởi một khi
giải
thoát khỏi vòng sanh tử rồi, mà còn tái sanh trở lại, là một việc không
thể có
được. Chúng ta chớ tưởng lầm rằng Phật Gotama, vì lòng từ bi, mà phải
thị hiện
giữa tín đồ để cứu vớt họ. Hẳn thật, Ngài đã có lòng từ bi không bờ bến,
từ vô
lượng kiếp, trong khi Ngài còn luân chuyển như chúng ta, trong cảnh
tương đối.
Khi Ngài tiến đến chỗ tuyệt đối rồi, thì dầu ta có đem thuyết nào ra
trưng bày
nói Ngài như thế này thế nọ, đã không lợi ích cho chúng ta, mà trái lại,
còn
gieo mối hoài nghi trong tâm trí.
Khi
tịch diệt rồi, Phật chẳng gia hộ mà cũng không còn độ ai nữa. Giáo pháp
của
Ngài để lại cho chúng ta hành theo, ấy là phương pháp độ chúng ta một
cách gián
tiếp.
Lúc
Phật Gotama còn tại thế, Ngài hướng dẫn chúng sanh đi theo con đường của
Ngài,
ai nghe lời Ngài chỉ dạy, người ấy tự tu tự độ. Thật ra, Ngài chẳng bao
giờ nắm
tay ai để đưa đến chỗ yên vui tuyệt đối.
Vì sự
biến chuyển trong lịch sử Phật giáo, nên có nhiều thuyết đưa ra, làm cho
chúng
ta hoang mang; kẻ tin như thế này, người tin theo thế khác.
Hơn
nữa chúng ta không có dịp khảo cứu Kinh điển cổ truyền nên chúng ta
chúng ta
tin tưởng một cách mô hồ. Chúng ta dốt cho đến đỗi không biết rõ rệt sự
tích
của Xá Lợi ra thế nào. Nếu không nhờ các nhà sư tham cứu Kinh điển và
chỉ dạy
cho chúng ta, thì chúng ta nào có biết giá trị của Xá Lợi ra sao?
Tiện
đây tôi xin lược thuật một đoạn trong Kinh “Niết Bàn” để hiến cho quý
ông quý
bà đôi chút tài liệu về sử tích Xá Lợi.
Ngày
kia đức Thế Tôn cùng chư Thinh Văn đến xứ Pava, vì trời tối nên tạm ngủ
trong
vườn xoài của con một người thợ bạc tên là Cunda.
Khi
hay tin có Phật ngự trong vườn mình, chàng Cunda đến yết kiến Phật. Nhân
dịp
ấy, Đức Thế Tôn giảng giải cho chàng hiểu thấu nghiệp quả và khuyên dạy
lánh dữ
làm lành.
Sáng
ngày Cunda thỉnh Phật, và chư Tăng đến nhà thọ thực.
Bữa
cơm này là bữa cơm cuối cùng. Thân già, đi bộ ròng rã xứ này qua xứ nọ,
tránh
sao cho khỏi lao thân, mệt xác, nên khi thọ thực xong Ngài thấy trong
mình phát
sanh bệnh liết lỵ. Ngài gắng gượng lên đường qua xứ Kusinara. Giữa đường
bịnh
càng thêm nặng Ngài tạm nghỉ dưới cội cây, biểu ông Ananda xuống khe múc
nước
cho Ngài dùng đỡ khát. Ông Ananda đi rồi trở lại bạch rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn,
dưới suối nước rất ít, lại thêm vừa có 500 cỗ xe thương mại đi qua làm
nước nổi
cặn bùn không thể uống được.”
Như
Lai khát nhiều (không thể chờ đợi) Ananda cứ đi múc đi cho Như Lai dùng.
Đỡ
khát rồi, Đức Thế Tôn gắng gượng lên đường, đến chiều tối tới xứ
Kusinara. Thầy
trò vào tạm nghỉ trong rừng SaLa.
Đức
Thế Tôn kêu ông Ananda nói rằng: Này Ananda! Như Lai đã mệt nhọc lắm
rồi, vậy
ngươi mau trải y giữa khoảng hai cây đại thọ này cho Như Lai yên nghỉ và
nội
trong đêm nay Như Lai sẽ nhập diệt tại đây. Vậy ngươi kíp vào hoàng
thành tâu
cho vua Malla hay tự sự, để sau vua khỏi phiền trách và hối tiếc không
được yết
kiến Như Lai trong giờ phút cuối cùng.
