Hôm ngày 22/11/ 2014 (ngày 1 tháng 9 Nhuận
năm Giáp Ngọ), Đại đức Thích Quảng Hợp cùng Phật tử lên Phân viện Nghiên cứu Phật
học, Chùa Quán Sứ, 73 phố Quán Sứ, Hà Nội
thỉnh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa trọn bộ - Tái bản, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm PL
2558 – DL 2014 về chùa làm lễ bạch Phật, khai kinh, nhiễu Phật cầu an. Đây là cuốn kinh Diệu Pháp Liên Hoa
do HT Thích Tuệ Hải dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, được tái bản mới nhất hiện
nay tại Việt Nam.
Đại đức Thích Quảng Hợp chụp ảnh lưu niệm cùng với Tổ Tuệ Bi chùa Quán Sứ
Như chúng ta đã biết Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa là bộ kinh trọng yếu của đạo Phật, với tư tưởng đại Thừa, Khai
tam hiển nhất, mục đích khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến, giúp chúng
sinh thoát khỏi sự chấp trước trở về với bản Tính vốn có của mình.
Nên vừa qua, tại trường hạ Tùng Lâm Quán Sứ đã
Khai giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa bản dịch do Hòa Thượng Thích Tuệ Hải, Nxb
Tôn giáo, năm PL 2548 – DL 2004. Bản dịch này dễ theo dõi vì lời văn gọn gàng, giản dị, xúc
tích, phù hợp với các tầng lớp lứa tuổi. Tuy nhiên, do kỹ thuật vi tính nên một số từ trong lời dịch, hồi hướng
sang từ khác dẫn tới khác
ý câu văn, ảnh hưởng tới
Phật tử sơ cơ học đạo. Thí dụ cùng một tác giả HT Thích Tuệ Hải dịch nhưng lần tái
bản vào năm 2004, Kinh diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn giáo trang 569 có câu ghi: “
Tường đẹp sáng ngời khôn xiết kể”. Câu này nếu cứ để chữ “ tường” thì
nghĩa không hợp với Kinh, ý đúng của nó là ca ngợi vẻ đẹp sáng ngời của Phật.
Do vậy phải dùng “ Tướng đẹp sáng ngời khôn xiết kể” thì phù hợp với
Kinh hơn.
Bản Hán Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do ngài
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch từ Phạn sang Hán có nói tới
khi Phật giảng Kinh này thì khi đó Phật đã khoảng 70 – 72 tuổi, và ghi: “迦樓羅聲” tức là tiếng Ca Lâu La[1].
Nhưng ở bản dịch của HT Thích Tuệ Hải tái bản lần thứ nhất vào năm 2004, ghi là
“tiếng Ca Lầu La”[2], từ
“lầu” là từ dịch nghĩa của từ “ Lâu”, ở đây danh từ Ca Lâu La là chỉ chim Ca
Lâu La nên để nguyên thì phù hợp hơn. Nên tái bản Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lần
này đã chỉnh được một số từ cho phù hợp với bản Kinh gốc Hán, cũng là phù hợp với
văn phong, cách tụng đọc phổ thông của Phật tử hơn. Nhờ tái bản lần này có cái mới nữa đã thêm vào các hình ảnh Phật Thích Ca
Mâu Ni Phật, Phật Di Lặc, Phật mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni, Dược sư lưu ly
Quang Vương Phật, Phật A Di Đà, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phật Đa Bảo. Các danh hiệu
Phật này gần gũi với đời thường, chúng ta thường đọc, niệm tên các Ngài cảm thấy
tâm không ngã mạn, hết phiền muộn, tăng từ bi, được bình an. Cái thú vị khi
nhìn thấy hình ảnh Đức Phật Thích Ca và hình ảnh Phật Đa Bảo ta lại nhớ thấy
chính hai vị Phật này đã ngồi chung cùng một tòa, chung một bảo tháp, minh chứng
sự hy hữu của Phật pháp, tùng địa dũng xuất ( từ tâm xuất hiện) của mỗi chúng
sinh trong chính Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Cái mới tiếp theo Ban biên tập đã
thêm phần Mục Lục để dễ bề theo dõi, nghiên cứu trang 581 – 582.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm
công đức của Pháp sư thứ 19, Phật nói: “Đại Bồ Tát Thường Tinh Tiến rằng:
Nếu có người thiện nam thiện nữ nào, thụ trì kinh Pháp Hoa này, dù là đọc tụng,
giải nói, viết chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức nơi mắt,một nghìn hai
trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức
nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý....
Dùng tai thanh tịnh ấy, nghe khắp tất cả ba nghìn đại thiên thế giới, dưới đến
địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh... tiếng Ca Lâu La”[3]. Đoạn này Phật nói tới công đức của người giảng
kinh Pháp Hoa, viết chép ( đồng nghĩa việc in ấn), đọc tụng, thì công đức của
người ấy rất lớn. Người giảng được đúng nghĩa, thụ trì, gìn giữ như ý Phật thì
tâm người đó phải thanh tịnh, hiền lành thực sự, tâm đã giác ngộ, và giải thoát
rồi. Việc đem những công đức ấy để trang nghiêm thân cũng đều là hiển nhiên theo
tự tính[4]
vốn có của nó.
