1. Khái quát ý nghĩa và xuất xứ của Lộc Uyển
Lộc Uyển hay còn gọi là Lộc Dã Uyển (Migadāya), nghĩa là Vườn
Nai, cách thành phố Ba La Nại (Benares) khoảng 12 km, nơi đức
Thích Ca Mâu Ni chuyển bánh xe pháp đầu tiên, thuyết về bốn chân lý
cho năm anh em Kiều Trần Như (Koddañña), nhóm đồng tu khổ hạnh
trước khi Ngài giác ngộ dưới cội Bồ Đề. Chính nơi đây đã khởi
đầu cho việc thành lập Tăng đoàn và từ Tam Bảo cũng xuất xứ từ di
tích lịch sử trọng đại này. Ngoài danh xưng Migadāya kinh điển Pāli
thường gọi nơi này la Isipatana nay thuộc Sarnath, nghĩa là chổ trú
ẩn của các vị ẩn sĩ hay còn gọi là chư tiên đọa xứ, nơi hội ngộ của
các vị tiên nhân hay nơi đánh dấu sự ra đời của các vị Độc Giác Phật,
đồng thời cũng là khu vườn yên tĩnh dành cho các vị ẩn sĩ tu hành.
Các loài thú hiền lành đặc biệt là loài nai sinh sống yên ổn, ngây
thơ, thanh bình giữa thiên nhiên hoang dại. Đó chính là nhờ sự bảo hộ
của vua xứ Ba La Nại, người đã cấm không được săn bắn, quấy rầy các
loài cầm thú nơi này.
Tên gọi Lộc Uyển xuất xứ từ một truyền thuyết được kể lại
trong Bổn Sanh Kinh, nói về tiền thân của đức Phật và Đề
Bà Đạt Đa là nai chúa của hai đàn nai sống trong khu vườn này. Vì để
cứu mạng cho một con nai đang mang thai đến lượt phải dâng mạng
cho bữa ăn của nhà vua, nên nai chúa của đàn kia, chính là
tiền thân của đức Phật, chịu chết thay để cho hai mẹ con ấy
được sống bình an. Vì cảm phục tấm lòng thương yêu bầy đàn, mà
loài súc vật cũng có tình cảm lớn như thế, một trái tim yêu thương
không khác loài người, nhà vua tha mạng cho tất cả loài nai được sống
an toàn. Từ sự kiện đó, danh xưng Lộc Uyển thật xứng hợp với nơi
cảnh trí thần tiên xứ Ba La Nại. Cho dến thời đức Phật, nơi này
vẫn là chỗ trú thân an toàn của loài sinh vật hiền lành này. Thậm chí
đến ngày hôm nay, khi đến tham quan khu Lộc Uyển, chúng ta vẫn
thấy nhiều giống nai khác nhau, sống quây quần bên nhau một cách an
lành.
Lộc Uyển là khu vườn nằm trong xứ Ba La Nại, một thành phố cổ
tọa lạc cạnh lưu vực sông Hằng, một thời đã đạt đến đỉnh cao
về kiến trúc và kinh tế, đặc biệt là hàng tơ lụa kashi. Tại nơi
này, bài pháp đầu tiên mở đầu cho công cuộc hoằng pháp của đức
Phật chính là Tứ Diệu Đế, chân lý của Phật giáo cũng là một thông
điệp cứu khổ cho mọi sinh linh đang lặn hụp trong biển đời sanh tử.
Vì vậy, chúng ta không còn xa lạ gì khi thấy biểu tượng bánh xe
chánh pháp nằm giữa hai con nai, đó là tóm tắt cho ý nghĩa việc
sơ chuyển bánh xe pháp tại vườn nai.
Khu thánh địa lịch sử trọng đại này, ngoài sự biến hoại theo không
gian, thời gian, nó còn chịu sự hủy phá không thương tiếc của những
đế chế không tin Phật giáo và những kẻ xâm lược bạo tàn. Mặc dù chúng
ta không thấy được hết vẻ uy nghi tráng lệ từ lầu cát, tu viện cho
đến cảnh trí của một thời vàng son Phật giáo, nhưng những dấu vết của
nền móng cổ xưa, nhiều tượng Phật cổ, những di tích xưa … vẫn nằm im
lìm chờ đợi sư hồi sinh trong một thời gian gần hoặc xa, được tìm
thấy dưới lớp đất sâu, mà sau năm tháng gió bụi thời gian và bão cát
lấp vùi.