Ông
Ananda vội vã vào đền, gặp lúc vua và hoàng tộc cùng bá quan đương hội
yến đông
vầy. Ông Ananda xin vào chầu vua Malla và tâu rằng: “Bần Tăng vâng lệnh
Đức Thế
Tôn đến báo cho bệ hạ rõ rằng: Ngài vừa ngự đến rừng Sa La, và định nhập
Niết
Bàn tại đó, nội trong đêm nay vào canh chót.”
Khi nghe
được tin ấy vua và triều thần đều cảm xúc: Phật Gotama là dòng vua, sang
cả, vì
thương xót chúng ta, băng rừng nước bụi chẳng nài lao khổ, cam chịu bỏ
xác giữa
rừng, thật đáng cho chúng ta lễ bái cúng dường. Cả vua và triều thần
đồng rơi
lệ và đồng nhau đến rừng Sa La xin vào yết kiến Đức Thế Tôn, để tỏ lời
hối
tiếc. Đức Phật dùng lời kim ngôn mỹ từ khuyên nhủ vua Malla và bá quan
trong
đường tu tập, lấy đạo đức cùng lòng từ bi mà dìu dắt dân chúng đi đến
nơi an
vui hạnh phúc.
Cả
vua chúa và triều thần lẳng lặng nghe pháp đến cuối canh đầu mới lui gót
ra về
với một tấm lòng cảm mến và ủ ê.
Tới
phiên vị đạo sĩ tên Subhadda đến yêu cầu ra mắt Phật Đà. Vì thấy Đức Thế
Tôn
không được khoẻ, ông Ananda không cho đạo sĩ Subhadda vào. Nghe lời yêu
cầu bên
ngoài, Đức Phật hay được, bảo ông Ananda cho đạo sĩ vào.
Ông
Subhadda vào đảnh lễ và vấn an Đức Phật rồi, xin hỏi đạo. Phật vui lòng
nhận
lời, mặc dầu Ngài đã mệt gần đuối sức.
“Bạch
đức Thế Tôn: Ngoài giáo pháp của Đức Thế Tôn, còn có Lục Sư ngoại đạo
rất đông
tín đồ, và họ tự cho là bậc cao thượng, chẳng hay các Lục Sư ấy cao
thượng đến
bậc nào?”
“Subhadda
này! Điều ấy chẳng lên tìm hiểu làm chi. Nếu ngươi muốn biết đạo của Như
Lai
như thế nào, Như Lai sẵn lòng giải thích cho ngươi nghe”.
Subhadda
vâng lời cung kính lắng nghe Phật thuyết: “Subhadda này! Đạo là con
đường có
tám chi, rất quý báu đưa người đến nơi tận diệt phiền não. Trong Tôn
giáo nào
không có con đường tám chi ấy, thì Sa môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ
tư,
(đây chỉ là hàng Tứ Thánh) chẳng có trong Tôn giáo ấy. Subhadda này! nếu
có
người hành đúng theo giáo pháp của Như Lai, thì trong cõi đời này vẫn
còn có
bậc A La Hán.”
“Subhadda
này! Kinh luật của Như Lai là phương pháp đem chúng sanh ra khỏi khổ.
Vừa 29
tuổi, Như Lai đã xuất gia để tìm thiện pháp; Như Lai đã xuất gia được 51
năm
rồi. Ngoài đạo của Như Lai, chẳng có vị Sa môn nào siêu xuất thế gian”.
Đức
Thế Tôn chỉ dạy đạo sĩ Subhadda rất nhiều, nhưng đây xin tóm tắt bấy
nhiêu.
Ông
Subhadda nghe được pháp, xin xuất gia đầu Phật liền khi ấy, và nhờ đức
Phật
khai sáng cho, lại thêm duyên lành sẵn có nên hành thiền trong giây lát
đắc đạo
quả A La Hán. Đây là đệ tử chót của Phật, có tên là Pacchimasàva, nghĩa
là
người gặp đức Phật sau chót.
