Linh Thứu sơn tiếng Pāli là
Gijjhakuta, nghĩa là ngọn núi kên kên (Vulture's Peak), tức trên đỉnh
núi có hình dạng của con kên kên là loài chim rất phổ biến ở Ấn Độ, gần
thành Vương Xá (Rājagaha). Từ trên đỉnh núi này, chúng ta có thể ngắm
nhìn toàn cảnh thành Vương Xá: những rặng núi chạy dài bao bọc xung
quanh, các đồng ruộng mênh mông bát ngát, các làng mạc và những phố xá
nằm rải rác quanh vùng. Tại Linh Thứu sơn này, nhiều bài kinh quan trọng
đã được đức Phật tuyên thuyết khi Ngài còn tại thế. Theo truyền thuyết
của Đại thừa, tại núi này, đức Phật đã thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa
(Saddharmapundarika Sutta), là bộ kinh quan trọng của Đại thừa Phật
giáo, là kim chỉ nam của hành giả Pháp Hoa tông. Cho nên vào đầu kinh
chúng ta thấy câu xướng lễ: Nam mô Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát,
chính là nói đến pháp hội Tam thừa quy nhất tại núi Linh Thứu, đức Phật
khuyến hóa hàng Thánh giả Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát),
nên hướng về Nhất thừa, tức là Phật thừa. Trong kinh này, đức Phật khẳng
định Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sinh, không phân biệt nữ
nam, quý tiện vì ai cũng có Phật tánh và sẽ thành Phật, thông qua lời
tuyên ngôn của Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Một điều đặc biệt không thể không nhắc đến, đó là hình thức chiếc y của
các thầy Tỳ kheo, là một bảo vật, là tấm bùa hộ mạng luôn mang bên mình
không được xa rời dù chỉ một đêm. Sở dĩ y của các thầy Tỳ kheo được gọi
là áo ruộng phước (phước điền y) chính là lời dạy từ kim khẩu của đức
Thế Tôn. Một hôm, đức Phật cùng với các môn đệ đứng trên núi Linh Thứu
ngắm nhìn cảnh sinh hoạt của nông dân và những cánh đồng mênh mông dưới
chân núi. Ngài thấy những thửa ruộng được chia thành từng luống cách ly
với nhau, vừa để phân biệt quyền sở hữu của mỗi người đồng thời dễ canh
tác, nhất là trong việc giữ nước. Từ hình ảnh này đức Phật liên tưởng
đến các thầy Tỳ kheo. Đức Phật nghĩ rằng, các thầy Tỳ kheo như những
ruộng phước để chúng sanh gieo trồng hạt giống Bồ đề; nếu các thầy tu
tập giới đức thanh tịnh trang nghiêm, thì bản thân các thầy như mảnh
ruộng tốt làm cho chúng sanh gieo giống được mùa. Bằng ngược lại, các
thầy là mảnh đất cằn cỗi không đem lại nguồn sống tốt cho mọi người. Vì
vậy, chiếc y các thầy Tỳ kheo, dù là y bá nạp hay cắt may đều phải thành
từng ô vuông nho nhỏ kết lại mà không được mặc vải liền. Ý nghĩa y
phước điền được xuất xứ từ ngày ấy.
Trước
khi đến đỉnh núi Linh Thứu, chúng ta đi qua những địa điểm được đánh
dấu là vị trí quan trọng. Khoảng nửa đoạn đường lên đỉnh được xác nhận
nơi vua Tần Bà Sa La xuống kiệu để thân hành viếng thăm đức Phật. Qua
đoạn đường dốc gần đến hương thất Phật ngự, chúng ta thấy hang động nhỏ,
nằm bên tay phải lối đi, được cho là thạch thất của Tôn giả A Nan, vị
thị giả suốt đời hầu cận trung thành bên đức Thế Tôn. Phía trước thạch
thất này, có tảng đá lớn và nhiều mảnh vỡ được đánh dấu đó chính là tảng
đá mà xưa kia Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), người anh em chú bác của Phật,
lăn xuống để hại Phật, lúc Ngài đi ngang qua lối hẹp này. Nhờ oai thần
của bậc đại giác, Đề Bà Đạt Đa đã không thực hiện thành công mưu đồ bất
chính của mình. Phía trên thạch thất Tôn giả A Nan khoảng 15 bậc thềm
thang, gần hương thất của Phật là thạch thất của Tôn giả Xá Lợi Phất
(Sāriputta), vị tôn giả trí tuệ bậc nhất trong hàng môn đệ của Phật.
Xung quanh khu vực này còn nhiều thạch thất khác của chư thánh đệ tử
Phật như Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên.... Trên cùng là hương
thất của Phật, gần mỏm đá được cho là giống cái đầu con chim kên kên,
nơi đức Phật thường ngự khi Ngài dừng chân tại Linh Thứu. Đây là điểm
cao nhất của ngọn núi này. Từ đây chúng ta có thể quan sát quanh khu vực
này cho dù các cảnh vật rất xa. Hai chữ Hương thất là từ xưng tán công
đức, giới hạnh của Phật tỏa ngát như hương thơm bay khắp bốn phương, làm
cho mọi người phải ngưỡng mộ một cách say sưa. Trong kinh Pháp Cú phẩm
Hoa, đức Phật dạy: “Trong các loài hoa, dù là hoa Chiên đàn, hoa Đa dà
la hay hoa Mạc lợi, tuy thơm thật nhưng không thể bay ngược gió. Chỉ có
mùi hương của người tu đức hạnh tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương”.