Không chỉ là thời Phật còn tại thế, vào thế kỷ V, vẻ uy nghiêm của
các tu viện, sự đông đúc của các tăng sĩ Phật giáo và du sĩ Bà La
Môn đã được nhà chiêm bái Pháp Hiển ghi lại như sau: “Thuở đó, Lộc
Uyển có hai ngôi tự viện với nhiều tăng sĩ tu học và bốn tháp lớn”.
Vào thế kỷ VII năm 629, trong Đại Đường Tây Vực Ký, Ngài
Huyền Trang mô tả một cách chi tiết hơn : “Tại đây có khoảng 30 ngôi
tự viện với trên 3.000 tăng sĩ tu học theo trường phái chánh lượng
bộ. Bên cạnh những tăng sĩ Phật giáo cũng có khoảng 10.000 du sĩ Ấn
giáo đang tu tập khổ hạnh quanh vùng”. Điều đó đủ chứng tỏ sức sống
tâm linh mãnh liệt của người dân Ấn Độ nói chung hay cộng đồng Phật
giáo nói riêng, đã phát triển mạnh mẽ trên vùng đất màu mỡ tín ngưỡng
và khu thánh địa thiêng liêng này.
Những gì còn sót lại trong vùng khảo cổ được tìm thấy như là: các
bức tường gạch nằm ngang dọc của các tu viện; tháp Dhamek, được
tương truyền là nơi đức Phật phó chúc cho Bồ Tát Di Lặc; trụ đá A Dục
Vương, chứng tích hùng hồn khẳng định vị trí Phật giáo trong cách
nhìn của các nhà học giả và tôn giáo học phương Tây; tịnh xá Kittoe,
tên của một người đã đốc xuất công trình khai quật thánh địa Sarnath
vào năm 1934; tháp Sri Dharmarajika, bên trong được tôn thờ xương
cốt của Phật hay các vị thánh tăng; tháp Choukhanda hay Chaukhandi,
nơi hội ngộ giữa đức Phật và những người bạn đồng tu, sau khi Ngài
thành đạo….. Với sự giới hạn của việc chiêm bái thánh tích, chúng ta
chỉ tìm hiểu một vài sự kiện trọng đại liên quan đến các di tích này
mà thôi.
2. Phế tích các tu viện thời xa xưa
Trước hết, chúng ta tìm hiểu về những bức tường ngang dọc được xác
định là vết tích của các tu viện thời đức Phật và sự phát triển
không lâu sau này. Đoàn chúng tôi đi rảo quanh những bức tường, những
nền gạch cũ nằm ngang dọc còn sót lại. Khi mới nhìn vào, chúng ta
không thể hình dung được nó là cái gì, nếu không được sự hướng dẫn và
nghiên cứu trước. Chính nơi này đã đánh dấu sự kiện lịch sử trọng
đại, nơi mà đức Phật đã trải qua mùa an cư đầu tiên; những khu nhà
cho tăng chúng lưu trú tu hành, khu pháp đường dành cho đức Phật
thuyết pháp… bây giờ chỉ là những nền gạch ngang dọc, đổ nát rêu
phong, đang được bảo vệ và duy trì của cộng đồng Phật giáo và các tổ
chức bảo vệ di tích lịch sử thế giới.
3. Tháp Dhamek
Tháp Dhamek. Ảnh: Tâm Bửu
Từ ngoài cổng đi vào, trong khuôn viên Lộc Uyển, nhìn qua hướng
tay phải cách khoảng 100 m, chúng ta thấy một ngôi tháp tròn cao lớn,
được xem như là ngôi tháp còn nguyên vẹn tại thánh địa Sarnath này
đó là tháp Dhamek. Theo quyển Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng
Minh Châu, Dhamek là chữ viết tắt của chữ Dhamma Mukha nghĩa là suy
tưởng chánh pháp, được tương truyền là nơi đức Phật đã phó chúc cho
Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật đời sau. Tháp Dhamek cao khoảng 34m và
đường kính khoảng 28m. Vào khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên,
ngôi tháp này được vua A Dục xây dựng để đánh dấu vị trí xuất xứ của
bài pháp đầu tiên, khởi nguồn cho bánh xe chánh pháp lăn chuyển.