Đức
Thế Tôn kêu các Thầy Tỳ Kheo lại gần hỏi rằng: “Các đệ tử có điều nào
còn nghi
ngờ trong Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, trong đạo quả, hoặc trong sự
hành đạo,
các Thầy cứ hỏi đi!” Đức Thế Tôn hỏi đến 3 lượt, mà các Thầy vẫn làm
thinh, tỏ
ý không nghi ngờ điều chi, bởi trong 500 vị Thinh văn theo hầu Phật,
những vị
có đặc ân nhỏ hơn hết là bậc đã đắc đạo quả Tu Đà Hoàn, các Ngài toàn là
Thánh
Tăng cả thảy.
Hỏi
rồi đức Thế Tôn dạy lời di giáo tối hậu:
“Này
chư vị Tỳ Kheo! Như Lai xin nhắc các Thầy nên ghi nhớ rằng: “Các pháp
hành, có
sanh phải có diệt”. Các Thầy nên tinh tấn tự tìm sự lợi ích cho mình,
nhất là
cố gắng thực hành các pháp cao thượng chẳng nên dễ duôi”.
Đức
Thế Tôn gom tất cả lời giáo huấn trong 45 năm vào một câu là “không nên
dễ
duôi” để nhắc nhở các môn đệ đừng dãi đãi trên đường tự tu tự độ.
Từ đó
trở đi Đức Thế Tôn không còn nói câu gì nữa. Lấy Niết bàn làm đề mục,
Ngài nhập
định trong các sắc thiền, hữu sắc, vô sắc, và diệt thọ tưởng định.
Lúc
ấy, có ông Anuruddha là bậc làu thông thiền định, làm người báo tin cho
chư
Thinh văn, Ngài cũng nhập định theo dõi đức Thế Tôn, rồi xả thiền cho
các đạo
hữu biết Tôn Sư mình đang nhập định trong thiền nào, và sang qua thiền
nào. Ông
Ananda chực sẵn kế bên hỏi hoài: “Bạch Sư huynh, vậy chớ Đức Thế Tôn
nhập diệt
chưa?” Đại Đức Anuruddha vào thiền, ra thiền từ chập để trả lời cho ông
Ananda.
Trời
vừa rạng đông, quả địa cầu rung động, báo điềm Phật Tổ Gotama đã nhập vô
lượng
thọ Niết bàn.
Trời
Phạm Thiên Sahampati cất tiếng ngâm câu kệ động tâm như vầy: “Đức Thế
Tôn là
Đấng Trọn Lành, có đặc ân cao dày, tự ngộ đạo quả vô thượng bồ đề, mà
thân Ngài
cũng không tránh khỏi quyền chi phối của luật vô thường sanh diệt”.
“Hỡi
ôi! Định luật thiên nhiên nó như thế ấy, thì tất cả chúng sanh không sót
giống
nào, lần lượt nối tiếp nhau bỏ xác lại thế gian”.
“Ta
còn yêu mến chi cái kiếp phù sanh giả tạm này?”
Trời
Đế Thích tiếp ngâm câu kệ động tâm như vầy: “Ô hô! Các pháp hành thật
không bền
vững, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, chỉ có sự dập tắt pháp hành, thì
danh sắc,
ngũ uẩn mới không sanh ra được”.
Đại
Đức Anuruddha và Ananda thay phiên nhau thuyết về pháp động tâm, làm cho
ai ai
cũng chán nản các pháp hữu vi, là pháp sanh diệt chia lìa, đau khổ triền
miên.
Ai ai cũng nguyện tinh tấn thực hành theo giáo pháp của đức Thế Tôn để
lại, hầu
mong có ngày ra khỏi vòng cương tỏa của luật vô thường hầu siêu sanh về
cõi an
vui tuyệt đối là Niết bàn.
Sáng
ngày đại đức Anuruddha sai ông Ananda vào đền báo tin cho vua Kusinara
hay tin
đức Phật đã nhập Niết Bàn rồi. Đến nơi ấy thấy vua và triều thần hội
nhau bàn
tán về ngày cuối cùng của vị Chánh Đẳng Chánh Giác, quên lo tới việc
triều
chánh. Khi hay tin Phật diệt độ cả vua chúa quần thần đều chan hòa giọt
lệ, mến
tiếc và ca tụng ân đức của Đấng Trọn Lành.
Đức
vua liền hạ chiếu chỉ cho triều thần và các lớp dân chúng trong xứ
Kusinara,
đem bông hoa, nước thơm, nhạc lễ đến rừng Salavana, và dạy nội ngày ấy
cất rạp
cho rồi để thiết đại lễ cúng dường Phật tổ.
