Duy Thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc
y nơi cái biết (bỉ y thức sở biết).
Muôn sự muôn vật không tự hiện hữu, chỉ hiện
hữu khi đủ duyên, chỉ hiện hữu giữa mối quan hệ, lớp này lớp khác trùng trùng
vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả duy một, tất cả làm duyên cho một, một
duy tất cả. Do cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, cái
này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt. Như thế là duyên
khởi, y tha khởi. Trong đó nếu nói duy thì cái nào cũng duy được hết, duy sắc,
duy hương, duy vô minh, duy căn, duy trần v.v... như Cổ đức nói: "Nhất sắc
nhất hương, vô phi trung đạo". Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: "Tùy niêm
nhất pháp, giai thị pháp giới". (Bất cứ đưa ra một pháp nào, pháp đó đều
là pháp giới muôn pháp).
Thức là một trong hết thảy pháp, nhưng thức
có năng lực đặc biệt biết được cái khác và tự biết được mình, nó là chủ lực ở
ngay trong mỗi mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các pháp trong đồng
nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (
không trong không ngoài) nổi lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội chạy theo
giả tướng thiên hình vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo nó,
gây nên khổ đau.
Lại, "Duy có nghĩa là giản biệt, ngăn
không có ngoại cảnh; Thức có nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội tâm".
Nói Duy thức chính là đưa ra lời khai thị,
thức tỉnh người ta hãy tự giác, hãy quán tâm mình, nhìn lại cái năng lực thiên
biến vạn hóa ở ngay trong mình để gạn lọc nó, trau dồi nó, sửa chữa nó phải
biến hóa như thế nào để chỉ đem lại lợi lạc, chứ đừng gây ra đau khổ.
Ðến khi đã chuyển được tám thức thành bốn
trí, sáng suốt hoàn toàn, lý trí nhất như, sắc tâm bất nhị, không còn lấy sắc
làm sắc, lấy tâm làm tâm, được tự tại không còn vướng mắc, sợ hãi, thì bấy giờ
không cần duy, không cần thức, hay cần duy gì cũng được, vô ngại.
Lý Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở
các kinh, Bồ tát Thế Thân dùng lý đó viết thành luận, đó là do Lý thành Giáo,
nên gọi là Thành Duy thức. Ngược lại cũng chính do luận của ngài Thế Thân mà lý
Duy thức được phát huy thành lập, đó là do Giáo thành Lý, nên gọi là Thành Duy
thức. Lại mười vị Ðại luận sư giải thích văn 30 bài tụng Duy thức của ngài Thế
Thân tạo thành bộ luận Duy thức. Ðó là do Giáo thành Giáo, nên gọi là Thành Duy
thức.
Thành Duy thức cũng gọi là Tịnh Duy thức, vì
bộ luận này giảng giải rõ ràng rốt ráo đạo lý Duy thức.
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang sau khi du học Ấn Ðộ mang về Trung Hoa (602 –
644), rút lấy lời giải của mười vị Ðại luận sư dồn lại và dịch ra thành bộ luận
Thành Duy Thức mười cuốn, lưu truyền đến nay.