LTS: Cho đến ngày nay, vấn đề hôn nhân với người Công giáo vẫn là
một việc "không vui" cho những gia đình bên lương người Việt Nam. Thời
xưa, ông bà ta vẫn nói "con gái là con người ta, con dâu mới thực mẹ cha
mang về". Trong những ngày xưa đó, gả con gái là ngày tiễn biệt con đi
xứ lạ, là giao số phận con mình cho gia đình lạ, may thì con nhờ, rủi
thì con chịu. Do đó mới có những giọt nước mắt trong ngày Vu Qui. Trái
lại, nếu gia đình có con trai thì có thêm người hầu hạ, lo lắng việc
nhà. Dù sao, hai việc được mất này cũng quân bình nhau nhất là gia đình
có cả trai lẫn gái. Nhưng từ khi có đạo Công Giáo xâm nhập, những gia
đình bên lương dù có con gái hay con trai, vẫn là người bị "mất con",
mất cả tư tưởng và tập quán, phong tục truyền thống của ông bà. Con gái
thì "theo chồng" đi đạo, và con trai thì "theo vợ" đi nhà thờ! Cái tôn
giáo trịch thượng này không hề đối xử công bằng với ai cả.
Tự do tôn giáo của họ là "Công Giáo là hơn, Công Giáo phải được độc
tôn". Bài viết này đã được đăng trên tạp chí Giao Điểm số 52, và
cũng đã đăng trên giaodiem.com, trang nghiên cứu và đối thoại tháng
1-2004 (nay đã bị xóa). Vì bản chất vấn đề vẫn còn thời sự, sachhiem.net
xin được đăng lại nơi đây. Bài được phân mục như sau:
-Đôi lời của tác giả. - Các nguyên nhân đổi đạo - Giá trị tôn
giáo - Những tội ác của Công Giáo đối với nhân loại - Vài Ý kiến đề nghị.
Xin mời bạn đọc nghe anh Ba phân tích vấn đề (SH)
Đôi lời của tác giả:
Tôi viết bài này gởi đến các bạn đang theo đạo Công giáo và Tin Lành
để giúp các bạn biết thêm những lời dạy trong Thánh kinh, mà có thể các
bạn chưa đọc tới, và các Linh Mục họăc Mục Sư cũng không bao giờ giảng
cho các bạn nghe, mặc dù quí vị đó biết rất rõ.
Bài viết nầy cũng xin được gởi đến các bạn đang theo đạo Phật để hiểu
rõ Kinh Thánh dạy những gì. Và theo dòng lịch sử, đạo Công giáo đã đóng
góp được gì cho nhân lọai? Người viết chỉ mong sau khi đọc bài này các
bạn sẽ có một cái nhìn và hành xử hợp lý hơn, nếu gặp trường hợp có con
cái phải kết hôn với một người theo Công giáo hay Tin lành.
Trước khi vào đề tôi xin nói rõ rằng tôi chưa hề là đệ tử của một ông
Đại Đức hay Thượng Tọa nào, chưa hề quy y với một vị sư nào cả. Tôi chỉ
theo đạo ông bà, tức theo nền tam giáo đồng nguyên. Nhưng tôi luôn tôn
trọng tín ngưỡng của mọi người, nếu tín ngưỡng đó không làm hại đến
người khác, dù họ có thờ thần Hà Bá, thần Cây Đa hay ông Táo bình
vôi...cũng mặc, không tin nhưng tôi không chống báng. Vì họ không làm
hại ai cả thì tại sao chúng ta phải chống. Tôi chỉ chống những kẻ nào tự
nghĩ sai lầm rằng tôn giáo mà họ đang theo là đúng đắn nhất, là chân lý
tuyệt đối nhất rồi chê bai, dè bỉu các đạo khác là mê tín dị đoan, và
cũng từ cái tâm cảnh trịch thượng, ngạo mạn ấy, nên một số người Công
Giáo hay Tin Lành khi kết hôn với người không cùng tín ngưỡng thì họ tìm
đủ cách để buộc người phối ngẫu phải cải đạo. Cũng từ cái ý nghĩ sai lầm
tự tôn về tôn giáo của mình nên mới có những đạo quân đi tiêu diệt các
đạo khác, tạo ra không biết bao nhiêu tội ác như đạo Thiên Chúa La Mã đã
làm trong gần 17 thế kỷ qua (kể từ thời Constantine Đại Đế năm 325). Vì
thế nên Giáo Hoàng Jhon Paul II đã phải xin lỗi hơn 100 lần trong 21 năm
tại vị và ngày 12/3/2000 Ngài lại thay mặt Giáo Hội La Mã tự cáo thú tội
lỗi và xin được tha thứ về 7 núi tội mà giáo hội đã gây ra trong gần
2000 năm qua.
Cũng có người cho rằng tôn giáo thuộc về tín ngưỡng không nên bàn
tới! Nhưng tôi thấy rằng tôn giáo là niềm tin, hướng dẫn mọi hành động
của chúng ta đối với đồng loại. Nó có tầm ảnh hưởng đến sự tiến bộ
của
nhân loại, có ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc của con người, tại sao chúng
ta lại tránh né không bàn tới? Vì thế, tôi mạo muội viết ra bài này
để
chúng ta thử tìm hiểu một số nguyên nhân tại sao lại có hiện tượng phạm
nhân quyền, trái luật lệ và ngay cả gây ra nạn tự tử như thế? Phải chăng
giáo lý của đạo Thiên Chúa hay hơn hoặc tốt hơn đạo Phật? Hay vì người
Phật tử quá dễ dãi, dĩ hòa vi quý một cách quá đáng đến độ nhu nhược,
nên cứ để cho đối phương lợi dụng, bắt chẹt. Dưới đây tôi sẽ trình bày
vài nguyên nhân đưa đến sự đổi đạo và giá trị của hai tôn giáo.
A.- CÁC NGUYÊN NHÂN ĐỔI ĐẠO
1. Bị Cải Đạo Khi Kết Hôn.
Nhiều đám cưới trong cộng đồng người Việt mà cô dâu và chú rể có cùng
một tôn giáo thì không có vấn đề. Nhưng những đám cưới có dâu và rể khác
tín ngưỡng, thường là Công Giáo với Phật Giáo hay Tin lành với Phật Giáo
thì có nhiều chuyện hết sức rắc rối. Phần đông, người Phật tử với bản
tính hiền hòa sẵn có và cha mẹ muốn con cái có hạnh phúc nên không những
đã không bao giờ có ý nghĩ bắt buộc dâu hoặc rễ mình cải đạo theo Phật
Giáo. Ngược lại, các gia đình người Công Giáo hay Tin Lành, họ luôn luôn
tìm đủ mọi cách buộc con dâu hoặc con rể phải bỏ đạo Phật để theo tín
ngưỡng của họ.
Tại sao chúng ta luôn hô hào tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân
quyền thì chính những phần tử nầy lại cướp mất tự do của dâu và rể đến
như thế? Cũng có những cặp tình nhân trẻ phải tự tử vì không chịu nổi sự
ép buộc của cha xứ là phải bỏ đạo mới được làm đám cưới. Cũng có những
gia đình chẳng có hạnh phúc vì người chồng hoặc người vợ quá vâng lời
cha mẹ mình, hay quá nghe lời các linh mục hoặc các mục sư nhà thờ để ép
buộc người phối ngẫu phải đổi đạo. Tình trạng nầy làm mất sự đầm ấm của
đôi vợ chồng son ngay từ những năm đầu mới bước chân vào đời.
Việc ép buộc cải đạo qua hôn nhân đôi lúc cũng tạo thành những hành
động gián tiếp giết người hay gián tiếp phá hoại hạnh phúc của những cặp
vợ chồng son trẻ, mà chính những bậc làm cha mẹ không ý thức hoặc không
cần phải ý thức miễn có thêm được tín đồ là tốt. Việc cưỡng bách cải đạo
qua hôn nhân cũng là một hành động không những vi phạm nhân quyền mà còn
phạm pháp nữa, nhưng các cơ quan chính quyền địa phương thường không để
ý đến, nên tình trạng cứ thế mà kéo dài từ thế hệ này đến thế hệ khác
chưa có cơ may chấm dứt.
2- Cải Đạo Lúc Mới Đến Một Vùng Đất Mới
Nhiều người Việt Nam nghĩ rằng ở các nước Tây Phương không có đạo
Phật, cho nên khi tới trại tị nạn hoặc định cư ở một vùng đất mới, thì
vội vã không cần tìm hiểu xem cái đạo Công Giáo và Tin Lành hay dở ra
sao. Cũng có người vì quá trọng ngoại nên nghĩ rằng hễ bất cứ thứ sản
phẩm nào của người Tây phương cũng đều tốt, đều hay cả nên không cần tìm
hiểu, cứ nhắm mắt mà theo. Điều làm cho chúng ta chướng tai, gai mắt
nhất là những những tín đồ tân tòng, lúc mới đổi đạo, họ cảm thấy họ là
người văn minh kể từ giờ phút chạy theo đạo khác. Họ thường quay lại chê
bai, dè bỉu đạo Phật hay đạo thờ cúng ông bà, cái đạo mà tổ tiên ông bà
của họ đã theo từ ngàn xưa, và cũng nhờ cái đạo tổ tiên ông bà nầy mà
nước Việt Nam đã không bị đồng hóa qua bao nhiêu cuộc xâm lăng và đô hộ
bởi ngọai bang.
Tôi có một người quen, gốc là đạo Phật đã nhiều đời. Khi sang Úc, gia
đình anh ta theo Tin lành. Gia đình ở gần chùa Pháp Hoa miền Nam nước
Úc. Anh có đứa con trai khoảng 10 tuổi. Trong một buổi lễ của chùa, con
trai của anh đi ngang sân chùa thấy mấy đứa trẻ cùng lứa đang đùa giỡn
trong sân chùa, trong đó có vài đứa là bạn, nên nó nhập bọn và vào sân
chùa chơi với nhau. Mẹ đứa bé thấy con chơi trong sân chùa liền gọi con
về rồi la mắng, đánh con và cấm nó không được bén mảng đến sân chùa để
chơi đùa với bạn nữa.
Một lần khác, cũng cái bà tân tòng này trách cứ một người đồng đạo
cũng tân tòng khác, khi thấy bà bạn giao du với những người Phật giáo:
"Tại sao chị lại chơi với cái đám qủi đó?"
Có người không biết mà theo vì có được cái tủ lạnh cũ, có cái bàn hư
nên ở Adelaide (tiểu bang Nam Úc) này có một lời mĩa mai để chỉ những
người tân tòng này là "theo đạo Furniture". Ở Việt Nam thì gọi những
người lọai nầy là "đạo gạo". Chỉ cần cái tủ lạnh cũ, cái tivi hư, cần
mấy loon gạo mà cũng bán rẻ phẫm giá đến như thế, nên trách gì nước
không mất nhà không tan, bị ngoại bang đô hộ như thời nhà Nguyễn. Một số
tân tòng đôi lúc cũng bị số Phật Tử khác hay các người thuộc "đạo ông
bà" khinh ra mặt, thì những kẻ tân tòng trả lời "Đạo nào cũng tốt, đạo
nào cũng dạy con người ta ăn hiền ở lành, đạo nào cũng dạy thờ cha, kính
mẹ, thờ cúng tổ tiên...". Nếu nói đạo nào cũng tốt thì tại sao phải bỏ
đạo cũ để theo đạo mới? Thông thường ta chọn cái gì tốt thì theo, không
tốt mới bỏ chứ? Đạo cũ cũng tốt thì tại sao phải bỏ? Đó là chưa nói đến
cái đạo mới có thực sự tốt như thường được nghe tuyên truyền sai lầm
không?