(PC - 54)
“Hương thơm hoa quý thua xa
Hương người đức hạnh chan hòa vượt trên
Xông lên mãi tận chư Thiên
Tỏa ra ngan ngát khắp miền trời cao”.
(Tâm Minh)
Ngày hôm nay, hương thất này không còn
nữa, chỉ được người đời sau xây dựng một nền gạch tưởng niệm khoảng 3
mét vuông để đánh dấu vị trí chỗ thường ngự của Phật hơn 2.500 năm về
trước. Các đoàn hành hương thường làm lễ và cầu nguyện trong phạm vi
hương thất này. Các bản kinh thường được dùng để tụng đó là kinh Phổ
Môn, được trích từ kinh Pháp Hoa, phẩm Quan Thế Âm thứ 25.
Trong khoảnh khắc dừng chân ở tận đỉnh
cao nơi hương thất của Phật, bốn bề gió lộng mênh mông, cảnh vật im lìm
trong khoảng không bất tận, cho dù có người qua kẻ lại, nhưng ai cũng
giữ chánh niệm, im lặng để cảm niệm hồng ân của đức Thế Tôn, lòng chúng
tôi cảm thấy được an ủi đôi phần. Mặc dù không đủ duyên lành được sinh
ra trong thời Phật còn tại thế để được dự phần trong Pháp hội Linh Sơn,
nhưng cũng may mắn tận mắt chứng kiến, tưởng niệm và đảnh lễ những nơi
đức Phật từng tu tập và giảng kinh thuyết pháp năm xưa, dù là trên đỉnh
núi cao hay trong các hang động liên quan đến cuộc đời Ngài. Bốn mươi
lăm năm hoằng hóa độ sanh với đôi chân trần bằng xương bằng thịt, đức
Phật đã vân du khắp bốn phương trong xứ Ấn để hóa độ chúng sanh, cho dù
là kẻ hạ tiện như Ni Đề, người làm nghề gánh phân, là công việc bẩn thỉu
nhất hay những người kỹ nữ như Ambapali... đều được sự che chở, thương
yêu bình đẳng như các thánh đệ tử của Ngài. Một tấm gương sáng chói, một
đức hạnh cao vời, chỉ có một và chỉ một lần trong lịch sử xuất hiện
đấng cứu thế trong hiền kiếp này. Bằng chút tấc lòng son, trọn đời chúng
con quyết noi theo con đường của Phật, dẫu không đạt đạo cũng nguyện từ
đời này đến vạn kiếp sau ghi khắc mãi trong tim những lời vàng ngọc của
Người, không cô phụ một đời gian nan, khổ cực của đấng cha lành đã tìm
ra ánh đạo quang minh, tìm ra con đường giải thoát khổ đau cho vạn loại
hữu tình mà không có một con đường nào khác, một tôn giáo hay một học
thuyết nào ngoài lời dạy của Phật có thể giải quyết tận gốc thảm kịch
muôn đời của trần thế, tức giải thoát luân hồi tử sinh.
Bên
phải Linh Thứu sơn là núi Sonagiri, trên đỉnh có một cái tháp cao màu
trắng được gọi là tháp Hòa Bình của Phật giáo Nhật Bản, do Hòa thượng
Nichidatshu Fuji, thuộc tông Thiên Thai, xây dựng với ước nguyện cầu cho
thế giới hòa bình, chúng sanh an cư lạc nghiệp. Đây là một trong rất
nhiều công trình được Hòa thượng xây dựng trên đất Phật, kể từ sau sự
kiện hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố lớn trên xứ sở hoa
anh đào của ngài: Hiroshima và Nagashaki vào tháng 8 năm 1945. Kiến trúc
tất cả các tháp đều có kiểu dáng giống nhau, đều cấu trúc hình tròn và
chóp nhọn ở đỉnh. Bốn mặt phân đều theo bốn hướng tôn trí 4 tượng Phật
màu vàng, dựa trên bốn sự kiện trọng đại: Đản sanh, Thành đạo, Chuyển
pháp luân và nhập Niết bàn.
Các đoàn hành hương, thường hay nhầm
lẫn giữa núi Linh Thứu và núi Sonagiri, nơi có tháp Hòa Bình Nhật Bản,
nếu không được quý thầy cô thường dẫn đoàn hay những người hiểu biết về
di tích hướng dẫn. Cũng là khu vực quanh núi Linh Thứu, nhưng đường lên
tháp Hòa Bình rất dễ vì đi bằng cáp điện treo (chairlift), còn đường lên
núi Linh Thứu thì đi bằng bậc tam cấp. Vì vậy chúng ta cần phải tìm
hiểu kỹ càng hoặc tư vấn với những người đã từng đi một cách tường tận,
chính xác để khỏi phải xảy ra những điều đáng tiếc như chúng tôi năm xưa
hăm hở lên tận tháp Hòa Bình mà cho rằng mình đã đến đỉnh núi Linh
Thứu, bởi vì mình chỉ biết trong kinh điển chớ không biết được địa điểm
thực tế. Khi hiểu ra thì mọi việc đã trôi qua hơn hai năm rồi. Đúng là
chuyện dở khóc dở cười!!!
Source: DPNN