Sáng 21-2 (nhằm ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Ngọ), chư tôn đức Tăng Ni thiền viện Trúc Lâm Sùng Phúc (tổ 10, P.Cự Khối, Q.Long Biên, Hà Nội) long trọng tổ chức lễ giỗ Đệ tam Tổ Trúc Lâm - Tổ sư Huyền Quang và tưởng niệm Giác linh chư vị tôn đức Hòa thượng, Ni trưởng trong Tông môn tân viên tịch.
ĐĐ.Thích Tâm Thuần, trụ trì thiền viện đã cung tuyên tiểu sử và công hạnh của Đệ tam Tổ Trúc Lâm
Tại buổi lễ, ĐĐ.Thích Tâm Thuần, trụ trì thiền viện đã cung tuyên tiểu sử và công hạnh của Đệ tam Tổ Trúc Lâm, để chư Tăng Ni, Phật tử biết rõ công hạnh của Ngài và những đóng góp của Tổ đối với thiền phái Trúc Lâm và Phật giáo Việt Nam.
Buổi lễ cũng tưởng niệm chư vị tôn đức trong Tông môn tân viên tịch, gồm:
1. HT.Thích Phước Hảo, nguyên trụ trì thiền viện Chơn Không, viên tịch ngày 21-12-Quý Tỵ, trụ thế 85 năm, Hạ lạp 57 năm. Nhập tháp tại thiền viện Chân Không (Bà Rịa - Vũng Tàu). Là một trong mười vị tham gia khóa học thiền đầu tiên tại tu viện Chơn Không do Hòa thượng Tông sư thượng Thanh hạ Từ khởi lập;
2. HT.Thích Đắc Pháp, viện chủ thiền viện Sơn Thắng, viên tịch mùng 7 tháng Chạp năm Nhâm Thìn, trụ thế 75 năm, Hạ lạp 50 năm. Nhập tháp tại thiền viện Sơn Thắng (Long Hồ - Vĩnh Long). Là vị trưởng tử của Hòa thượng Tông sư thượng Thanh hạ Từ;
3. NT.Thích nữ Như Hạnh, trụ trì thiền viện Linh Chiếu, viên tịch mùng 3tháng Chạp năm Quý Tỵ, trụ thế 75 năm, Hạ lạp 45 năm. Nhập tháp tại thiền viện Linh Chiếu (Long Thành - Đồng Nai). Là vị trưởng tử Ni của Hòa thượng Tông sư thượng Thanh hạ Từ.
Chư Tăng Ni thuộc Thiền phái câu hội về lễ tưởng niệm
Nghi thức dâng trà cúng dường Giác linh tiền bối
Trong không khí trang nghiêm thanh tịnh, toàn thể chư tôn đức Tăng Ni Phật tử đạo tràng Trúc Lâm Sùng Phúc lắng lòng hướng về Đệ Tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang và Giác linh chư cố Hòa thượng, Ni trưởng. Qua đó quý thầy cũng sách tấn đại chúng học tập theo gương hạnh của Tổ sư, chư tôn đức luôn luôn tinh tấn tu hành, đi đúng theo Tông chỉ của thiền phái Trúc Lâm mà chư Tổ và Hòa thượng Tông sư đã chỉ dạy.
Kết thúc buổi lễ tưởng niệm, toàn thể đạo tràng đã cùng tọa thiền cúng dường Tổ và các vị cố Hòa thượng, Ni trưởng.
Đức Hiếu
Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334) (Tổ thứ ba phái Trúc Lâm) ________________________________________ Sư tên Lý Đạo Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà sư ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm sư sanh, một hôm thầy trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền sư Huệ Nghĩa, tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông vầy, Kim cang Long thần chật ních, Phật chỉ Tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi Đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa: Người mà vì đạo chớ tìm đâu Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu Mộng thấy điềm lành là ảnh hưởng Đời này ắt gặp bạn tâm đầu. (Nhân chi vị đạo khởi tha tầm Tâm tức Phật hề Phật tức tâm Tuệ địch kiết tường vi ảnh hưởng Thử sanh tất kiến hảo tri âm.) Thuở nhỏ Sư dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu dạy các học thuật. Sư học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274) đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy được hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ chối. Sư được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục. Một hôm, Sư theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quý mến, tự than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiên là cõi Phật. Sự giàu sang phú quý như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến?”. Sư mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang. Niên hiệu Hưng Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của Điều Ngự. Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ. Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người. Sư thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v... Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả. Ngày rằm tháng Giêng năm Quý Sửu (1313), vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây, lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi. Sư trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã sáu mươi tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Thị Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng Vua. Thị Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với vua. Vì thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt Thị Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện. Sau, Sư trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ tám mươi tuổi. Vua Trần Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm thiền sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang tôn giả. (thuongchieu.net)
|