Công
việc tẩm liệm thi hài của đức Thế Tôn, vua làm y theo lời chỉ bảo của
Đại Đức
Ananda: lấy 1000 cây lụa trắng bao bọc Thánh Thể, ướp đủ các thứ nước
hương
thơm để vào hòm vàng.
Toàn
xứ Kusinara thiết lễ long trọng cúng dường đức Phật: cuộc lễ kéo dài đến
6 ngày
đêm. Qua ngày thứ bảy là ngày đức vua định hành lễ hỏa táng. Đúng giờ
phát
hành, 8 vị lực sĩ của vua, sắc phục chỉnh tề vào động quan, khiêng hòm
vào cửa
hướng Bắc thành Kusinara, và sau khi đi cùng khắp thành phố, trở ra cửa
hướng
Đông thẳng đến Tháp Makutabandhana Cetiya là nơi làm lễ Trà tỳ.
Trong
khi ấy, từ không trung rớt xuống những bông mạn thù sa cùng khắp thành
Kusinara, mùi thơm bát ngát. Dưới đất âm nhạc rền trời.
Khi
thỉnh hòm để trên hỏa đài rồi, có 4 vị quốc sư của vua từ 4 hướng cung
kỉnh đem
lửa mồi châm vào 4 góc. Lửa không cháy. Vua Malla kinh sợ đến bạch hỏi
Đại Đức
Anuruddha. Ngài trả lời: “Nên hưỡn lại một chút, chờ đại đức Ca Diếp sắp
đến
trong giây lát ”.
Một
chập sau, đại đức Maha Ca Diếp dẫn 500 đồ đệ đi ngay lại hỏa đài, khoác
áo vai
trái, chấp tay lễ bái, rồi đi quanh hòm vàng ba lượt, lại đứng ngay sau
hòm cúi
đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, 500 vị Tỳ kheo cũng tiếp làm theo y như
thế.
Đại
đức Maha Ca Diếp và chư Tăng làm lễ vừa xong thì lửa bốc cháy rầm rộ,
chẳng bao
lâu xong cuộc lễ Trà tỳ.
Vua
Malla đem nước thơm lại tưới trên hỏa đài, và thỉnh Xá Lợi về hoàng
thành,
thiết đại lễ cúng dường.
Xá
Lợi gồm có bảy miếng lớn thuộc về xương trán, xương vai và răng nhọn và
những
xương nhỏ bằng hột đậu xanh, hột gạo và hột cải. Cân cả thảy được 16
cân.
Một
mặt khác, Vua Malla hạ lệnh cho tu bổ hào lũy chung quanh đền, tập dượt
binh mã
và canh phòng nghiêm ngặt, để ngừa các nước lân bang đến chiếm đoạt Xá
Lợi.
Hẳn
thật như lời tiên đoán của Vua Malla, các nước kế cận lần lượt gởi binh
mã và
Sứ thần đến xin chia Xá Lợi:
Cả
thảy 7 đại diện của 7 vua:
Vua
Ajatasatru (A Xà Thế) xứ Magadha;
Vua
Sakya (dòng Thích Ca) xứ Sakka;
Vua
Licchavi xứ Vesali;
Vua
Thùliya xứ Allakappa;
Vua
Koliya xứ Ràmagàma;
Vua
Mall xứ Pàvà;
Và vị
Bà La Môn Mahàbrahma, thủ lĩnh xứ Veddhadipaka.
Bảy
vị Sứ này đến yết kiến vua Malla xứ Kusinara tỏ rằng:
“Chúng
tôi hay tin đức Thế Tôn đã nhập Niết bàn trong xứ của Đại vương; vì đức
giáo
chủ Gotama là vị pháp vương cao thượng, chúng tôi đây cũng thuộc dòng
cao
thượng, nên đến xin đại vương chia cho một phần Xá Lợi để đem về lập đền
thờ
cúng, chiêm ngưỡng hằng ngày; mong đại vương nhận lời”.
Bảy
Sứ thần, bề ngoài tỏ ý khiêm tốn, nhưng trong đã cương quyết bố trí binh
mã
ngoài thành, chờ coi vua Malla định đoạt thế nào.
Vua
Malla nhất định bát lời yêu cầu của các Sứ thần; nhưng các vị này không
nản
chí, cứ nài nỉ xin chia mãi.