3.- Cải Đạo Vì Công Giáo cũng Cho Thờ Cúng Tổ Tiên
(?)#
Nếu ai có đọc cuốn "Miền thơ ấu" của Vũ thư Hiên hay những tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Ngạn là hai nhà văn đạo Công giáo, các bạn sẽ thấy:
Trước đây con chiên đạo Công Giáo không được bước vào chùa vì được dạy
rằng trong đó có ma quỉ ở, có "thằng Bụt Thích Ca" ở trong đó (lời của
Alexandre de Rhode). Con chiên không được ăn đồ cúng trong các lễ cúng
ông bà tổ tiên vì ma quỷ (tức ông bà, tổ tiên chúng ta) đã ăn trước, con
của Chúa không được mó vào. Tại sao lại có những ý nghĩ sai lầm trong
việc cho rằng cha mẹ, tổ tiên mình là quỉ? Vì Thánh Kinh dạy rằng "Kẻ
nào thờ cúng bất cứ một người nào khác, mà không phải là Jéhowah (chúa),
thì phải bị tiêu diệt" (Exodus:22-20). Chỗ khác lại dạy "Người nào tôn
thờ cha mẹ thì người đó là con của con điếm" (Whoever recognizes mother
and father will be called the child of a whore).
Cho mãi đến Công Đồng Vatican II (năm 1962) Vatican thay đổi chính
sách để dễ dụ người vào đạo nên cho phép con chiên Á Châu được thờ cúng
cha me, ông bà, tổ tiên. Tại sao Vatican lại đi ra ngoài Kinh Thánh
trong việc thay đổi chính sách truyền đạo? Vì cấm thờ ông bà tổ tiên nên
đạo Công Giáo truyền vào Trung Hoa đã gần 300 năm nhưng kết quả không dụ
được bao nhiêu tín đồ. Đặc biệt là giới sĩ phu (có học) chống đối kích
liệt cái đạo ngọai lai nầy. Khoảng 300 năm mà chưa tới 10 sĩ phu nước
Tàu theo đạo. Khi truyền vào Việt Nam cũng gặp trường hợp tương tự, chỉ
có những kẻ cùng khổ, dốt nát, du thủ, du thực (lời của Đốc Page) mới
theo đạo để có gạo mà ăn. Còn giới Sĩ phu có học thì luôn luôn chống đối
đạo Công giáo vì đạo này cấm thờ cúng tổ tiên và con chiên thường phản
lại tổ quốc. Nói rõ hơn, Công Đồng Vatican II uyển chuyển cho dân Á Châu
được thắp nhang và thờ cúng tổ tiên là để dễ dụ người vào đạo, chứ chẳng
phải là luật đạo đã cải tiến hay sửa đổi gì cả. Vì với dân tộc Việt Nam,
với nền tam giáo đồng nguyên đã ăn sâu vào nếp sống của dân tộc. Nếu
không cho thờ cúng tổ tiên thì chỉ có những kẻ du thủ, du thực, vô đạo
đức mới chạy theo. Cho nên việc giáo hội cho phép giáo dân đốt nhang và
ăn đồ cúng cũng giống như con kỳ nhông phải tự biến màu da theo màu lá
cây hay màu đất ở xung quanh để sống còn. Chứ giáo lý đạo Công Giáo
không bao giờ thay đổi.
B.- GIÁ TRỊ TÔN GIÁO
Khi xét một người hay một tổ chức, chúng ta xét đến lý thuyết và thực
hành. Ở đây lý thuyết tức là giáo lý và thực hành tức những việc họ đã
làm trong quá khứ và hiện tại.
Về giáo lý của đạo Công Giáo và Tin Lành, chúng ta cần phân biệt làm
hai loại: Những điều "Giáo Hội dạy rằng" tức là những điều Tòa Thánh và
các cha giảng trong nhà thờ, và những điều trong Thánh Kinh. Những điều
trong Thánh Kinh thường khác hẵn với các lời giảng dạy trong nhà thờ.
1- Về Vũ Trụ:
Thánh kinh dạy rằng: Mặt đất phẳng như tấm thớt, đứng yên một chỗ, có
những cột chống đỡ, bầu trời được Chúa đúc bằng đồng thau có hình dạng
như cái chảo úp lên trên và có đèn đóm tức mặt trăng, mặt trời và các vì
sao gắn trên đó. Bên trên cái chảo úp này có chứa nước, khi nào Chúa
muốn cho mưa thì Chúa chỉ cần rút những cái nút này thì sẽ có mưa. Thiên
Chúa tạo ra trời đất, cây cỏ, muôn loài trong vòng 6 ngày, ngày thứ bảy
mệt quá Chúa nghỉ và việc tạo dựng xảy ra cách đây từ 6.000-10.000 năm.
Điều đặc biệt là Chúa tạo ra ngày đêm, cây cỏ trước rồi mới gắn mặt trời
mặt trăng lên sau.
Ngày nay, khoa học đã chứng minh thuyết Big Bang là đúng, vũ trụ này
đã có cách đây khoản 15 tỷ năm. Sau nhiều năm chối bỏ, nay Giáo Hoàng
John Paul II cũng thừa nhận thuyết Big Bang.
Vì thuyết Tạo Dựng mà Thánh Kinh mô tả như trên quá sai lầm mà một em
bé lớp 6 cũng thấy rõ, nên giáo hội lại sữa đổi lối giải thích: "Một
ngày nói trong Thánh Kinh phải hiểu là một thời đại mà một thời đại có
thể là 10 triệu năm, 50 triệu năm, hay vài trăm triệu năm chứ không phải
là một ngày bình thường". Nhưng lúc có người hỏi: Chúa tạo ra cây cỏ
trước rồi vài chục triệu năm sau Chúa mới tạo ra mặt trời, cây cỏ không
có diệp lục tố làm sao sống được? Thì họ lại quanh co trả lời một cách
xã hóa cho qua thế bí: "Thánh kinh không dạy khoa học, đây chỉ là những
ẩn dụ của Thiên Chúa, chúng ta không thể nào hiểu nổi". Thật điên cái
đầu.
2- Chúa Thương Yêu Mọi Người (?)#
- Các Linh Mục và Mục Sư giảng: Chúa thương yêu mọi người, Ngài chỉ
có một đứa con duy nhất là Chúa Giê-Su. Nhưng vì thương yêu mọi người
nên ngài phải cho con xuống trần và chịu chết trên thập giá để chuộc tội
cho nhân loại: Chỉ mấy câu này thôi, chúng ta có thể viết ra cả trăm
trang sách để bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, để ngắn gọn, tôi chỉ xin nói
vắn tắt:
Mọi người, mọi vật kể cả cây cỏ theo Thánh Kinh đều là do Chúa sinh
ra. Vậy, tại sao lại nói là chỉ có một đứa con duy nhất. Chúa được tuyên
truyền là có quyền năng vô biên thì, nếu muốn, Chúa có thể "hô biến" để
có thêm vài trăm, vài ngàn, vài triệu hay vài tỷ Giê Su nữa một cách dễ
dàng, tại sao lại nói chỉ có một con. Và mẹ dứa con nầy ở đâu và tên gì
không nghe nói đến?
- Thuyết về đứa con một là giáo hội muốn cho tín đồ nghĩ rằng Chúa
thương yêu mọi người quá mức, thương đến nỗi có đứa con duy nhất, ngài
cũng đành cắt ruột cho con xuống trần, chết trên thập giá để chịu tội
thay cho loài người. Nhưng lời giải thích nầy cũng bị vướng vào thế bí
của một câu hỏi khác:
Nhưng tại sao Chúa con phải chết mới có thể chuộc tội?
- Các cha sẽ trả lời: Vì loài người mang tội tổ tông.
Xin hỏi: Ai phán xét, cho rằng chúng ta có tội tổ tông?
- Trả lời: Chúa phán xét.
Hỏi: Buộc tội cũng do Chúa, tha tội cũng do Chúa. Nghĩa là Chúa vừa
là Phán Quan vừa là Công Tố Viên?
Hỏi: Chúa được gán cho là có quyền năng vô biên, cho lên thiên đàng
hay xuống địa ngục là hoàn toàn do Chúa. Nếu Chúa thương yêu tất cả mọi
người, vậy tại sao Chúa không "tha tào" tất cả mọi người, cho lên thiên
đàng hết, khỏe ru. Tại sao Chúa buộc tội rồi lại bắt con mình chịu tội
mới tha?
Trong chúng ta, khi có một người nào đó có lỗi rất lớn với chúng ta.
Có khi nào chúng ta muốn tha tội cho người đó với điều kiện là con của
chúng ta phải bị giết thì chúng ta mới tha tội cho người đó không?
Nhưng tội tổ tông là tội gì? Tội tổ tông theo truyền thuyết là tội do
ông Adam và bà Êvà, tổ tiên của loài người ăn trái cấm, tức là trái cây
hiểu biết (ăn lọai trái cây nầy con người sẽ thông minh). Như vậy Chúa
thương yêu mọi người nên Chúa chỉ muốn cho mọi người ngu như con vật? Ai
khôn Chúa phạt đời đời! Như thế Chúa là gã độc tài, độc ác nhất thế
gian. Các bạo chúa, quá lắm cũng chỉ phạt có 3 đời, còn chúa Trời
(thương yêu con người) lại phạt con người đến muôn kiếp! Vậy ông ta cần
bị tù chung thân, cần phải bị án tử hình vì quá độc ác, cớ sao lại tôn
thờ ông ta?
Thánh kinh dạy: Từ khởi thủy, Chúa chỉ tạo ra có hai người là ông
Adam và bà Êvà là thủy tổ của loài người. Rồi ông Adam và bà Eva mới
sinh sản ra khoảng 6 tỷ người trên trái đất như hiện nay. Câu hỏi được
đặt ra là con cùng một mẹ, một cha sinh ra tại sao có người da đen, da
trắng, da vàng, da đỏ. Con kangaroo chỉ có ở nước Úc, còn các nơi khác
thì không? Tại sao vậy? Xin các cha giảng dùm. Còn thủy tổ các loài súc
vật là ai, không thấy Thánh Kinh nói đến?
Theo Thánh Kinh, ông Adam và bà Eva sống trong vườn địa đàng cùng
Chúa, rất sung sướng, không đau khổ và không bao giờ chết. Nhưng sau đó
bà Êvà vì nghe lời dụ dỗ của con rắn mà ăn trái cấm nên bị Chúa phạt,
đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Từ đó ông Adam, bà Êva cùng tất cả con cháu
mới phải sống đau khổ và phải chết. Sau đó Chúa thương loài người nên
mới sai con duy nhất của ngài là Giê Su xuống trần và chịu chết trên
thập giá để cho Chúa nguôi cơn giận và tha cho loài người. Câu hỏi được
đặt ra như tôi đã nói ở trên là: Nếu Chúa thương yêu loài người thì cứ
tha hết đi, tại sao lại bắt con mình chịu chết rồi mới tha? Và sau khi
con của Chúa trời là Chúa Giê Su đã chuộc tội, đã chịu chết trên thập
giá, tại sao loài người vẫn khổ và vẫn chết. Như vậy Chúa Giê Su hy sinh
để làm gì? Nếu còn đặt câu hỏi nữa thì dài dòng lắm. Thực ra, theo lịch
sử, thì Giê-su cố trốn cho khỏi chết nhưng không được, chứ không phải
vui lòng muốn chết để chuộc tội cho con người như giáo hội lừa dối. Bằng
chứng là trước khi bị đóng đinh, Giê-Su đã kêu khóc 'Tại sao cha lại bỏ
con?'
