Đây là Lâm Tỳ Ni trong hoang tàn đổ nát, nằm gần thành Ca Tỳ
La vệ, một nơi mà chỉ còn lại là dư ảnh của ngàn xưa. Kia Bồ Đề Đạo
Tràng với khung quang thanh nhã, với muôn người Phật tử đổ về để hưởng
sái ánh hào quang đã tỏa ra từ nơi đây hơn 2500 năm về trước. Một vườn
Lộc Uyển đơn côi như còn vọng về những âm thanh khi mà bánh xe pháp được
chuyển lần đầu tiên, những chú nai như ngơ ngẩn kiếm tìm bóng dáng siêu
thoát đã từng ngự nơi đây. Rồi cuối cùng chúng tôi đã dừng chân với nỗi
ngẹn ngào tức tưởi trong thành Câu Thi Na bên bức tượng đẹp tuyệt vời
của người xưa.
Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng
tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những
bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm
chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con
của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống
của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân
đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi,
của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.
Trong truyền thống Việt Nam, do ảnh hưởng nặng
nề nền tư tưởng Khổng giáo của Trung Hoa, người cha luôn đóng
vai trò của một ‘nghiêm thân’, luôn là một tàng cây vững chải cho cả
gia đình nương tựa, chứa trong thân những thớ gỗ ngọt ngào đầy nhựa
sống nhưng lại được bao bọc bên ngoài bằng lớp vỏ sần sùi khô
cứng. Hình ảnh người cha là bóng dáng của một con người nghiêm
nghị như thế đó, trong khi người mẹ là ‘từ mẫu’ luôn dịu dàng săn
sóc đàn con, tâng tiu con khi bị ngã, an ủi con lúc buồn đau.
Người mẹ như những chiếc cành non với những chiếc lá xanh tươi
nõn nà luôn cho con những bóng mát của tình thương. Hai đấng ‘từ
nghiêm’ là hai tính từ dành cho cha và mẹ. Trong đạo Phật thì
khác; Đức Phật là một người cha, hình ảnh của sức mạnh và của nơi
nương tựa, nhưng lại đầy tình thương của một người mẹ, nên trong
đạo Phật ngài được xem là đấng Từ Phụ. Nơi sản sinh ra Ngài đối
với chúng tôi vừa là quê cha, quê hương của nguồn gốc của giống
nòi, lại vừa là quê mẹ, quê hương của tình thương ngọt ngào.
Đến từ miền ôn đới Âu Châu chúng tôi đón nhận cái nóng hắt của
Ấn Độ khi bước chân ra khỏi phi cơ như những ân tình nồng cháy của
người cha hiền dành cho chúng tôi. Những đoạn đường chúng tôi đã qua,
từng bước chân chúng tôi dò dẫm theo lối người xưa. Đây là Lâm Tỳ
Ni trong hoang tàn đổ nát, nằm gần thành Ca Tỳ La vệ, một nơi mà
chỉ còn lại là dư ảnh của ngàn xưa. Kia Bồ Đề Đạo Tràng với
khung quang thanh nhã, với muôn người Phật tử đổ về để hưởng sái
ánh hào quang đã tỏa ra từ nơi đây hơn 2500 năm về trước. Một
vườn Lộc Uyển đơn côi như còn vọng về những âm thanh khi mà bánh
xe pháp được chuyển lần đầu tiên, những chú nai như ngơ ngẩn kiếm
tìm bóng dáng siêu thoát đã từng ngự nơi đây. Rồi cuối cùng
chúng tôi đã dừng chân với nỗi ngẹn ngào tức tưởi trong thành Câu
Thi Na bên bức tượng đẹp tuyệt vời của người xưa. Qua màn lệ
mỏng hình ảnh Ngài như sống dậy, nét mỉm cười vượt khỏi không
gian và thời gian như đang chê trách đứa con ngu: ‘Cha vẫn còn
đây, nào đã mất. Ngày nào giới luật còn được giữ nghiêm minh thì
ngày ấy ta còn hiện hữu ở cõi đời này.’
Trên suốt đoạn đường dĩ nhiên còn nhiều nơi mà
đức Phật đã lưu lại những bước chân lịch sử. Một số nơi khác
những đứa con Ngài đã làm rạng danh. Từng nơi, từng nơi chúng tôi
đều tìm đến, đến để nhớ, để thương và để tìm thêm chất liệu cho
cuộc hành trình đi về nẻo sáng. Cuộc hành trình tâm linh là kinh nghiệm
cá nhân và không thể dùng lời mà diễn tả được, chỉ có cuộc hành
trình trên con đường sỏi đá là có thể ghi lại mà thôi. Trong tâm
trạng muốn sang xẻ nỗi niềm ấy với tất cả mọi người, chúng tôi cố
gắng ghi lại những lịch sử và quang cảnh của các Phật tích nơi
Ấn Độ. Dĩ nhiên với những kinh nghiệm non nớt và những tư duy ấu
trĩ chúng tôi còn nhiều sơ xuất trong cuốn tài liệu này. Kính
mong những bậc cao minh vui lòng góp ý chúng tôi chân thành nhận
lãnh.
Chúng con cũng muốn nhân đây để tỏ lòng tri ân của chúng con
đối với Thầy Bổn Sư, Thượng Tọa Thích Thượng Như hạ Điển viện chủ
chùa Viên Giác Đức Quốc, và quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức
tăng ni trong giáo hội Phật Giáo Âu Châu, đã có công dạy dỗ, đào
tạo và tạo nhân duyên cho chúng con có được những kinh nghiệm hôm
nay và những phước duyên mà chúng con đã gặp trên quảng đường tu
tập.
Chúng tôi cũng xin hồi hướng công đức đến tất cả quý Phật tử
đã có công đóng góp bằng tất cả hình thức trực tiếp hay gián
tiếp, vật chất hay tinh thần, để giúp đỡ chúng tôi trên con đường
tu học. Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh mọi loài sớm quay về
với ánh sáng giác ngộ và sớm bước lên quả vị giải thoát của bậc
chánh giác.
Cung kính
Tỳ Kheo Thích Hạnh Nguyện
Tỳ Kheo Thích
Hạnh Tấn-Vô Thức.