Từ khi hình thành nhà nước
dưới dạng sơ khai Lâm Ấp{190 – 193 sau công nguyên), đời sống văn hoá của
cộng đồng người Chămpa đã chịu sự tác động mạnh mẽ của sự đối lưu qua các nền
văn hoá bên ngoài. Vấn đề phát triển kinh tế – văn hoá mà đòn bẩy chính
là sự phát triển công kĩ nghệ sắt Sa Huỳnh, cùng với sự tác động mạnh của nền
nông nghiệp định cư bằng sản xuất lúa hai vụ đã đưa cộng đồng này tiến đến thời
kì thịnh vượng nhất. Không chỉ có sự tác động qua lại giữa công nghệ – kỹ
thuật sắt và nền nông nghiệp với tính ưu việt mà qua đó, chúng tôi còn muốn đề
cập đến vấn đề khác có tính tương trợ hết sức quan trọng, đó là tầm quan hệ đối
lưu của ngành thương nghiệp thông qua đường biển. Nhờ nhiều sản vật quý hiếm,
nhiều kỹ nghệ đồ sắt ưu việt, cộng đồng người Chămpa đã có những tổ chức đưa
các “ mặt hàng” của mình qua trao đổi đồng thời nhập về những “mặt hàng”
thiết yếu gia dụng, điều này được khẳng định qua sự có mặt của các đồ đồng của
văn hoá Đông Sơn, Phù Nam, và một số có liên quan đến sự đối lưu – trao đổi qua
đường biển như các vật trang sức, khuyên tai hai đầu thú, xâu chuỗi bằng thuỷ
tinh… xuất phát từ các nước Nam Á. Đặc biệt qua vấn đề hình thành chữ viết dựa
trên nền tảng đặc trưng chữ hình tượng của văn hoá Ấn Độ. Bằng chữ Phạn qua các
kí tự tìm được từ thế từ thế kỉ thứ I sau công nguyên, đồng với sự tiếp thu và
biến thể của một số nền văn hoá ngoại để phù hợp với nền văn hoá bản địa. Trong
đó, chịu sự rác động mạnh nhất của văn hoá Ấn Độ – Nam Á là điều tất yếu không
thể phủ nhận được, khi mà sự đối lưu hàng hải của Chămpa vào những giai đoạn đó
phát triển mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
Song song với việc chấp
nhận nền văn hoá Ấn ở thời kì dòng Phật giáo và Bà – La- môn đang được phát triển
mạnh mẽ. Hai triết học này cùng với nền kinh tế tăng trưởng đã có những bước
tác động sâu vào vaasn đề định hìh nền văn hoá Chămpa. Từ những vấn đề chúng
tôi vừa nêu ra ta có thể khẳng định rằng nền văn hoá Ấn Độ và Nam Á được truyền
về đây từ rất sớm đối với một cộng đồng mà tín ngưỡng tôn giáo là chủ lực
chính.
Vậy thì phật giáo được
du nhập vào Chămpa như thế nào? Câu hỏi này đã được nhiều lớp học giả
nghiên cứu về văn hoá Chămpa quan tâm và tiếp cận, nhiều nhà sử học cũng dành
nhiều thời gian để tìm hiểu vấn đề này. Riêng chúng tôi chỉ là những người thừa
kế của các bậc tôn sư đi trước để lại cùng với việc sưu tập tài liệu, các thư tịch
cổ có liên quan đến văn hoá Chămpa để phác thảo một trình tự nhất định nào đó của
dòng phật giáo, nét tư tưởng nổi bậc của nhiều vương triều Chămpa kế thừa và
phát huy. Lật các thư tịch cổ của Trung Hoa có liên hệ mua bán trao đổi với người
Chămpa vào những thế kỷ VII, Nghĩa Tịnh (I – Sting ) đã kể lại cộng đồng người
Chămpa vào thời kì này rất kính mến Phật Thích Ca. Khi tìm hiểu các sử liệu
Trung Hoa khác, một số nhà nghiên cứu còn cho biết thêm vào năm 605, quân nhà
Tuỳ khi đánh chiếm Chămpa đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó nổi bật
nhất là 1.350 pho kinh phật. Đồng thời dựa trên một văn bản được tìm thấy trên
bia Võ Cạnh – Nha Trang – Khánh Hoà – cho rằng vào thế kỉ thứ I, phật giáo là
tôn giáo chủ đạo xung quanh khu vực trung tâm của xứ kauthara. Sự sùng bái đạo
Phật có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng cộng đồng Chămpa đương thời. Khi tiến
hành nghiên cứu về văn hoá Chămpa, nhà nghiên cứu L.Finot đã có những khảo cứu
sưu tra bia Võ Cạnh – Nha Trang, cho biết thêm: “Nhà vua dựng bia để thể hiện ý
thức về sự bất thường của cuộc đời, về lòng trất ẩn đối với chúng sanh, sự hy
sinh của cải mình cho lợi ích chung…” đây là biểu hiện rỏ nét về sự ảnh hưởng
tư tưởng Phật giáo về tinh thần nhận thức của mọi tầng lớp trong xã hội Chămpa
lúc bấy giờ.