3- Chúa Giê-su Giảng Dạy Những Gì?
Xin các bạn bình tĩnh mở cuốn thánh kinh ra và lật tìm những câu tôi
trích dẫn dưới đây:
John 10:30: Ta với cha ta là một.
John 10:36: Ta là con thiên Chúa. (câu trên và câu dưới hoàn toàn
trái nghịch nhau)
John 12: 49: Ta không nói theo ý ta: Chính người cha sai ta xuống đây
đã ra lệnh cho ta phải nói những gì và nói như thế nào. (câu trên: Ta
với cha ta là một. Bây giờ lại nói ta nói theo lệnh cha ta).
Từ 2000 năm nay, đã có không biết bao nhiêu người cũng tự xưng là
hiện thân của Giê-Su. Điển hình gần đây nhất là anh chàng David Coresh ở
Mỹ đã tự xưng là hiện thân của Chúa, đã cùng 77 người khác bằng lòng
chết cháy trong một biển lửa tại Waco, Texas, Hoa Kỳ ngày
19-4-1993......và mục sư James Warren Jones người Mỹ, đêm 18-11-1978 đã
đầu độc một số con chiên Tin Lành để cùng chết vì họ tin rằng sau khi
chết họ sẽ được lên thiên đàng. Không lực Hoa Kỳ phải đưa máy bay vào
Guiana (Nam Mỹ) để chở 913 xác chết đưa về Mỹ chôn. (Xin xem "Lòng tin
Âu Mỹ đấy" của Trần Quý, Đồng Thanh xuất bản, California, 1996).
Các nhà tâm lý học đã đưa ra kết luận: Những người tự xưng là Giê-Su
cũng như Giê-Su tự xưng là con Chúa trời như mấy câu tự xưng ở trên là
những người mắc chứng bệnh hoang tưởng.
Những lời Chúa mà tôi sắp chép ra đây, tôi
chắc chắn dù bạn là người
có đạo hay không có đạo Chúa, các bạn cũng sẽ cho rằng tôi phịa ra để
nói xấu đạo Chúa. Vì các bạn không bao giờ ngờ rằng trong TK lại có
những lời dạy như vậy. Nếu TK có những lời dạy bậy bạ như vậy, tại sao
có gần 2 tỷ người trên thế giới tin theo? Xin các bạn hãy lật thánh kinh
ra xem những điều tôi trích dẫn dứơi đây : (thánh kinh đầy dẫy trên thế
giới, ai cũng có thể kiểm chứng được mà)
⊙ MA-THI-Ơ: 10: 34-Chớ tưởng rằng
ta đến để đem bình an cho thế gian;
ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo. 35-Ta đến để phân
rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với bà gia; 36-và người ta
sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37-Ai yêu cha mẹ hơn ta thì
không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không
đáng cho ta;
Cũng những ý này, nhưng Lucas thì chép với lối hành văn khác:
⊙ LU-CA: 12: 51: Các ngươi tưởng ta
đến đem sự bình an cho thế gian
sao? Ta nói cùng các ngươi, không, nhưng thà đem sự phân rẽ. 52-Vì từ
nay về sau, nếu năm người ở chung một nhà, thì sẽ phân li nhau, ba người
nghịch cũng hai, hai người nghịch cùng ba; 53- cha nghịch cùng con trai,
con trai nghịch cùng cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng
mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà gia.
Xin quý vị đọc tiếp:
⊙ LU-CA: 14: 26- Có đoàn dân đông
cùng đi với Đức Chúa Giê-su; ngài xây
lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không căm ghét cha
mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không
được làm môn đồ ta.
Nói rõ ra, muốn theo Chúa thì điều kiện đầu tiên và bắt buộc là phải
căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em và ngay cả đời sống của mình nữa, thì
Chúa mới chấp nhận cho theo Chúa.
⊙ LU-CA: 19: 26- Hãy đem kẻ thù của
ta ra đây. Những kẻ không chịu thờ
kính ta trên họ, và chém đi trước mặt ta.
(Ai không theo Chúa, thờ Chúa thì phải giết hết. Chính vì vậy Vatican
đã tổ chức 7 cuộc thập tự chinh trong thời trung cổ để tiêu diệt tất cả
những ai không thờ Chúa. Làm cho khoảng 3 triệu người bị chết oan-NHB)
Những đoạn trên đây, tôi chép từ Thánh
Kinh ra. Xin các Linh Mục và
Mục Sư giảng dùm Chúa thương yêu mọi người ở chỗ nào?
Malachi, chương 2: "Nếu ai không nghe lời ta và không làm rạng
danh
ta, Chúa Trời sẽ trét phân lên mặt người đó"
⊙ Giê-Su gọi mẹ "Người đàn bà kia"
(trên đời này có ai gọi mẹ như vậy
không?)
⊙ Matthew 23: 9: "Không được gọi ai
trên trái đất này là cha, vì các
ngươi chỉ có một cha ở trên trời" (vậy mà các Linh Mục bắt con chiên gọi
mình bằng cha, trái lời Chúa)
Và Tân Ước cũng viết rõ, Giê-su thực sự có 4 người em trai và ít nhất
là 2 người em gái,
⊙ MARK 6: 3: “Đây có phải là anh
thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của
James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt
tại đây sao?” và nhiều đoạn khác trong Tân ước có ghi rõ họ đều là
em
của Giê-su, và còn ghi rõ James là em ruột Giê-su.. [Xin đọc: (John
2:12); Matthew 12:46-50; Matthew 27: 56; Mark 3:31-35; Luke 8:19-21;
Acts 1:13-14; 1 Corinthians 9:5; Acts 12:17; 15:13; Galatians 1:18-19].
Vậy mà các Cha vẫn cứ giảng là Đức Mẹ đồng trinh!
Xin các bạn cứ bình tĩnh đọc tiếp về đức
độ của Chúa trời mới kinh
khiếp hơn nữa:
⊙ Jeremiah: 19: 9: “Và ta sẽ làm
cho chúng nó ăn thịt con trai, con gái
của chúng nó, và chúng nó sẽ ăn thịt lẫn nhau, người nọ ăn thịt người
kia”
(And I will make them eat the flesh of their sons and the flesh of
their daughters; and they will eat each one the flesh of his fellowman).
⊙ Isaiah: 13: 9-15-18: “Hãy chứng
kiến ngày Chúa đến, độc ác vì tức
giận và hết sức phẫn nộ. Tất cả mọi người bắt gặp phải được đem tới. Con
cái của họ bị xé ra từng mảnh trước mặt họ và vợ của họ bị hãm hiếp”
(Behold, the day of the Lord cometh, cruel both with wrath and fierce
anger...Every one that is found shall be thrust through...Their children
also shall be dashed to pieces before their eyes...and their wives
ravished).
⊙ Thánh Fulgentius (467-533):
"Những bào thai chết trong lòng mẹ, hoặc những trẻ mới sinh ra đã
chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội ...phải chịu hình phạt đau đớn
trong ngọn lửa không bao giờ tắt."
⊙ Thánh Anthony (1195-1231): "Khi
các ngươi thấy một người đàn bà, hãy
coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính
là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con
rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human
being,
but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)
⊙ XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ: 22: 20- Kẻ nào
tế các thần khác hơn một mình Đức
Giê-Hô-Va sẽ bị diệt
⊙ DÂN SỐ KÝ: 31: 1-54: Đoạn này hơi
dài, tôi xin tóm lược như sau:
Chúa Trời ra lịnh cho ông Moise dẫn quân đi đánh bộ lạc Madian, với
cái lịnh hành quân rằng: Phải san bằng Madian thành bình địa, con nít
giết sạch, đàn ông giết sạch, đàn bà giết sạch, chỉ chừa lại con gái còn
trinh. Sau khi ông Moise thi hành mệnh lệnh của đức Chúa Trời, đoàn quân
chiến thắng trở về mang theo chiến lợi phẩm gồm: 32.ngàn cô gái còn
trinh, 675 ngàn con trừu cái, 72 ngàn con bò, và 31 ngàn con lừa đực.
Sau đó là mục chia chác chiến lợi phẩm. Phần chia cho Chúa trời là 32 cô
gái còn trinh, 675 con trừu, 72 con bò và 31 con lừa đực. Chúa cũng chia
gái trinh, cừu, bò, lừa. Không biết để làm gì, không thấy TK nói tới.
Họ tôn thờ một ông thần dâm dục và ham chuộng vật chất như vậy, thì
trách gì mấy ông Linh Mục hiếp dâm con nít!
Những đoạn trên đây tôi chép từ thánh kinh ra. Xin các LM và MS giảng
dùm Chúa thương yêu loài người ở chỗ nào?
Với nội dung cuốn thánh kinh như trên, chúng ta không lấy làm lạ khi
gần đây (2008), ở Hồng Kông đang có phong trào đòi Ủy Ban Đạo Đức Hồng
Kông phải xếp lại thánh kinh Ki Tô Giáo vào loại sách tục tĩu, khiêu
dâm, tàn bạo, loạn luân và kinh thánh phải bọc kỹ, bên ngoài phải khuyến
cáo độc giả về nội dung và không được bán cho trẻ em dư ới 18 tuổi
Và Russel Shorto, một học giả Ki Tô Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm
nghiên cứu về Giê Su trong vòng 200 năm nay, đã kết luận như sau trong
cuốn “Sự thật của Phúc Âm” (Gospel Truth):
“Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay - Rằng Giê Su
chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng - Họ đã dạy
điều này cho nhiều thế hệ các LM và MS. Nhưng những người này vẫn giữ
kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ
dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là
những tín đồ Ki Tô bình thường”
Giám Mục John Shelby Spong đã phải thú nhận: "Cuốn Thánh kinh đã làm
cho tôi đối diện với nhiều vấn đề hơn là giá trị, nó đưa đến cho tôi một
thiên chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng"
Đó là một số trích dẫn tiêu biểu về giáo lý, tức là phần lý thuyết
của đạo Công giáo và Tin lành. Thật ra thì trong gần 3 năm giảng đạo,
Giê-su không viết một chữ nào. Còn 12 tông đồ của ông thì chỉ có một
mình ông Matthew, làm nghề thu thuế nên biết chữ, còn lại 11 tông đồ kia
có ông nào biết chữ đâu mà ghi với chép. Tất cả những điều ghi trong
thánh kinh đều là những chuyện thần thoại trong thời bán khai ở vùng
Trung Đông. Mà những người bịa đặt này, trình độ hiểu biết của họ còn
thua xa những người cùng thời với họ, chứ đừng nói chi đến sự hiểu biết
của người thời nay. Đến thời Constantine đại đế, ông ta tuyên bố "Với
cây thập ác, ta có thể chinh phục toàn thế giới". Người ta mới gán những
câu vô nghĩa đó vào miệng Giê-su và sự giết chóc bắt đầu từ đó.
Bây giờ mời các bạn đi vào phần thực hành.
D.- NHỮNG TỘI ÁC CỦA CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI:
Để bài viết được ngắn gọn, tôi xin tóm tắt một số tài liệu lịch sử đã
dịch ra tiếng Việt mà không ghi nguyên bản bằng tiếng Anh hoặc tiếng
Pháp. Và tôi cũng cố gắng giảm thiểu những ý kiến, nhận định của riêng
tôi.