Nhiều hoa văn chữ vạn cũng như hoa sen hoặc hình bông mai được khắc
chạm xung quanh tháp. Trên thân tháp, ngay ô trống có tôn trí tượng
Phật kiểu dáng ngồi thuyết pháp thuộc thời đại Gupta. Tượng Phật này
và khoảng 300 tượng khác quanh vùng đang được lưu giữ tại viện bảo
tàng khảo cổ Sarnath. Nhóm năm người chúng tôi quỳ đảnh lễ tháp mà cứ
ước mong sao mình như là hóa thân của năm vị tiền bối ngày xưa, được
diễm phúc ngồi lắng nghe Phật thuyết pháp. Nhưng rất tiếc chúng tôi đều
là hạng phàm phu đời Mạt, phước mỏng nghiệp dày, không đủ duyên lành
để được nghe pháp từ kim khẩu của đức Thế Tôn.
4. Trụ đá của vua A Dục (Asoka)
Trụ đá của vua A Dục. Ảnh: Sưu
tầm
Đi sâu vào bên trong khoảng 2/3 diện tích khai quật, chúng ta thấy
có một nhà nhỏ vuông vức khoảng 2,5m, đáy nằm sâu xuống lòng đất
khoảng ba mét, có những trụ đá tròn và những đoạn bị vỡ, đó chính là
trụ đá của vua A Dục được dựng lên để xác định nơi chuyển bánh xe
pháp đầu tiên của Phật. A Dục Vương được xem là vị Vua Phật tử, đã có
công rất lớn trong việc truyền bá chánh pháp trong nước cũng như ảnh
hưởng đến các nước láng giềng xung quanh. Vào khoảng thế kỷ III
trước kỷ nguyên tây lịch, đại đế của vương triều Khổng Tước (Maurya),
vị vua Phật tử này đã tận tình trong việc bảo tồn và phát triển
Phật giáo sau Phật nhập Niết Bàn khoảng 218 năm. Sự giác ngộ Phật
giáo của vua bắt nguồn từ một cuộc chiến tiêu diệt bộ tộc Kalinga,
sự giết chóc tang thương, xác người như rạ nằm lăn lóc trên những vũng
máu oan nghiệt diễn ra trước mắt đã làm chấn động lương tâm của một
vì vua hiếu chiến bạo tàn. Để chuộc lại lỗi lầm, Ông đã chọn Phật
giáo, một tôn giáo giàu lòng từ bi, nhân ái, bất hại với muôn loài
làm nơi quy hướng, tu tạo nhiều công đức lành để bù đắp tội lỗi xưa.
Chính vì vậy mà đạo Phật có một giá trị lịch sử trên thế giới, phần
lớn nhờ vào sự đóng góp nhiệt tình, vĩ đại của Ông, đặc biệt là các
trụ đá và bia ký tồn tại nơi mỗi thánh địa quan trọng.
Tại Sarnath, để đánh dấu nơi Sơ Chuyển Pháp Luân và thành lập
tăng đoàn Phật giáo đầu tiên, vua A Dục đã thân hành đến chiêm bái và
dựng lên trụ đá cao 15,5 m và đường kính 0,7m, có tượng hình sư tử
bốn đầu ở trên đỉnh phân đều bốn hướng. Dưới chân trụ gồ ghề và đặt
trên một nền đá lớn, phần thân trụ thon và thẳng, đường kính phía
dưới là 0,7 m, đường kính phía trên là 0,56m, được mài bóng láng
trước khi khắc chỉ dụ của Vua. Ngoài chỉ dụ của vua Asoka được viết
băng chữ Brahmi, còn có hai đoản văn khác, một thuộc triều đại
Kushana đề cập đến Ngài Mã Minh, một trong những vị đại tổ sư có công
truyền bá Phật giáo Đại Thừa; và đoản văn thứ hai đề cập đến tên của
vị tổ sư trường phái Chánh Lượng Bộ. Mặc dù các trụ đá phần lớn
không còn nguyên vẹn, nhưng các phần gãy đổ cũng như bia ký vẫn còn
được bảo tồn nơi viện bảo tàng khảo cổ Lộc Uyển.