(Hàng
trí thức nên hiểu rằng đức Phật định nhập diệt tại Kusinara là xứ nhỏ,
không đủ
lực lượng tranh đấu, có lẽ để ngừa xung đột về sau, do sự phân chia Xá
Lợi với
các cường quốc lân bang; nên khi đại đức Ananda yêu cầu Phật đến một
trong các
cường quốc để nhập diệt, Ngài không chịu nhận lời).
Về
phần vua Malla, trước sự nhẫn nại và cương quyết của các Sứ thần, Ngài
suy
nghĩ: xứ mình yếu kém, không đủ hùng binh ngăn chống, vả lại đức Thế Tôn
là bậc
thông hiểu quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi hành vi của Ngài đều đem lại
lợi ích
lâu dài cho chúng sanh. Ngài nhập Niết bàn tại xứ ta, ban bố Xá Lợi cho
ta, để
lại hạnh phúc cho ta, nhưng Xá Lợi này không bền vững lâu dài, và không
bằng sự
phụng hành giáo lý của Phật để lại hầu tránh khỏi sự giết hại lẫn nhau.
Không
lẽ các cường quốc này lại muốn khai chiến với ta. Nghĩ như vậy, Vua
Malla càng
có đức tin mạnh nơi oai lực của Phật, một mặt tỏ ý cương quyết không
chia Xá
Lợi, một mặt tinh tấn làm lễ cúng dường Xá Lợi để ngăn ngừa tai hại cho
xứ
Kusinara.
Các
Sứ thần cũng chẳng chịu nhượng bộ quyết khai chiến với vua Malla.
Khi
ấy có vị Bà La Môn tên Dona, là quốc sư của vua Malla, là bậc trí tuệ và
nhiều
kinh nghiệm, xin đứng ra làm tài phán phân giải đôi bên. Ông Dona nói
rằng:
“Thưa các Ngài! Chúng ta nên hiểu rằng đức Bổn sư chẳng phải là quyến
thuộc của
chúng ta, chúng ta muốn có Xá Lợi, chẳng qua là chúng ta đã công nhận
đức Thế
Tôn là một vị giáo chủ. Chúng ta có lòng ái mộ, muốn phụng thờ và hành
theo
chánh giáo của Ngài. Nếu vì sự sùng bái Ngài, mà khai chiến với nhau, là
một
việc không phải lẽ, mà làm mất sự thân thiện lẫn nhau. Vả lại đức Thế
Tôn xưa
kia chẳng hề dạy chúng ta gây chiến cùng nhau; trái lại Ngài hằng khuyên
chúng
ta nhẫn nại, từ bi hoà hợp, dứt bỏ điều oan kết và sự giết hại lẫn nhau.
Lại
nữa, khi đức Thế Tôn còn tại thế, các tín đồ hằng được gặp, được thấy,
được
cúng dường Ngài cùng khắp mọi nơi. Giờ đây đức Thế Tôn nhập diệt rồi, Xá
Lợi
được phân chia trong các xứ, tiện bề cho tín đồ bốn phương chiêm ngưỡng,
lễ bái
hằng ngày; thì đại chúng lấy làm hân hạnh biết bao! Hiện giờ các xứ lân
bang
lớn nhỏ đều có đại diện nơi đây, nếu chúng ta đem Xá Lợi ra chia nhau
mỗi xứ
mỗi phần bằng nhau, thì tình thân thiện giữa các quốc vương càng kết
chặt, thì
ai ai cũng vui mừng tránh khỏi tai hại tàn khốc của chiến tranh. Các Xá
Lợi
được đem về thờ cúng cùng nơi khắp chốn, người người phát tâm trong sạch
nơi
Phật bảo và hành theo Kinh Luật di truyền, xa lánh các điều ác, tạo thêm
các
nghiệp lành, thì kết quả của sự nhẫn nại và hòa thuận hôm nay là được
đoàn kết
giữa các lân bang, để cùng nhau tiến bước trên đường giác ngộ, diệt tận
những
mối thù oán, giết hại lẫn nhau. Như thế ấy, chúng ta mới tỏ ra là người
có đủ
cách làm đệ tử của đức giáo chủ Gotama.”
Vua
Malla và các Sứ thần công nhận lời phân giải của ông Dona, đồng lòng
giao cho
ông lãnh trách nhiệm phân chia Xá Lợi cho các xứ. Ông Dona dùng một cây
cân
bằng vàng cân tám phần Xá Lợi bằng nhau, giao cho đại diện các xứ, luôn
cả phần
của vua Malla. Rồi ông xin cây cân vàng về phần ông để làm kỷ niệm. Ông
được
như ý nguyện.