1- Nguyên Nhân Dẫn Đến Sự Tàn Ác Của Công Giáo La Mã:
_ Trong thánh kinh nói: "Bất cứ ai dâng đồ cúng cho một Thần nào khác
mà không phải là JEHOVAH thì phải bị tiêu diệt" ( Exodus :22-20). Do
điều này mà các Giáo Hoàng đã chủ trương:
_ Sắc lệnh của Giáo Hoàng Henry Martin V viết "Sắc lệnh được phát
xuất từ nguyên lý rằng: Đất thuộc về Chúa Ki-Tô, và người đại diện của
chúa Ki-Tô có quyền xử dụng tất cả những gì không do tín đồ của Chúa
chiếm hữu, những kẻ ngoại đạo không thể là kẻ sở hữu hợp lý bất cứ một
mảnh đất nào". Nghĩa là tất cả đất đai và của cải trên thế gian này chỉ
có những người theo đạo Chúa mới có quyền hưởng. Còn những người theo
đạo khác mà hưởng ké ngày 2 bữa cơm tự mình làm ra, thì được họ coi là
bất hợp lý. (Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa Thực Dân tại Việt Nam. Luận án
tiến sĩ của Cao Huy Thuần trang 7).
_ Giáo Hoàng Callistus (Người Y Pha Nho) ký sắc lệnh cho (Thái Tử)
Henry Le Navigateur bắt Thổ dân những đất khám phá được làm Nô-Lệ. Ngày
ký sắc lệnh ấy là ngày ảm đạm nhất trong lịch sử chế độ Thực Dân ( theo
Học giả Nguyễn Hiến Lê-Lịch sử Thế Giới-Văn nghệ 1994 trang 349 ). Trong
thánh kinh Chúa cũng khẳng định "Ta được phái xuống trần chỉ để cứu dân
Do Thái mà thôi" và Giê-su coi các dân tộc khác là chó (Matthew:
15:21-28). Như Charles Davidson (thượng nghị sĩ Mỹ) quan niệm: "Chúa
sinh ra các giống dân da màu, mục đích là để làm nô lệ cho dân da trắng"
và ông vận động chính phủ Mỹ lập lại chế độ nô lệ. Cho nên khi dân Âu
Châu đi chiếm thuộc địa ở Phi Châu và Úc Châu họ đã đi săn và bắn dân
bản địa như săn bắn thú rừng. Như vậy dân da vàng mũi tẹt đừng hòng Chúa
cho lên thiên đàng.
_ Năm 1493 Giáo Hoàng ALEXANDER VI vạch một đường thẳng tưởng tượng ở
phía Tây quần đảo Cape Verde chạy qua Bắc và Nam cực để chia trái đất ra
làm hai. Nửa phía Tây giao cho Tây Ban Nha, nửa phía Đông giao cho Bồ
Đào Nha, ngoại trừ Ba Tây (Brasil). Đến nỗi Pháp Hoàng tức giận tuyên bố
một câu lịch sử "Ai là người có thể chỉ cho ta biết tờ di chúc của ông
Tổ Adam nói rằng quả địa cầu này để lại cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha " (Tham khảo sách This is America's story, Đạo Thiên Chúa và Chủ
nghĩa Thực Dân tại VN trang 7, và Nguyễn Mạnh Quang trong "Vatican Thú
tội và xin lỗi" trang 202).
Chính những điều răn dạy quái ác này, tòa Thánh Vatican đã chủ trương
và điều động 8 cuộc thập ác chiến tranh để tiêu diệt các dân tộc vùng
Trung Đông theo Hồi Giáo và các nền văn hóa phi Gia Tô.
_ Công Giáo La Mã cũng đã từng mở những tòa án xử dị giáo, kéo dài
hơn 400 năm. Giết hại và thiêu sống hằng triệu người, trong đó có nhà
thiên văn học Bruno. Còn nhà bác học Galiléo tuyên bố "Trái đất quay
chung quanh mặt trời" (trái với lời giảng trong Thánh kinh). Tòa Thánh
Vatican bắt ông phải rút lại lời tuyên bố này để khỏi bị thiêu sống. Tuy
nhiên, mặc dù không bị thiêu, họ vẫn nhốt và bỏ ông chết đói. Mãi đến
359 năm sau (1992) Giáo Hoàng mới xin lỗi về việc này.
Riêng những ông Giáo Hoàng sống trên nhung lụa rồi tranh quyền và tàn
ác ra sao? Tôi đã viết trong bài "Xin đừng lấy chén úp voi" đăng trên
nguyệt san Văn Hóa, Westminter C.A- Hoa Kỳ số tháng 8-2002. Hôm nay tôi
thấy cần thiết phải ghi lại một ít hành vi của một số "đức thánh cha" để
độc giả thưởng lãm:
2- Một Số Tiêu Biểu Các Giáo Hoàng Dâm Loạn:
* Giáo Hoàng John XXIII (1419-1415. Khác với Giáo Hoàng Jhon XXIII
1958-1962) bị hàng chục Giám Mục và rất nhiều nhân chứng tố cáo đã xâm
phạm tiết hạnh ba trăm nữ tu và có một cung viện chứa trên hai trăm cô
gái. John XXIII còn bị Công Đồng kết án về 54 tội đại hình khác.
Hồ sơ lưu trử tại Vatican còn ghi nhận John XXIII thông dâm với em
dâu, phá trinh nhiều cô gái, dụ dỗ nhiều phụ nữ có chồng và phạm đủ loại
tội dâm dục. Công Đồng gọi y là con quỷ hóa thân.
* Pio II: (1458-1464) và Paul II (1464-1471) là hai Giáo Hoàng kế
tiếp
nhau đều có cung viện (harems) chứa rất nhiều cung nữ.
* Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) thông dâm với nhiều phụ nữ và
có 16 đứa con. Nhiều con của y được tổ chức đám cưới linh đình ngay tại
Vatican ( The Catholic Encyclopedia Vol.8,p.19)
* Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) có vợ 5 con lúc còn làm Hồng Y.
Sau khi lên ngôi GH, y loạn luân với hai em gái và với con gái ruột tên
Lucretta. Y có một đứa con với con gái ruột của mình (History of the
Reformation D'Aubigne P.11). Ngày 31-10-1501, Alexander VI tổ chức dạ
hội với 50 cô gái thoát y. Giáo Hoàng treo giải thưởng cho người đàn ông
nào làm tình lâu nhất.
_ * G. H. Paul III:( 1534-1549). Lúc còn là Hồng Y đã có 3 con trai,
một con gái. Lúc lên làm GH, y làm lễ rửa tội cho hai đứa cháu nội và
ngoại. GH này hay tin dị đoan và thường hỏi ý kiến các thầy bói.
* Giáo Hoàng Cléo X (1513-1521) đi tu năm 7 tuổi, được phong chức
Hồng
Y năm 13 tuổi và lên làm GH lúc 38 tuổi. Y sống cuộc đời của một GH hết
sức xa hoa, thường xuyên tổ chức dạ vũ với những mục giải trí đắt giá và
trụy lạc.
Trong thời gian này, tu sĩ Martin Luther đến Rome để hành hương với ý
tưởng rằng Rome là thành phố thánh thiện (a holy city). Không ngờ tu sĩ
Luther đã được chứng kiến một bữa tiệc tại triều đình Vatican có 12 cô
gái vũ thoát y. Tu sĩ Luther trở về Đức phát động phong trào chống đối
Vatican và lập ra đạo Thệ Phản (Protestanisme: Đạo Tin Lành). Martin
Luther tuyên bố: Không ai có thể tưởng tượng nổi ở Rome đầy dẫy những
tội lỗi xấu xa. Người ta phải đến đó để nghe để thấy mới tin. Thật đúng
như người ta vẫn thường nói: Nếu có một Địa ngục thì Rome đã được xây
dựng trên cái địa ngục đó' .
Trong cuốn "Chứng nhân hy vọng" Hồng Y Nguyễn văn Thuận "lý luận"
rằng: "Danh sách những người tội lỗi, loạn dâm như David, Tamar,
Bathsheba v.v trong gia phả của Jésus không được gây gương mù, gương xấu
cho chúng ta, trái lại gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa"
Thật là tức cười! Người bình thường như chúng ta mà loạn dâm thì bị
chê bai, khinh bỉ, nhốt tù có khi bị tử hình. Còn những người trong gia
phả của Giê-su mà loạn dâm thì coi đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa? Họ bị
nhồi sọ, mù quáng đến mức đó thì hết chỗ nói. Họ chỉ nói lấy được, bất
chấp lẽ phải.
3- Vài Nhận Định Của Một Số Danh Nhân Thế Giới Về Công
Giáo La Mã
Quý độc giả nên tìm những cuốn sách của Giao Điểm và một số các tác
giả khác, tôi đã ghi ở cuối bài để biết thêm những tội ác tày trời của
Công Giáo La Mã:
* Không phải tự nhiên mà Giám Mục Anh Giáo, Desmond Tutu, người Nam
Phi tuyên bố: "Khi người da trắng đến, họ có cuốn Thánh Kinh, chúng tôi
có đất đai. Chúng tôi tin tưởng họ và cầu nguyện với cuốn Thánh Kinh
trong tay và đôi mắt nhắm lại. Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh
Kinh còn họ có tất cả đất đai của chúng tôi".
* Không phải tự nhiên nước Mễ Tây Cơ, là một nước có dân số toàn tòng
CG. Mà luật pháp nước này lại rất khắt khe với đạo CG: Hiến pháp Mễ 1917
cấm Linh Mục ra đường không được mặc áo dòng, giáo hội CG không được mở
ngân hàng, trường học CG bị cấm tuyệt .
* Không phải tự nhiên mà tháng 8/1997 vừa qua, quốc hội Nga, hậu CS
lại biểu quyết thông qua đạo luật: Cho tự do tín ngưỡng, nhưng cấm tuyệt
đạo Công Giáo và Tin Lành.
* Năm 1527 Vua Philip của Tây Ban Nha chiếm Phi luật Tân, tiêu diệt
nền văn hóa xứ này, và đổi tên nước thành ra Phillipine. Hiện nay dân
Phillipine toàn tòng Công Giáo, là một xứ sở nghèo đói, mặc dù độc lập
đã lâu. Tôi có quen một ông tiến sĩ người Phillipine, tôi hỏi ông ta:
"Trước khi đổi thành Phillipine thì nước của anh tên gì?" Ông ta không
biết, không phải ông ta dở. Nhưng vì thực dân Tây Ban Nha không muốn cho
dân Phi biết nguồn gốc của họ. Nhà trường không dạy thì làm sao họ biết
được nguồn gốc của họ. Khi đạo Chúa tới thì mọi nền văn hóa phải bị tiêu
diệt.
⊙ Tháng 11- 2001 vừa qua Giáo
Hoàng đã chính thức xin lỗi dân bản địa
tại Úc về tội Giáo Hội CG đã bắt cóc con nít đưa vào Cô nhi Viện nuôi để
kiếm thêm tín đồ. Bây giờ những đứa con nít đó đã trưởng thành, cha mẹ
họ vẫn còn sống trên đất Úc này, nhưng họ không biết cha mẹ họ là ai, có
đau khổ nào bằng?
⊙ Chúng ta đều biết là dân da đen ở
Mỹ có gốc gác ở Châu Phi, bị người
da trắng Công Giáo đem qua Mỹ để làm nô lệ .
⊙ Người ta đã ước lượng trong gần
2000 năm qua giáo hội CG đã giết
khoảng 200 triệu người. Chỉ riêng trong cuộc đệ nhị thế chiến giáo hội
CG đã thông đồng với Đức Quốc Xã giết hại gần 6 triệu dân Do Thái.
⊙ Khi quân Pháp bị vây ở Điện Biên
Phủ năm 1954. Giáo Hoàng Piux XII
đã vận động chính phủ Mỹ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử, mỗi quả nặng
31 kilo tấn xuống Bắc Việt để giải vây cho quân Pháp. Rất may cho dân
tộc chúng ta là chính phủ Mỹ không đồng ý, nên chuyện này đã không xảy
ra.