Kinh Pháp Hoa được dâng lên bạch Phật tại chùa Hưng Sơn - Viêm Xá
Để
đóng góp cho việc hoằng pháp được tốt hơn, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa với tư tưởng
Đại thừa, “khai tam hiển nhất”( khai ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát
thành Phật Thừa), mục đích của Phật nói rõ trong khai thị chúng sinh ngộ nhập
Phật tri kiến, giúp chúng sinh thấy rõ Phật Tính trong tâm mỗi chúng ta. Để ủng hộ, và bảo vệ Tam Bảo, bảo vệ
Kinh Phật, người đó được bình an, vận hạn tai qua nạn khỏi, công việc hanh
thông.
Tổ Tuệ Bi chùa Quán Sứ đã không quản
ngại đã giáo hóa các Thiện nam tín nữ Phật tử, đã phát tâm để hoằng pháp bằng
cách in ấn tống Kinh Diệu Pháp Liên Hoa để làm Phật sự tới các tự viện, để thầy
trò trong các tự viện đó có điều kiện giảng kinh, tụng niệm, nghiên cứu liễu ý
kinh Phật hoằng pháp được sâu rộng, đem lại lợi ích cho chúng sinh mười phương.
Với tấm lòng nhiệt huyết của Tổ Tuệ Bi
Chùa Quán Sứ nhất tâm vì Phật pháp như thế. Với xu thế thời đại khoa học phát
triển như vũ bão, các Phật tử tiếp cận với khoa học, tu tập đọc tụng ngày càng
nhiều, tiếp nhận tinh thần Đại thừa rộng mở, thương yêu, giúp đỡ cùng tinh tấn.
Do vậy, Đại đức Thích Quảng Hợp rất cảm động, rất vui khi biết Phật tử hiểu cuộc
đời là vô thường ( không bền chắc, nay có mai không), quyết gắng học Phật tu tập
theo tinh thần Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đại đức nhất tâm cất công lên tận chùa
Quán Sứ thỉnh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa từ tổ Tuệ Bi Chùa Quán Sứ, Kinh này đã được
tái bản mới vào 4 tháng 09 năm 2014.
Tổ Tuệ Bi Chùa Quán Sứ dâng về chùa Cảm Ứng
núi Thiên Thai 30 cuốn, chùa Song Quỳnh thị trấn Gia Bình, huyện Gia Bình 50 cuốn,
chùa Hưng Sơn thôn Viêm Xá xã Hòa Long TP Bắc Ninh 100 cuốn.
Tại chùa Hưng Sơn thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, Đại đức Thích
Quảng Hợp cùng gần 200 Phật tử trong thôn Viêm Xá đã tu lễ hương, hoa, đăng,
trà, quả thực hiến cúng Phật, tác bạch Phật chứng minh công việc thỉnh kinh cầu
an này.
Nghi thức gồm, nguyện hương, sám hối tổng, bình tọa tụng lư hương các
chú, tâm kinh Bát Nhã, niệm Phật 7 tràng, nhiễu Phật ba vòng quanh chính điện chùa
Hưng Sơn. Sau đó đại đức đã giảng giải
thêm Kinh Pháp Hoa là do Phật Thích Ca
giảng tại núi Linh Thứu bên Ấn Độ, với tư tưởng Đại Thừa ( Khai tam hiển nhất),
giáo lý Duyên sinh, vô ngã, phá chấp phá ngã, độ cho các chúng sinh có duyên với
Phật, với chúng sinh nào, gột sạch thân, miệng, ý thanh tịnh khởi lòng tin Tam
Bảo, tin Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ngoài ra đại đức còn giải thích phương pháp tọa
Thiền như trong Kinh Pháp Hoa diễn tả Đức Thích Ca Thiền Định tam muội giúp các
Phật tử chùa Hưng Sơn biết ngồi Thiền kết hợp với niệm danh hiệu Nam mô Bản Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật liên tục, không gián đoạn, tránh niệm tà, dễ nhất tâm, an
lạc, giác ngộ mau hơn.
Chương trình thỉnh kinh làm lễ liêm hương bạch Phật, khai kinh nhiễu Phật cầu an, giải hạn, cầu vạn
sự như ý trong khoảng từ 12 giờ trưa tới 21 h 30 phút tối cùng ngày thành công viên mãn.
Thay mặt cho các Phật tử, chùa
Hưng Sơn xin gửi lời cảm ơn tới tổ Tuệ Bi Chùa Quán Sứ - Phân viện Nghiên cứu Phật học, các Phật tử, và các thí chủ phát tâm
tịnh tài góp phần vào công việc ấn tống, chỉnh sửa tái bản, thỉnh kinh làm Phật sự này. Nguyện
đem công đức này hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sinh. Đều trọn thành Phật
đạo.
Sau đây là một
số hình ảnh thỉnh kinh, bạch Phật, nhiễu Phật:
Đại đức Thích Quảng Hợp đang giảng Kinh Pháp Hoa
Phật tử xin lộc nhân ngày lễ khai kinh Pháp Hoa nhiễu Phật cầu bình an
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh./.
[2]
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thích
Tuệ Hải dịch ( 2004), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn giáo, trang 439
[3] Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Phân viện
nghiên cứu Phật học, HT Thích Tuệ Hải dich (2014), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Nxb Hồng Đức, tr.439 – 441.
[4] Tự tính vốn không sinh không diệt, không
có không không, bản lại diện mục của lục căn, công đức của chúng luôn vắng lặng,
thực thể vốn Không. Có được thế cần phải quán các pháp theo lý duyên sinh các
pháp là vô ngã.