Căn cứ vào những chứng cứ trên, chúng ta
có thể cho rằng tư tưởng cùng dòng Phật giáo được truyền về và phát sinh ở đây
vào những giai đoạn niên kỉ I sau Công nguyên, cùng song song với sự
du nhập “ nở rộ” của nền văn hoá Ấn Độ và Nam Á. Thật vậy,miền duyên hải
miền Trung vốn có điều kiện thuận lợi về tìm năng hàng hải có các cửa biển tự
nhiên ưu đãi về vấn đề an toàn nơi trú ngụ của tàu thuyền, từ đây cùng với sự
phát triển phồn thịnh cùng với tính ưu việt của nền văn hoá ảnh hưởng đến là biến
chuyển từ nền văn hoá bản địa tiền Chămpa đưa đến một văn hoá Chăm. Sự
tác động mạnh mẽ đó làm ảnh hưởng nhất định đến tôn giáo trong thời kì này. Xét
về bối cảnh thời kì trước của Ấn Độ về khía cạnh tôn giáo cho đến lúc đức Phật
nhập diệt, trải qua một trăm năm biến chuyển trong cộng đồng Tăng lữ. Từ sự ủng
hộ nhiệt tình của các vương quốc, các trưởng giả giàu có và danh tiếng. Cũng từ
đây, dư âm và uy đức của đức Phật vẫn còn đang bao trùm các vương quốc
nên vấn đề qui ngưỡng về Tam bảo theo tinh thần tuyệt đối vẫn còn sâu đậm. Từ
đó tư tưởng của Arya- Samiti – Nikaya và Sarvativada theo đà đó phát triển mạnh
mẽ, nhiều vị vua trị vì ủng hộ sùng bái Phật giáo tạo nên một thời phồn vinh. Tất
nhiên những thương buôn là những Phật tử và những vị Sa môn theo gót viễn du về
những vùng đất mới còn mang bên mình một triết học – tôn giáo bản địa của mình
do mình hấp thụ được qua khắp vùng Châu Á. Trong những chuyến diễn du để trao đổi
hàng hoá trước yêu cầu ngày một lớn ấy, theo điều kiện của từng vùng đất và điều
kiện thuận lợi về hải cảng tạo nên một nền kinh tế phồn vinh – giao lưu văn hoá
có những bước thành tựu khả quan : trong đó hải cảng Chămpa là địa điểm các
thương buôn thường chú ý và tìm đến nhất bởi tầm quan trọng của vấn đề
trao đổi hàng hoá. Cũng từ đây một số vị Sa môn nhìn nhận và thấy rằng vùng đất
này có thể phù hợp để truyền bá chánh pháp và được cộng đồng này chấp nhận một
cách tích cực. Những vị chân tu Phật giaó theo thời gian phiêu du
tìm về nơi vắng vẻ để tụ tập – đồng thời hoằng hoá khai ngộ cho chúng sanh trước
công nguyên, và từ đó đưa triết lý của Phật giáo lên tuyệt đỉnh. Cùng với
sự phát triển đa chiều của Bà- la –môn, giáo, hai tôn giáo này đã bắt đầu
ăn sâu vào tư tưởng cuả cộng đồng người Chămpa đương sự. Bước vào thời kì sau
công nguyên, sự hoàn thiện về tư tưởng - tôn giáo được khẳng định tại
vùng đất này với một quốc gia phong kiến mang tên Chămpa. Một loài hoa tinh khiết
để cúng dường đức Phật đồng thời các phạm thiên ( đối với Bà-la – môn) để chính
thức lấy làm tên quốc hiệu của cộng đồng này