⊙ Một nhà ngoại giao Pháp có nói :
"Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực
dân là hai đường thẳng song song, nhưng trái với mọi định luật hình học
là nó thường gặp nhau".
Joachim Kahl: đã viết: “Người nào chưa bao giờ thấy mình căm phẫn
Ki-tô Giáo thì chưa bao giờ thực sự biết về Ki-tô Giáo. * Victor Hugo
(1802-1885) Đại Văn hào Pháp viết: "Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc
soi sáng: Ông thầy giáo. Và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: Ông Linh mục xứ".
⊙ Đại Văn Hào Pháp Emile Zola
1840-1902) đã viết một câu trứ danh:
"Nền văn minh của nhân loại sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi nào cái
phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi trúng đầu ông Linh Mục
cuối cùng".
⊙ Khoa học gia kiêm triết gia
Bertrand Russel được giải thưởng Nobel
(1950) thì viết:
"Nhìn vào lịch sử thế giới, quý vị sẽ thấy mỗi một tiến bộ trong tình
người, mỗi một cải thiện trong luật pháp, mỗi một bước tiến để đẩy lùi
chiến tranh, mỗi một bước tiến để nhân ái hơn với người da màu, mỗi một
giảm thiểu của chính sách nô lệ, mỗi một tiến bộ luân lý trên thế giới
đều bị các giáo hội chống đối kịch liệt. Tôi nói một cách quả quyết rằng
chính đạo Ki Tô, theo cách các giáo hội tổ chức hiện nay, đã là và vẫn
còn là kẻ thù chính của những tiến bộ trên thế giới".
Đúng vậy, đọc báo chúng ta thấy thỉnh thoảng L.H.Q mở những cuộc hội
nghị về hạn chế sinh sản thì luôn luôn Vatican cử phái đoàn tới và vận
động các nước khác chống đối sự hạn chế sinh sản. Hạn chế sinh đẻ là một
việc cần thiết phải thực hiện để tránh nạn nhân mãn và sự đói nghèo trên
địa cầu, tại sao giáo hội CG lại chống? Chống phá thai thì còn có lý, vì
giết bào thai là tàn ác. Còn ngừa thai bằng thuốc, bằng phương pháp
Ogino, hay đặt vòng xoắn khi bào thai chưa tượng hình thì tại sao lại
chống? Xin thưa có hai lý do chính:
Thứ nhất: Nếu thế giới này giàu có, văn minh tiến bộ thì làm sao Kitô
giáo truyền đạo, vì giáo lý của họ chỉ có thể thuyết phục được những
người dốt nát và đói nghèo phải bám vào một hy vọng ở đời sống sau khi
chết. Nhân loại càng tiến bộ thì Kitô giáo càng lụi tàn.
Thứ hai: Trong thánh kinh và trong nhà thờ, họ luôn luôn khẳng định
mọi sự trên đời này đều do ý của Chúa. Mỗi người chúng ta có mặt trên
đời này hay không là do ý của Chúa, một sợi tóc của chúng ta rụng xuống
cũng là do ý của Chúa. Nếu cho ngừa thai, muốn đẻ mấy đứa con là do ý
của hai vợ chồng, không còn là ý của Chúa nữa thì thánh kinh của họ đem
đốt đi hay sao? Tòa thánh Vatican sẽ dẹp, rồi tu sĩ với một mớ kiến thức
về thần học, chỉ có thể xử dụng trong nhà thờ, không dùng vào đâu được
thì làm gì để sống trên nhung lụa? Cho nên họ phải chống tới cùng. Thế
giới này càng nghèo đói, càng dốt nát thì họ càng có nhiều tín đồ.
Kể ra thì dài dòng lắm, phải viết nhiều cuốn sách mới hết được. Trên
đây tôi chỉ sơ lược những nét đại cương, cũng như Giáo Hội chỉ xưng thú
và xin được tha thư 7 núi tội lỗi một cách chung chung, chúng ta nên tìm
hiểu tại sao Giáo Hội lại phạm những tội lỗi đó. Nguyên nhân thì nhiều
vô số, nhưng có thể quy vào những nguyên nhân chánh là những lời dạy sặc
mùi thực dân trong thánh kinh.
4.- Những Tội Ác Mà Đạo Công Giáo Đã Mang Đến Cho Dân
Tộc Việt Nam.
Do sự vận động của các giáo sĩ Pháp như các ông Linh Mục Huc, Giám
Mục P. Pellerin và LM Legrand De La Liraye, mỗi người làm nhiều tờ trình
trong nhiều thời điểm khác nhau, đại ý: "Bệ hạ chỉ cần gởi qua (VN) 1200
lính thôi là có thể chiếm toàn thể nước Việt Nam. Vì ở đó chúng tôi đã
có sẵn 20.000 (?) con chiên làm nội ứng" Pháp Hoàng Napoléon đệ III đã
phái Đề Đốc Rigault De Genouilly đến cửa Mành Sơn-Đà Nẵng ngày
16-10-1858. Tại đây đã có linh mục Nguyễn Hoằng, L.M Nguyễn Điều, Nguyễn
Trường Tộ,và 5 người VN khác cùng đi với linh mục tình báo Gauthier đến
đón quân Pháp. Và sau đó, các giáo sĩ và con chiên An Nam luôn luôn xúi
Pháp phải đánh gấp ra Huế để chóng dứt điểm. Nhưng Genouilly thấy thực
lực chưa đủ để đánh Huế, nên đã tống cổ mấy ông linh mục này qua Hồng
Kông. Rồi đưa chiến hạm vào Gia Định và bắt đầu cuộc xâm lăng V.N từ đó.
-Chính Giám mục Puginier ở Bắc Kỳ trong thời Pháp thuộc đã nói: "Nếu
không có các Thừa sai và con Chiên An Nam thì người Pháp ở Việt Nam cũng
giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng".
Đúng vậy, chúng ta hãy đọc tài liệu sau đây của Đô Đốc Page viết cho
Bộ Trưởng Hải Quân ngày 25/12/1859:
"Những năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân
cần với họ (các giáo sĩ). Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương
có thái độ khoan dung, rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp
luật, những vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân, do các giáo sĩ
lãnh đạo đã ngày càng xấc xược ngạo mạn đến mức độ, họ không thèm biết
đến cả chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn; họ tuyên bố người
Kitô giáo không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác (...)
"Đâu đâu cũng loạn ly. Họ (các giáo sĩ) cưỡng ép bắt đi những em bé,
những thiếu nữ ra khỏi gia đình để Kitô hóa. Do những hành động và những
phản ứng ấy (tôi tóm tắt lại trong hai từ này tất cả những lời buộc
tội). Các giáo sĩ nghiễm nhiên trở thành người lãnh đạo, hoặc bao che,
cho tất cả những cuộc nổi loạn này: tất nhiên họ tham gia vào tất cả
những hoạt động bí mật chống lại nhà vua, kể cả những hoạt đông khủng
khiếp nhất: sự sụp đổ của nhà nước và của non sông đang có nguy cơ xảy
ra dưới ảnh hưởng một tình thế như vậy. (...)
"Để giữ gìn an ninh trật tự tại Sàigòn, tôi đã phải thiết lập một tòa
thị chính. Ngạc nhiên biết bao khi ngay hôm sau, các giáo sĩ đã tới gặp
tôi và tuyên bố rằng giáo dân An Nam không thể tuân phục một chính quyền
ngoại đạo. Chính những "từ" mà họ dùng.
"Sao, không tuân phục, kể cả đối với cơ quan cảnh sát của thành phố?
Nhằm ngăn chận bọn trộm cắp lưu manh và bọn phiêu lãng cướp bóc thành
phố hay sao?
"Và tôi lấy làm xấu hổ mà phải thú nhận với ngài Bộ Trưởng rằng những
nguyên lý ấy được các giáo sĩ thuyết giảng công khai!
"Thực tình tôi không muốn nói thêm những chi tiết khác, do những
người nhất thời có địa vị to lớn trong nước khẳng định với tôi. Tôi chỉ
muốn tin khi nào tôi được đích thị chứng kiến. Ngoài ra không một người
công giáo Việt Nam nào là không xin được đăng lính dưới lá cờ của chúng
ta. Ông vua ngoại đạo của Nam Kỳ không phải là vua của họ!
"Bây giờ thì ngài bộ trưởng đã hiểu vì sao cả nhà vua, lẫn các quan
lại, đêu coi các giáo sĩ Kitô như những kẻ thù...
Trong một bức thư khác đề ngày 24/7/1862 viết cho đại bản doanh Pháp
ở Sàigòn và cho ông bộ trưởng bộ Hải Quân, người kế chức của Page, đô
đốc Bonard, cũng xác nhận những điều sai trái ấy:
"Chính là từ phía các giáo sĩ mà các vụ rắc rối nghiêm trọng nhất có
thể xảy ra nếu người ta không tự giới hạn mình trong việc bảo đảm che
chở cho họ một cách công bằng, và nếu người ta không dựa cớ tôn giáo để
đỡ họ trong những âm mưu chính trị lật đổ chính phủ hiện hành, những âm
mưu, trong đó không may, nhiều giáo sĩ đã bị lôi cuốn tham gia, mà chẳng
thấy ai từ chối! Nâng đỡ họ trên một đường lối như vậy sẽ là nguy hiểm,
Bởi vì họ sẽ trở thành những kẻ phiến loạn thực sự, chứ không phải những
kẻ tuẫn tiết vì đạo”.
"Sự đánh giá tình hình trên đây của tôi, thưa bộ trưởng, đã được căn
cứ trên những nhận xét dưới đây:
"Cuộc chiến tranh Nam Kỳ, không ai có thể phủ nhận được rằng nó đã
được gây ra do những yêu sách của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Pháp phàn
nàn kêu ca trước những sự khủng bố bất công của triều đình Huế, mà đối
tượng chính là họ.
"Thực ra, cách tổ chức và trạng thái tinh thần của các vị giáo sĩ đó
như sau:
"Đất Nam Kỳ được chia thành nhiều địa phận, mỗi địa phận do một giám
mục lãnh đạo. Tất cả các giám mục có thể chịu, đây là điều mà tôi không
được biết, sự lãnh đạo chung của trung tâm truyền giáo tại Châu Âu.
Nhưng mỗi giám mục trong địa phận mình hầu như muốn làm gì tùy ý, và rất
đố kỵ không muốn cho một giám mục địa phận láng giềng can thiệp, dù
trong một việc nhỏ nhoi không đáng kể, vào nội bộ, cái địa phận mênh
mông mà họ coi như mình có trách nhiệm phải cai trị về mặt tinh thần.
Tất cả đều ôm ấp ước mơ sẽ trở lại thời kỳ mà giám mục Adran thật sự làm
vua đất Nam Kỳ, thời kỳ mà bất cứ việc gì nhất nhất đều phải thi hành
theo lời khuyên nhủ hoặc sự cho phép của ông ta.
"Để đạt được mục đích ấy, họ đã dùng những biện pháp sau đây:
Trong bọn họ, người nào cũng thấy các ông vua kế ngôi vua Gia Long
không tuân theo đúng nguyện vọng của họ, nên họ đã phản đối tính chất
chính thống của các vua trên, và tìm cách đề cử một người khác có khả
năng bảo đảm cho họ đạt tới mục đích hơn, nếu như người đó lật đổ được
ông vua đương vị.