5. Tháp Sri Dharmarajika
Tháp Sri Dharmarajika., Ảnh:Sưu tầm
Nằm giữa khuôn viên khu khai quật là một mô đất tròn, nền cao với
hồ xung quanh, được tương truyền rằng, trong ngôi tháp này có thờ xá
lợi của Phật. Tháp này trước kia rất lớn, bằng tháp Dhamek, nhưng bị
huỷ phá. Ngài Pháp Hiển vào thế kỷ V đến thăm tháp này và để lại ký
sự chứng minh. Vào năm 1794, vì thiếu vật liệu xây dựng thành phố
Jagatguni, ông Jagat Singh, Bộ trưởng của vua Chet Singh ở Ba La Nại, đã
sai người đến phá hủy ngôi tháp để lấy gạch và đá. Trong khi đào đá
và gạch, ông tìm thấy một cái tráp bằng đá trong đó có một hộp bằng
cẩm thạch đựng "Tro" chắc chắn là Xá Lợi đức Phật hay một vài vị
Thánh tăng. Không biết dùng Xá Lợi này làm gì, theo tục lệ Ấn giáo,
ông đã làm lễ thả xuống sông Hằng. Như thế Phật tử chúng ta đã mất đi
một báu vật quí giá. Biết bao nhiêu ngọn tháp cũng chung số phận
tương tự trước khi Viện Bảo Tàng thành lập. Trong khuôn viên này có
một hương thất gọi là Mulagandhakuti nghĩa là phòng thơm, chỉ phòng
đức Phật ở. Không riêng gì thất này có tên ấy vì đó là nơi Ðức Phật
an cư trong 3 tháng đầu tiên, sau khi Ngài thành đạo Bồ Đề, mà hầu
như là mỹ từ chung cho tất cả nơi có thất dành riêng cho đức Phật lưu
trú.
6. Tháp Choukhanda hay Chaukhandi
Tháp Chaukhandi Ảnh: Sưu tầm
Ngôi tháp này cách Lộc Uyển một đoạn đường khoảng 10 phút đi bộ.
Vị trí ngôi tháp này đã đánh dấu cho cuộc hội ngộ đặc biệt giữa đức
Phật và nhóm bạn đồng tu khổ hạnh trước kia. Trong lúc tu hành, vì
bất mãn với bát cháo sữa đức Phật dùng do nàng Sujāta dâng cúng nên
nhóm bạn đã rời bỏ đức Phật đi tìm chỗ tu riêng. Sau khi thành đạo, vì
muốn giác ngộ cho những người bạn cũ, đức Thế Tôn đến vườn Lộc Uyển
tìm lại năm anh em Kiều Trần Như. Khi thấy đức Phật xuất hiện từ xa,
năm vị này bảo nhau đừng chào và đừng kính lễ vị Sa Môn đã quay về
với đời sống dục lạc, cho dù là một bát cháo sữa. Nhưng khi đức Phật
tiến lại gần vì kính mến phong độ siêu phàm, oai nghi đĩnh đạc, đức
tướng trang nghiêm của một người thoát tục, không ai bảo ai, người
thì soạn chỗ ngồi, người thì cầm bình bát, người thì tìm nước rửa
chân cho Phật. Sau khi gặp lại nhau, đức Phật đưa cả năm vị đến nơi
cách đó nửa dặm (chính là vị trí của tháp Dhamek hiện giờ) và
thuyết pháp cho năm vị này bằng bài pháp Tứ Diệu Đế. Mở đầu bài
pháp, Ngài đã đánh tan nhận thức sai lầm của các vị này bằng một lời
chỉ dạy rất chân xác, rất dứt khoát: “Này các Tỳ kheo, có 2 điều thái
quá (cực đoan), người xuất gia không nên theo. Thế nào là hai? Một là
mê đắm dục lạc, hạ liệt phàm phu không xứng Thánh hạnh, không thiệt
lợi đạo. Hai là tu khổ hạnh, khổ đau, không xứng Thánh hạnh, không
thiệt lợi đạo. Này các Tỳ kheo, chính nhờ từ bỏ hai điều thái quá
này, đức Như Lai giác ngộ con đường trung đạo, con đường đem đến pháp
nhân, trí huệ, đưa lại an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn". Kinh
Chuyển Pháp Luân – HT. Minh Châu dịch. Và sau bài pháp này năm anh
em Kiều Trần Như (Koddañña)
chứng được thánh quả A La Hán và trở thành năm vị đệ tử xuất gia đầu
tiên của đức Phật.