Sau
khi chia Xá Lợi xong, có dòng Moriya tại xứ Pipphali phái người đến xin
lãnh
một phần. Vua Malla lấy làm tiếc và cho hay rằng Xá Lợi đã được chia ra
đều đủ
cho các lân bang rồi; và cho Sứ thần một mớ tro đem về thờ thay thế cho
Xá Lợi.
Các
Xá Lợi được chia ra đồng đều cho tám nước; mỗi kinh thành mỗi lập đền
thờ long
trọng để cho vua chúa quan dân đến chiêm bái cúng dường.
Sau
lại có nhiều nguyên nhân làm cho Phật giáo suy đồi, như sự chia rẻ Tăng
đồ ra
hai phái Đại thừa và Tiểu thừa, nạn chiến tranh và sự phục hưng của đạo
Bà La
Môn, nên các Tháp Xá Lợi bị bỏ hoang hư lụn.
Thuở
Phật pháp được 218 năm, có vua A Dục ra đời đánh Nam dẹp Bắc, mở rộng
giang
sơn, lại có đức tin trong Phật giáo, nên tạo ra cùng nơi khắp chốn
84.000 Tháp
thờ, lấy các Xá Lợi trong tám Tháp đầu tiên chia ra để thờ trong các
Tháp mới;
và dựng bia đá làm dấu tích bốn chỗ Động Tâm là: rừng Lumbini, nơi Phật
giáng
sanh; Buddha Gaya, chỗ Phật hành đạo; rừng Isipattana (Lộc Giả) là nơi
Phật
chuyển Pháp luân; và vườn Kusinara, chỗ Phật nhập Niết bàn.
Ngoài
ra, vua A Dục còn dựng thêm bia đá ở nơi các ngã ba đường và khắc những
Phật
ngôn cùng lời ca tụng ân đức của đức Phật để khuyến khích dân chúng tôn
sùng
đức Phật.
Vua A
Dục còn phái chư Tăng đi truyền bá đạo Phật ra các nước lân cận; và đem
giống
Bồ Đề cùng Xá Lợi qua tận đảo Tích Lan. Nhờ vậy mà hiện giờ đảo Tích lan
trở
thành trung tâm Phật giáo.
Sử
tích của Xá Lợi trong thời kỳ thượng cổ như thế ấy.
Sau
thời kỳ A Dục, dân Ấn Độ trở lại theo đạo Bà La Môn, phế bỏ các Tháp thờ
Xá
Lợi. Có chỗ đạo Bà La Môn chiếm cứ, như đền thờ tại Buddha Gaya (chỗ
Phật thành
đạo) và sửa tượng Phật lại làm tượng Bà La Ma (Brahma) lợi dụng chỗ thập
phương
đến chiêm bái, hưởng lấy tài lợi rất nhiều.
Đến
thời kỳ nước Anh đô hộ, nhiều Tháp bị các nhà khảo cổ bươi móc, đem
những Xá
Lợi về chưng trong Tàng cổ viện xứ Anh, như Xá Lợi của đức Xá Lợi Phất
và đức
Mục Kiền Liên mà xứ Ấn Độ mới vừa đòi lại, sau khi được giải phóng.
Hiện
giờ hội Maha Boddhi (Đại Bồ Đề) đương lo trùng tu các Tháp và các Chùa
Phật
lại.
Với
các sự thay đổi trong xã hội Ấn Độ, và với những sự biến chuyển trong
lịch sử
Phật giáo, hiện giờ chúng ta không thể biết được rõ rệt các Xá Lợi của
đức Phật
còn mất thế nào và chia sớt nơi đâu.
Vả
lại theo lời của vua Malla, các Xá Lợi cũng không tránh khỏi luật vô
thường chi
phối; chỉ có sự thực hành theo giáo pháp của đức Thế Tôn di truyền là
điều cần
thiết. Vậy chúng ta nên cố gắng tu học mãi mãi cho đến ngày giải thoát
khỏi
vòng sanh tử luân hồi đến nơi vô sanh bất diệt là đại Niết bàn.
Đọc
tại Kỳ Viên Tự ngày 30 tháng 7 Nhâm Thìn (1952)
Source: daitangkinhvietnam