"Một số trong bọn họ, nhằm mục đích chiếm ngôi, đã viện cớ rằng vua
Gia Long đẵ chỉ định kế ngôi mình, không phải người con trai đầu lòng,
mà là người con trai thứ hai- như thông thường các triều đại Viễn Đông
vẫn làm. Các giáo sĩ vùng hạ Nam Kỳ theo xu hướng này. Các giáo sĩ vùng
đất của vương quốc An Nam, lân cận Huế, nằm trung gian giữa Bắc Kỳ với
Nam Kỳ, còn đi xa hơn nữa trong việc phản đối tính chất chính thống của
chi nhánh Hoàng gia đang trị vì. Ngay cả Gia Long, họ cũng coi như một
kẻ tiếm vị, và họ đã tìm một người con cháu nhà Lê, mà các vua biến chất
thành hạng "vua lười", đã bị một ông Thừa Tướng lật đổ.
"Tôi nghĩ rằng các tu sĩ dòng Dominicain Tây Ban Nha, còn hăng hái và
cực đoan hơn cả những giáo sĩ Pháp, đều đã liên quan với những phe đảng
ấy.
"Một người con cháu nhà Lê, thật hay giả?, đã được đón nhận tại các
nhà dòng Trung Quốc, và sau khi đã dày vò hành hạ anh ta trăm đường, đến
mức bắt anh ta làm người gác cổng của nhà dòng; các giáo sĩ cấp trên ấy
đã dự định dựng anh ta (Tạ văn Phụng-NHB) lên ngôi vua, vì tin tưởng họ
vẫn có một ảnh hưởng sâu sắc đối với anh ta, một khi họ thực hiện được
dự định.
"Trong tình thế hiện nay, và dựa trên những lời nói và việc làm của
các tầng lớp giáo sĩ Pháp vùng Nam Kỳ, họ đang cố gắng từ bỏ những tham
vọng chính trị của họ, vì họ hy vọng rằng dưới ảnh hưởng sự chiếm đóng
và sở hữu thuộc địa của chúng ta, tuy chưa mang đến cho họ cái quyền uy
tuyệt đối của giám mục Adran, ít ra cũng cho phép họ tỏ ra hài lòng
trong giai đoạn trước mắt. Vậy, người ta có thể, bằng một chính sách vừa
mềm dẻo, vừa cứng rắn, buộc họ phải nằm yên trong những giới hạn hợp lý
hợp tình của cái uy tín mà họ đang mong có được.
"Các giáo sĩ vùng lân cận Huế còn lâu mới chịu chấp nhận biện pháp
giảng hòa này. Một vài vị tán thành một cách uể oải, nhưng đại đa số thì
qua những chuyện bất hòa, qua hành động có chiều hướng muốn chứng minh
rằng họ chưa khước từ những tư tưởng cực đoan của mình. Giám mục, cùng
với một vài người cộng sự thông minh nhất, tiếp thu lời tôi khuyên không
nên vội vàng trong bất cứ vấn đề gì, còn ở lại Nam Kỳ và sẽ hành động
khôn ngoan, một khi họ trở lại địa phận của họ, sau khi hòa bình đã được
củng cố vững vàng.
"Nhưng những người sôi nổi hăng hái đều đã ra đi, tay làm dấu thánh
giá, theo sau họ là những lũ cướp thực sự .
"Từ thái độ ấy có thể xảy ra nhiều khó khăn nếu người ta không biết
hành động một cách thận trọng. Với tư cách là người Pháp hoặc người công
giáo, họ chắc chắn sẽ yêu cầu được bảo vệ, một khi họ bị dính líu vào
những mưu đồ chính trị, bất chấp những lời khuyên bảo chí tình chí lý
của tôi
"Còn những tu sĩ Dominicains người Tây Ban Nha, thường hay ở vùng
thượng du Bắc Kỳ, họ còn khó cai trị hơn gấp mấy lần: hăng hái và cuồng
nhiệt đến mức tột cùng, một số lớn xuất thân từ những đảng du kích và
những phần tử Carlistes (phái quân chủ chuyên chế theo Don Carlos) đã
rời bỏ Tây Ban Nha ra đi, tự nguyện, với thanh kiếm, khẩu súng, cùng với
cây thập tự trên tay, tham gia bằng cả tâm hồn lẫn thể xác vào những
cuộc nổi loạn đang làm điêu đứng xứ Bắc Kỳ.
Sau bức công hàm, Bonard ghi thêm mấy lời tái bút nhấn mạnh với ông
Bộ trưởng rằng nước Pháp sẽ phải chịu nhiều tai họa nếu tiếp tục nâng đỡ
các giáo sĩ. Và ông chứng minh một cách hùng hồn trách nhiệm của các
giáo sĩ tại Việt Nam:
"P.S: Tôi vừa nhận được
những thông tin mới, và vội vàng chuyển tới
cho Bộ trưởng. Tôi trân trọng yêu cầu ngài đặc biệt quan tâm một cách
nghiêm túc những ý kiến đánh giá trên đây của tôi. Bởi vì qua lời nói và
việc làm của các giáo sĩ ở Nam Kỳ, có thể thấy rõ ràng họ đang cố tìm
cách đưa chính phủ vào con đường tai họa mà họ đang theo đuổi: sự lật đổ
vua Tự Đức.
"Bất chấp mọi lời cảnh cáo của tôi, mặc dầu tôi đã bảo họ phải kiên
trì chờ đợi những ý kiến của chính phủ Hoàng đế về việc chuẩn y hòa ước
(5/6/1862) và hậu quả của nó, họ vẫn không ngừng gửi đi về vùng Huế
những phái viên mang nặng những ý đồ xấu xa và tinh thần xảo trá.
"Tôi đã dứt khoát từ chối không cấp thông hành cho họ đi về ngả ấy
(Huế) cho đến lúc nào tôi nhận được chỉ thị từ Pháp. Họ không màng quan
tâm gì đến, và chắc hẳn Ngài đã nhận được nhiều khiếu nại của họ về vấn
đề này, bởi vì họ đi hành quân, bất chấp những lời khuyên răn thường
xuyên của tôi, họ không giấu ý đồ của họ và thái độ coi thường của họ
đối với các điều khoản của hiệp ước. Đây là một mối nguy cơ mà tôi nêu
lên lại với Ngài không phải là thừa Bởi vì nếu không cảnh giác trước
những bản báo cáo của các giáo sĩ đó, thì họ sẽ không lùi trước một thủ
đoạn nào để đi tới mục đích bằng cách lôi kéo cả chính phủ vào con đường
tai hại cho những lợi ích chân chính của nước Pháp"
(trích trong cuốn "Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa
Pháp tại Việt Nam (1858-1897) của tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ từ trang
86-90).
* Linh Mục Trần Lục Giúp Pháp Hạ Thành Ninh Bình Và
Dẫn 5.000 Giáo Dân
Giúp Pháp Đánh Chiến Lũy Ba Đình Của Đinh Công Tráng:
Trần Lục nguyên là chánh xứ Phát Diệm. Ngày 5-12-1873 Trần Lục giúp
đội quân Pháp chiếm thành Ninh Bình. Tài liệu nói rõ quân của triều đình
cố thủ trong thành Ninh Bình khoảng 1000 người, có tường cao và hào sâu
bao bọc xung quanh. Thông thường nếu muốn chiếm một thành trì kiên cố
như vậy thì đội quân tấn công phải có quân số gấp 3 lần quân phòng thủ,
nghĩa là khoảng 3.000 quân. Khi chiếm thành Ninh Bình quân Pháp chỉ có
một chuẩn úy và 6 tên lính, số còn lại là người Việt Nam, hầu hết là con
chiên của L.M Trần Lục.
Linh mục Trần Tam Tĩnh, viện sĩ Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Canada, giáo
sư đại học Laval Canada là tác giả cuốn Dieu et César (thập giá và lưỡi
gươm), La Mã 19/5/75, do nhà xuất bản Sudestasie, Paris 10-1978, trang
41 và 42 tường thuật như sau:
"Cho tới ngày chết,
25-4-1892 Giám Mục Puginier chẳng bỏ qua ngày nào
mà không hoạt động để củng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi
này của ông. Người ta đang giữ hàng chục điệp văn và bản tin tình báo
mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ Thuộc địa. Và một phần nhờ ở
các bản tin đó mà quân Pháp đã đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của
người Việt. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xảy ra tại Ba Đình, Thanh
Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng
được biến thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ có thành, đường hầm và hệ
thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần chiến sĩ lúc
đó rất cao. Nhằm "bình định" cứ điểm này, quân Pháp đã gởi tới một lực
lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của
Trung tá Metzinger. Cuộc tấn công ngày 16-12-1886 bị đảy lui. Quân Pháp
phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có
một sĩ quan trẻ, đại uý Joffre (Joffre sau này là Thống chế Pháp trong
chiến tranh thế giới thứ nhất) nghĩ tới việc nhờ Linh Mục Trần Lục, quản
xứ Phát Diệm và là Phó Vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Linh Mục này đã nhận phép lành của Giám Mục
Puginier, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, Ba Đình đã
thất thủ.
Thật đau lòng cho một sử gia người Việt Nam Công Giáo khi phải nhắc
lại những năm tháng ấy, thấy quân đội Pháp hành quân"bình định" chỉ được
nghỉ ngơi trong các làng Công giáo: "Sau một cuộc hành quân mệt rã rời,
quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào một làng người lương
thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp được một làng người Giáo thì
trẻ con chạy ra đón đường và kêu ầm lên: Công Giáo, Công Giáo đây! để
quân chúng ta biết rằng chẳng có gì phải sợ ở đó, rồi dân chúng đem
chuối, trứng, gà ra chiêu đãi. Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng
ghi nhớ nhi?"
Những dòng trên đây chẳng phải do một bàn tay Cộng Sản ghi lại, mà là
do một tu sĩ dòng Tên đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo
Ki Tô lúc đó nghĩ rằng bổn phận của họ là phải hợp tác (với Pháp) vì
mình là người Công Giáo"(F, Rouvier, Loin du Pays, Paris 1896,
tr.103-104)".
Để tránh hành động chạy tội và đổ thừa cho "Cộng Sản", Linh Mục sử
gia Trần Tam Tĩnh nói rõ ông lấy sử liệu từ một tu sĩ dòng Tên: F.
Rouvier, trong cuốn Loin du Pays, Paris 1896 trang 103-104.
Tiếp theo đây mời quý độc giả theo dõi một phần bài tường thuật:
* Cuộc Đại Lễ Tấn Phong Giám Mục Và Gắn Huy Chương Tại Phát Diệm do
chính người Công Giáo tại Phát Diệm hảnh diện viết ra:
"Quan Thủ Hiến vừa bước chân xuống xe, ngài tiến thẳng lại mộ cụ Trần
Lục. Hai tay kính cẩn đặt vòng hoa trên nấm mõ vị Nam tước. Một phút yên
lặng: quan Toàn Quyền cảm động kính điếu một vị anh hùng, một bậc quốc
công danh vang bốn bể...mà nay, lần thứ nhất, ngài mới được nhìn những
công cuộc vĩ đại như tiếng ca khen tài đức. Thực là một buổi nhất sơ, mà
buổi nhất sơ này lại được đứng trước mồ vị Nam Tước Phát Diệm càng thêm
cảm xúc ai tình...Vị Thủ Hiến Đông Dương đưa cặp mắt đầy cảm động không
thể giấu được, ngó chung quanh lũ con dân chồng chịt như nêm cối, bao
nhiêu con mắt đổ dồn vào Ngài. Ngài cảm động hơn nữa, vì nghĩ tới cụ
Trần Lục, người cha đã giáo hóa con dân biết trọng lễ nghi trật tự, kỷ
cương, và là vị phúc tinh đã đem lại sự hòa bình thân thiện cho dân tộc
Pháp Nam mà ngài vừa mắt thấy tai nghe những chứng chỉ thành thực do
những cuộc đón chào các hương lý phủ, huyện, đứng chực hai bên đường
Ninh Bình-Phát Diệm biểu diễn... Vẫn giữ nét mặt cảm động và suy nghĩ,
quan Toàn Quyền cùng với các quan khác theo Đức Cha Nguyễn Bá Tòng hướng
đạo tiến vào thánh đường. Chỗ mấy chục năm trước Cha Trần Lục đã đón
tiếp hai vị Toàn Quyền là De Lanessan và Roussaux. Mừng quan Toàn Quyền
đã nhờ tài ngoại giao lỗi lạc mà tránh cho xứ Đông Dương một cơn khủng
bố. Quan Toàn Quyền đứng lên nói ít nhời tỏ lòng quyến luyến Phát Diệm
và Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. Ngay hôm mới gặp đức Cha lần đầu ở Tam Đảo,
ngài đã cảm phục và hứa sẽ đến Phát Diệm thăm Đức Cha. Nay được như ý sở
nguyện, ngài rất lấy làm thỏa dạ. Thỏa dạ vì trong buổi đến thăm Đức Cha
này Ngài lại được cái vui sướng tự tay gắn Bắc Đẩu Bội Tinh cho Đức Cha.