Mặc dù quá khứ nơi này là một trong những thánh địa có nhiều sự
kiện lịch sử trọng đại nhưng hiện tại Choukhanda chỉ là nền gạch cũ
rêu phong, trên ấy là một vọng tháp hình bát giác cao khoảng 25 m, do
Vua Humàyùn kiến tạo để kỷ niệm nơi ông đã từng lánh nạn vào khoảng
thế kỷ XVI, vì vậy nét kiến trúc không mấy cổ xưa. Khi vào bên trong
tháp bát giác, chúng tôi thấy có những viên đá tròn, cao khoảng 4
tấc, được cho là vật biểu trưng đức Phật và năm người bạn đồng tu hội
ngộ. Trong số đó có một viên đá khác biệt được chỉ cho đức Phật, năm
viên đá còn lại giống nhau để chỉ cho năm anh em Kiều Trần Như. Từ trên
đỉnh tháp chúng ta có thể nhìn thấy quần thể chùa, tháp, các khóm
hoa thược dược của người Nhật trồng làm cảnh và toàn thể khu vực
Sanarth này. Theo dòng chảy thời gian trong khuôn viên của Lộc Uyển,
ngôi tháp này vẫn đứng trơ vơ, thầm lặng, sừng sững trên nền gạch cũ
vẫn còn được nhắc đến như một kỷ niệm vàng son của Phật giáo, cho dù
đó chỉ là danh xưng còn nằm trong kinh điển.
7. Tản mạn trên sông Hằng
Buổi bình minh trên sông Hằng. Ảnh: Sưu tầm
Khoảng 5 giờ sáng, mặc dù ngoài trời rất lạnh, đoàn chúng tôi đã
rời khỏi khách sạn Sarnath để thưởng thức bình minh nơi sông Hằng.
Bởi vì mọi người thường nói rằng, khi tham quan đất Phật mà không đến
được sông Hằng để ngắm ánh mặt trời lúc bình minh thì chưa thể gọi
là tham quan Ấn Độ. Sông Hằng là cái tên rất quen thuộc trong tôi.
Thuở nhỏ, thường đêm sau mỗi thời kinh, tôi hay ngắm hình dòng sông
Hằng được in trong quyển Kinh Nhật Tụng, do Hoà thượng Thiện
Hoa biên soạn. Ấn tượng nhất từ bức ảnh này là dòng chữ được chú
thích ở phía dưới: “sông Hằng nơi xứ Phật Ấn Độ”. Và trong các kinh
đức Phật thường sánh ví thế giới nhiều như số cát sông Hằng (Hằng hà
sa số thế giới). Thuở đó, mặc dù không biết Ấn Độ ở nơi nào, cũng
không hình dung được tí gì liên quan đến nó, nhưng tôi cảm thấy một
niềm yêu thích lâng lâng bởi tính chất thiêng liêng ẩn tàng từ hai
chữ Sông Hằng. Tôi không dám mơ ước gì về việc chiêm bái đất Phật hay
ngắm dòng sông linh thiêng này, nhưng tôi vẫn ngưỡng mộ và thần
tượng về một đất Phật kì bí trong tâm khảm của cậu bé vừa lên tám.
Ấn Độ có hai dòng sông lớn, đó là Ấn Hà và Hằng Hà. Sông Hằng
(Gadgā river) là một con sông linh thiêng của người dân Ấn. Dòng sông
này được bắt nguồn từ dãy Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya), chảy qua Tây
Tạng rồi đến Ấn Độ, với độ dài trên 5575 km. Bởi được bắt nguồn từ
ngọn núi xem như là nóc nhà thế giới, là cái rốn của vũ trụ, là nơi
hội tụ nhiều câu chuyện thần thoại ly kỳ, là nơi ẩn tu của các ẩn sĩ
cũng như các vị thánh, nên mọi người dân Ấn tin tưởng tuyệt đối vào sự
mầu nhiệm của dòng sông này. Họ cho rằng nước dòng sông có thể rửa
sạch mọi tội lỗi và ban phước lành cho họ một cuộc sống bình an.