Ngài chúc Cha vừa mới thụ phong được một cuộc tông đồ sung mãn. Sau một
hồi vỗ tay, quan Toàn Quyền mời Đức Cha Tòng xuống trước sân vận động
giữa đội lính thủy bồng súng chào. Sau một tiếng hô rất mạnh mẽ, Ngài
tuốt gươm bạc cầm trong tay và cứng cát tuyên bố thay mặt cho Thống
Tướng Pétain, Quốc Trưởng Pháp kính tặng Đức Cha Tòng Ngũ Hạng Bắc Đẩu
Bội Tinh. Thế rồi Ngài tiến đến gần Đức Cha hai tay kính cẩn gắn huy
chương mà chính Ngài tặng Đức Cha. Lùi ra mấy bước Ngài cầm chiếc gươm
bạc sẽ đặt lên hai vai của Đức Cha. Hội nhạc cử bài Quốc Ca. Quan Toàn
Quyền kết thúc lễ gắn huy chương bằng một cái áp má thịnh tình và lòng
trọng kính, Quan Toàn Quyền lên an tọa. Đức Cha Tòng đọc bài diễn văn tỏ
lòng cảm ơn chính phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu
Quốc. lòng cảm xuất không khỏi đem lòng thán phục những bậc anh hùng
Công Giáo ở nước ngoài cũng như ở nước ta, đã đổ máu để mua cho mình sự
hòa bình thân ái, mua cho mình bữa tiệc có tình gia thất hôm nay. "Tứ
Hải Giai Huynh Đệ" bữa tiệc pha chủng tộc, pha tôn giáo, pha giai cấp!
Thực là một bữa "Tiệc Lòng". Vì bấy nhiêu trái tim cùng đổ một dịp theo
với những nhịp kèn nhà binh của đội thứ bốn lính khố đỏ Nam Định thổi
mừng khi ăn tiệc. Tiếng cười, tiếng nói, chén tạc chén thù một lòng thân
thiện hợp quần"
("Hội hè đình đám" của Toan Ánh, dẫn theo cuốn " Tại sao không theo
đạo Chúa"tập 1, từ trang 190-201)
Là giám mục hay linh mục, nếu giáo hội Vatican khen thưởng là chuyện
bình thường. Đằng này L.M Trần Lục đã được Pháp Hoàng khen thưởng Bắc
Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng năm 1885. Rồi 4 năm sau (1889) ông lại được gắn
Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Năm 1940 giám mục Nguyễn Bá Tòng cũng được
Thống Chế Pétain gắn Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng. Hành động Việt gian
này đã được đồng bào Công giáo rất hảnh diện, nên họ đã đặt tên cho hai
ngôi trường ở Sàigòn: Trần Lục và Nguyễn Bá Tòng. Họ còn viết cuốn sách
đồ sộ khoảng 700 trang "Linh Mục Trần Lục" gồm 22 tác giả Công Giáo, ca
tụng ông linh mục này lên tận mây xanh. Họ tôn xưng Trần Lục không những
là một anh hùng của Việt Nam mà còn là một vĩ nhân của thế giới!
* Bức Thư Của Giám Mục Ngô Đình Thục Gởi Toàn Quyền Decoux.
Hằng năm cứ đến cuối tháng 10 dương lịch, những người Công giáo VN
muốn sửa lại lịch sử nên thường viết những bài ca tụng chí sĩ (?) Ngô
Đình Diệm. Cựu tổng Thống Ngô đình Diệm có phải là một chí sĩ yêu nước
hay không? Xin quý vị đọc Bản dịch thư viết tay bằng Pháp ngữ của giám
mục Ngô Đình Thục gửi Đô Đốc Jean Decoux, Toàn Quyền Đông Dương dưới
đây.
Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21. 8. 1944
"Thưa Đô Đốc,
Một Linh Mục từ bổn tòa được phái đi Sàigòn để lo việc cho chủng viện
vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì
đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa
được báo cáo có đúng sự thật hay không?.
Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô
Đốc đã cảm thấy-nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư
này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.
Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi
nước Pháp thì-với tư cách của một Giám Mục, của một người An Nam, và với
tư cách là người con của một gia đình mà phụ thân đã phục vụ nước Pháp
ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước
Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn
Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An
và Hà Tịnh- tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận hoạt động của các em tôi.
Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn
địa vị cá nhân của tôi: Bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có
thể phương hại đến quyền lợi của đạo (Thiên Chúa), tôi sẽ vui vẻ rời
khỏi Tòa Giám Mục này ngay.
Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin
tưởng trìu mến của Đô Đốc (đối với tôi) đã không bị đặt vào một kẻ bất
xứng hay vô ơn.
Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế này. Giá có
mặt ở đãy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện
xảy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả
thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi
của nước Pháp.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không
tin-cho đến khi được chứng minh ngược lại - rằng các em tôi đã phản lại
truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình
gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan
lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp
khi thấy có lợi.
Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp,
trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải
ngà gục dưới những phát súng của một Hoa Kiều Chợ Lớn được phái đến
Phan-Rang với mục đích hại Diệm, Phan-Rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt
chống giữ lối xâm nhập vào An Nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái
đến.
Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là
điều nêu ra để làm cớ biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay,
nếu sự bất cẩn này được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi
không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy
xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc
không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi
nêu ra điều này khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng
được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến
quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng
lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy
sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.
Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đón của
tôi trong vụ này, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào
trân trọng nhất của tôi.
Ngô Đình Thục
(trích từ cuốn "Tại sao không theo đạo Chúa" tập 1 từ trang 213-217).
Sau đây mời quý độc giả đọc:
* Lời Khuyên Của Một Linh Mục Đối Với Một Con Chiên Muốn Bỏ Đạo:
"Con đừng bỏ đạo vì chắc chắn con sẽ là một nhà lãnh đạo tương lai
của nước Việt Nam. Bởi vì Công Giáo sẽ nắm chính quyền là điều chắc
chắn, và sẽ nắm vĩnh viễn! Đảng Cộng Sản cho dù giỏi lắm cũng chỉ tồn
tại được 10, 15 năm nữa là cùng. Chúng ta không cần phải chống đối gì họ
cho thiệt hại! Chỉ cần âm thầm củng cố lực lượng. Bởi vì, so sánh về
tương quan lực lượng thì Công Giáo có 7 triệu đảng viên hết sức trung
thành, có đoàn ngũ, có kỷ luật, lại được sự hỗ trợ của Tòa Thánh Vatican
với một tài sản khổng lồ (3000 tỉ đô la), được hỗ trợ Bởi Mỹ, và các
quốc gia Tây phương hùng mạnh. Đảng Cộng Sản chỉ có khoảng 2 triệu đảng
viên, lỏng lẻo và đang có triệu chứng rạn nứt sau khi bị Đông Âu bỏ rơi.
Chúng ta chỉ cần tranh đãu (hoặc xúi người khác tranh đãu) cho một nền
dân chủ đa nguyên là chúng ta sẽ thắng ngaỵ. Bởi vì, ở Mỹ như con biết,
dù bầu cử tự do, nhưng ứng cử viên nào nhiều tiền chắc chắn sẽ thắng! Ở
Việt Nam mặc dù Giáo Hội Phật Giáo thường rêu rao rằng có tới 80% là
Phật tử, nhưng những người theo đạo Phật thực sự hiểu biết giáo lý có lẽ
không tới 0.1%. Những Phật tử lưng chừng ta lôi kéo họ rất dễ, nhất là
người Việt Nam nào cũng thường có tật bất mãn với chính quyền!"
(trích từ bài "Nỗi ăn năn thống hối của một người theo Công Giáo" của
tác giả Phan Quốc Đông, trong cuốn "Đối thoại với Giáo Hoàng Gioan
Phao-Lồ II" từ trang 335-350).
* Một nhà ngoại giao Pháp đã nói: "Người Công Giáo Việt Nam họ sống
như một người ngoại quốc, ngay chính trên quê hương của họ". Các bạn hãy
nhìn vào các xứ đạo: Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai... sẽ thấy rõ điều này.
* Trong cuốn "Cẩm nang triết Việt". Chính Linh mục triết gia Lương
Kim
Định cũng phải thú nhận rằng: "Sự truyền đạo Thiên Chúa Giáo vào Việt
Nam... đã đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe
Lương Giáo, làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đày e dè
nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi,
nhưng xem ra không sao xóa sạch được".
Qua một số dẫn chứng nêu trên, chúng ta hẵn đã thấy được thực tướng
và giá trị của 3 tôn giáo là Phật Giáo, Công Giáo và Tin Lành (đặc biệt
là năm 2001, các mục sư Tin Lành xúi dục con chiên vùng Cao Nguyên nỗi
lọan đòi thành lập một nước Đê-Ga Tin Lành tự trị trên lãnh thổ Việt
Nam. Bị chính quyền Việt Nam trừng trị thì họ cáo buộc là đàn áp tôn
giáo), thì thử hỏi ai cần phải bỏ đạo để theo ai?
D- Ý kiến đề nghị:
1. Vài ý kiến đề nghị đối với các Phật tử
(bao gồm cả người Lương, tức
là Phật Tử tại gia)
Einstein, nhà bác học hàng đầu của thế kỷ 20 đã nói: "Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn vũ trụ. Tôn giáo này vượt trên một
Thiên Chúa cá biệt, loại bỏ những giáo điều và thần học. Nó bao gồm cả
thiên nhiên và tinh thần, trong một thể đồng nhất đày ý nghĩa, dựa trên
ý thức tín ngưỡng xuất phát từ kinh nghiệm tổng hợp. Phật giáo đáp ứng
sự mô tả này" (The religion of the future will
be a cosmic religion. It
should transcend a person God and avoid dogmas and theology, covering
both the natural and the spiritual, it should be based on a religious
sense, arising from experience of all things, natural and spiritual, as
a meaningful unity. Buddhism answers this description.)
Đạo của chúng ta như vậy, tại sao phải bỏ. Tôi đề nghị từ nay những
người Phật Giáo chúng ta nên cứng rắn hơn, khi có con em của mình vì
tình yêu phải kết hôn với con cái của họ. Chúng ta tôn trọng tôn giáo
của họ, thì yêu cầu họ phải tôn trọng tín ngưỡng của chúng ta bằng cách:
Đạo ai nấy giữ, không bắt buộc ai phải bỏ đạo cả. Khi có con, không được
đem đứa bé vào nhà thờ rửa tội, nó có tội gì mà phải rửa? phải chờ cho
đứa trẻ 21 tuổi, đủ trí khôn, nó muốn theo đạo nào là quyền của đứa trẻ.
Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận vì từ nay bó củi (để đốt người) và
thanh gươm (để giết người) đã vuột khỏi tầm tay của Vatican. Nên họ đã
đổi chiến thuật bằng cách bành trướng thế lực trong những xứ nghèo đói,
kém mở mang và kiếm thêm tín đồ bằng con đường hôn nhân. Họ sẽ thuyết
phục chúng ta không cần phải bỏ đạo. Nhưng đồng ý cho con em chúng ta
vào nhà thờ làm lễ. Nhưng khi chúng sinh con thì dâu (hay rể) của chúng
ta sẽ thuyết phục chồng (hay vợ) của chúng đem con vào nhà thờ rửa tội.
Coi như họ nhường một bước đầu, sẩy mất một linh hồn, nhưng từ đó về sau
cả dòng tộc đều theo Công Giáo hay Tin Lành. Trong trường hợp như vậy,
con cái chúng ta thường có tâm lý muốn giữ hạnh phúc gia đình nên chìu
theo ý muốn của vợ (hay chồng). Tôi khuyên các bạn phải cứng rắn vì
chúng ta sợ hạnh phúc lung lay thì chính họ cũng sợ như chúng ta vậy.
Tại sao chúng ta không đủ bản lãnh để đòi hỏi công bằng mà phải theo cái
đạo quái ác mà chính những người Tây phương, có đạo gốc là Kitô giáo
đang muốn từ bỏ.
Giáo Hoàng Jhon Paul II tuyên bố "Trong thiên niên kỷ thứ 3, giáo hội
Công Giáo La Mã sẽ được mùa gặt lớn tại các nước Á Châu". Ngài tuyên bố
như vậy vì ngày nay người Âu Châu tiến bộ không thể nghe những lời bậy
bạ, phản khoa học trong Thánh Kinh. Giáo hội chỉ còn một cách là tìm
kiếm con chiên trong các xứ nghèo đói Châu Á. Với một nền thần học như
trong thánh kinh, và đường lối bất khoan nhượng của Vatican trong thực
tế cho thấy: Khi tấm áo chùng đen của các linh mục xuất hiện ở đâu thì
nền văn hóa xứ đó phải bị tiêu diệt... Cho nên các nước Á Châu phải coi
chừng.
2- Vài ý kiến đề nghị với đồng bào theo Kitô Giáo
Nhiều người Việt tại Mỹ có lẽ đã biết về trường hợp cô Phạm thị Bích
Phượng: Cô Bích Phượng là một Phật tử, con của cựu Trung tá Phạm Hữu
Tấn, đỗ kỹ sư điện toán năm 1983. Còn gia đình ông Tấn qua Mỹ theo diện
H.O năm 1990. Chồng cô Phượng là Trần văn Hương theo đạo Tin Lành giáo
phái Jehovah's Witness. Khoảng giữa tháng 11, 1995 cô Phượng sinh đứa
con thứ nhì tại bệnh viện El Camino. Khó sinh nên bác sĩ phải mổ. Theo
giáo phái này, người mổ không được truyền máu vì phạm luật của Chúa
Trời. Lúc mổ, Hội Thánh Tin Lành phái hai người và cả chồng cô Phượng
vào canh chừng tại phòng sanh xem cô Phượng có thi hành luật lệ do Hội
Thánh đặt ra hay không? Kết quả, vì máu chảy quá nhiều mà không được
tiếp máu nên cô Phượng đã chết, chỉ mới 35 tuổi, để lại hai đứa con thơ
không bao giờ thấy mặt mẹ. Quý Phật Tử nghĩ sao khi họ bảo chúng ta bỏ
đạo Phật để theo cái đạo quái ác, phản khoa học như vậy?
Tôi biết các bạn sẽ hỏi: "Giáo lý Công giáo sai lầm như vậy, tội ác
ngập đầu như vậy, tại sao có nhiều học giả, trí thức vẫn tin và vẫn sùng
đạo?". Xin thưa là họ cũng có cuốn thánh kinh như các bạn đang có, nhưng
ít ai chịu đọc. Có một số trí thức có đọc và nghiên cứu kỹ, nhưng họ
không bao giờ nói cho các bạn nghe và họ cũng không bỏ đạo, vì giáo hội
Vatican là chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp và công danh của họ. Họ coi
giáo hội là một đảng chính trị chứ không phải tôn giáo. Còn những ông
Linh Mục? Tôi dám nói chắc với các bạn rằng : Các bạn tin Chúa, thờ
Chúa. Còn L.M, họ đọc kinh thánh rất kỹ, họ biết rất rõ những điều bậy
bạ: Loạn luân, giết người, phản khoa học trong thánh kinh nên họ không
bao giờ tin Chúa! Cho nên họ rao giảng thánh kinh, đó là nghề kiếm cơm
của họ mà thôi. Đó là lý do giải thích tại sao, bất cứ tôn giáo nào cũng
có một số ít giáo sĩ mắc tội tà dâm, đó là chuyện bình thường vì họ cũng
là con người như chúng ta. Nhưng tại sao Linh Mục Công Giáo lại phạm tội
tà dâm nhiều nhất? Lý do là vì họ không tin thánh kinh nên không sợ
Chúa. Những người viết thánh kinh họ bịa đặt ra chứ làm gì có Chúa mà
sợ. Đến nỗi có những Linh Mục hiếp dâm con chiên ngay trước tượng Chúa
trong nhà thờ (Xin xem Tôn giáo đối chiếu của Trần văn Kha- tập 4).
Vì vậy xin các bạn từ nay bớt hung hăng và đừng bao giờ tỏ ra trịch
thượng, ngạo mạn coi tôn giáo của mình là văn minh nhất hạng và ép buộc
dâu, rể phải bỏ đạo của nó để theo tôn giáo của mình. Các bạn thử tưởng
tượng khi chúng tôi yêu cầu con cái của các bạn bỏ đạo Chúa để theo đạo
Phật, nếu muốn kết hôn với con cái chúng tôi thì các bạn nghĩ sao?
Thay lời kết
Vì quyền lợi của Vatican không bao giờ có thể song hành hay trùng hợp
với quyền lợi của tổ quốc. Nên những người Công Giáo V.N chỉ có thể chọn
một trong hai con đường. Một là quốc gia-dân tộc. Hai là lệ thuộc
Vatican. Không thể đứng hàng hai, không thể có Công Giáo yêu nước, Không
bao giờ có Công Giáo hay Tin Lành dân tộc trong khi còn lệ thuộc vào
Vatican. Cũng không bao giờ có hòa hợp tôn giáo vì Ki Tô giáo không bao
giờ chấp nhận bất cứ một tôn giáo nào khác cùng tồn tại. Do đó, những
người Kitô Giáo V.N muốn hòa mình trong cộng đồng dân tộc thì chỉ có một
con đường duy nhất là tự ý tách rời sự lệ thuộc vào Vatican, hay những
hội thánh Tin Lành có đầu não nằm ngoài Việt Nam. Chỉ nên liên hệ với họ
trên mặt tín lý mà thôi. Nhưng xem ra việc này hơi khó vì khẩu hiệu của
họ là "Thà mất nước, không thà mất Chúa" (Năm 1967, họ đã tập trung đông
đảo, do linh mục Hoàng Quỳnh dẫn đầu, cầm khẩu hiệu này đi biểu tình
ngang đường Võ Tánh, trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH). Chúa Giê-su
hứa với các môn đồ, ngài sẽ trở lại thế gian đang khi vài môn đồ còn
sống. Thế nhưng đã 2000 năm qua không ai thấy Chúa ở đâu cả, năm 2000
tận thế cũng không xảy ra, nên Chúa của họ là Vatican và Giáo Hoàng mà
thôi.
Vì vậy, ngay từ bây giờ bất cứ chính quyền nào biết nhìn xa trông
rộng, cần phải thực hiện hai bước:
- bước thứ nhất:
◎ Mở mang dân trí và những tội ác của
Vatican cần phải phổ biến rộng
rãi, và đưa ngay vào học đường thì mới mong ngăn chận được giặc áo đen
(các linh mục).
- bước thứ hai:
◎ Phải tách rời giáo hội Công Giáo VN ra
khỏi sự chi phối, kềm tỏa của
Vatican, giống như Anh Quốc, Trung hoa và nhiều nước khác đang áp dụng.
Kính thưa quý độc giả,
khi viết bài này tôi mới thấy sự can đảm, công phu và chững chạc của
các tác giả Trần văn Kha, Trần Chung Ngọc, Charlie Nguyễn, Bùi Kha
v.v...Vì sự hiểu biết của tôi về Ki Tô Giáo nếu đem So với các tác giả
này thì họ có một bồ lúa, tôi chỉ có chừng một đấu mà thôi. Thế mà khi
viết bài này, tôi đã rất khó khăn khi chọn những điều gì nên đưa vào
đây. Vì một đấu lúa của tôi đang có mà trong phạm vi một bài viết tôi
chỉ lựa lọc để đưa vào đây có vài chục hột thì thật là khó cho tôi. Lại
nữa, ban đầu tôi định chỉ viết vài trang đăng trên một tờ báo địa
phương. Rồi thần trí đẩy đưa lúc nào không hay, khi nhìn lại thấy bài
quá dài tôi mới sắp xếp lại bố cục, và lời văn có hơi phóng túng. Xin
quý độc giả thông cảm và bỏ qua cho. Nếu các bạn muốn tìm hiểu rõ ràng
hơn, xin đọc những cuốn sách trong phần tài liệu tham khảo. Nếu ai có
những ý kiến phản bác những điều tôi viết thì xin cứ tự nhiên, chúng ta
có thể thảo luận trên trang báo này. Thành thật cảm ơn các bạn.
Nguyễn Hữu Ba
Australia mùa Đông 2003
# BBT SH thêm dấu hỏi (?)
Tài liệu tham khảo:
-Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại VN: Luận án tiến sĩ Quốc
gia, khoa học chính trị đại học Paris của Cao Huy Thuần.
-Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp tại VN của tiến
sĩ Nguyễn Xuân Thọ.
-Giê-su là ai, giảng dạy những gì. Của giáo sư-tiến sĩ Trần Chung
Ngọc
-Đức tin Công Giáo. Của Trần Chung Ngọc.
-Lòng tin Âu Mỹ đãy của Trần Quý.
-LM Trần Lục: Thực chất con người và sự nghiệp. Của Bùi Kha và Trần
Chung Ngọc
-Sáu tháng Pháp nạn của giáo sư-thạc sĩ Vũ văn Mẫu.
-Tôn giáo đối chiếu của cựu Đại tá Trần văn Kha
-Đối thoại với Giáo Hoàng Jhon Paul II (nhiều tác giả)
-Tại sao không theo đạo Chúa (nhiều tác giả-Giao Điểm xuất bản)
-Kitô giáo từ thực chất đến huyền thoại (nhiều tác giả)
-Vatican thú tội và xin lỗi (6 tác giả)
-Công Giáo trên bờ vực thẳm của Charlie Nguyễn
-Công Giáo huyền thoại và tội ác của Charlie Nguyễn
-Thực chất đạo Công Giáo và các đạo Chúa của Charlie Nguyễn
-Đức tin và lý trí của Trần văn Kha
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
* * * * * * * * * * * *
Bài này đã đăng trên trang nhà của Giao Điểm:
Địa chỉ: giaodiem.com trong tháng 01-2004
trang: nghiên cứu-đối thoại
Và Tạp Chí Giao Điểm số 52
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
* * * *
Nguyễn Hữu Ba