Không phải từ thời đức Phật hay hàng mấy nghìn năm trước đó, thậm chí
bây giờ, đối với người Ấn, niềm tin vào dòng sông này chẳng những
không giảm mà còn tăng lên bởi bao sự kiện thần bí được các giáo chủ
của họ thêu dệt, tô điểm thêm lên. Để chứng kiến điều này, chúng ta
chỉ cần nhìn những phong tục tập quán được thể hiện trong đời sống
hằng ngày của cư dân quanh vùng. Mỗi buổi sáng, vào khoảng 4 – 5 giờ,
dù là trời lạnh giá, hàng mấy nghìn người từ khắp mọi nơi lũ lượt
kéo về để tắm rửa và cầu nguyện, thậm chí còn uống nước ngay nơi mà
họ tắm. Lúc thả thuyền du ngoạn để đợi ánh bình minh ló dạng trên
sông Hằng, chúng ta thấy đây đó hai bên bờ sông lóm khóm những ánh
lửa bập bùng sáng cả một vùng, đó chính là những giàn hoả tạm thời
đang thiêu xác người vừa qua đời. Đây là một trong những cách mai
táng phổ biến của người Ấn Độ. Họ có ba cách mai táng truyền thống:
thuỷ táng, hoả táng và lâm táng. Thuỷ táng là thả xác người trôi lềnh
bềnh trên sông; hoả táng là đốt thây chết trên một giàn thiêu tạm
thời và tro được rải theo dòng sông như chúng ta vừa chứng kiến; và
lâm táng nghĩa là ném thây người chết vào rừng cho các loài kên kên,
diều quạ ăn thịt. Cho nên thỉnh thoảng chúng ta thấy trong kinh điển
thường nhắc đến từ Thi Lâm (rừng thây) chính là một trong những cách
chôn cất truyền thống Ấn Độ.
Nhìn những phong tục này chúng ta cảm thấy ngậm
ngùi, khi nghĩ đến giá trị cuối cùng của đời người chỉ là nắm tro tàn
trên sông, một cuộc hành trình viễn du của kiếp người bồng bềnh trên
biển đời sanh tử. Vì vậy, thật tuyệt vời thay! Khi một ai đạt đến
sự giác ngộ không còn tái sanh như lời tuyên ngôn của đức Phật: “Đây
là kiếp cuối cùng, ta không còn tái sanh vào cõi đời này nữa”.
Còn biết bao lễ hội kì dị, nhiều tôn giáo hủ tục
và sự sinh hoạt lạc hậu trên dòng sông đen ngòm chứa đầy rác rưởi,
thây chết và nhiều chất thải… đang thịnh hành một cách ngỡ ngàng
trong ánh mắt của khách tham quan, nhưng ánh minh trên sông Hằng cũng
mở màng cho một ngày mới, một tia hy vọng, một cảm giác thanh nhàn
bởi những tia nắng hồng ban mai đã làm phôi pha bao cảm giác u hoài
trong tâm khảm mà chúng ta vừa chứng kiến. Thật diễm phúc thay! Thiên
nhiên đã bù đắp lại cho những người khốn khó và lạc hậu, nơi đất khô
cằn sỏi đá này những tia nắng ấm ban mai êm ả, thanh bình dù là
tháng hè oi bức hay trong những ngày trời đông lạnh giá, xoa dịu bớt
phần nào cho một kiếp đời còn thiếu áo cơm và thiếu những tiện nghi
tối thiểu mà không tìm thấy ở bất cứ một quốc gia tân tiến nào trên
thế giới.
Rời khỏi sông Hằng để đến thành Xá Vệ (Sāvatthī ),
nhưng bao suy nghĩ miên man, bao niềm thương cảm u hoài cứ trào dâng
trong tôi, trong trái tim của người con Phật bởi những hình ảnh khổ đau
vừa diễn ra trước mắt. Ngay giờ phút đó, tôi cũng mong sao dòng sông
Hằng hãy có một phép mầu như niềm kỳ vọng của họ để cuốn trôi tất cả
những cặn bã bất hạnh đang bu bám vào những mảnh đời cơ cực và ban
tặng cho họ một cuộc sống an lành như họ đã van xin mỗi ngày nơi dòng
sông thần thánh này. Dù sao, chúng tôi cũng thành tâm cầu nguyện đức
Phật gia hộ cho mọi người dân khổ cực nơi đây sớm giác ngộ lẽ thực
cuộc đời, chuyển hoá khổ đau thành niềm an vui tự tại trong đời này
và mãi mãi đến đời sau.