Như vậy đã nói thức năng biến thứ hai. Thức
năng biến thứ ba, tướng nó thế nào?
Tụng nói:
Thức năng biến thứ ba,
Sai biệt có sáu thức,
Tánh tướng là biệt cảnh,
Thiện, bất thiện, vô ký.
Luận rằng: "Tiếp theo thức tư lường
năng biến thứ hai, nên hiện rõ tướng của thức liễu cảnh năng biến.
Thức này sai biệt tóm có sáu thứ, tùy theo
sáu căn, sáu cảnh, chủng loại khác nhau, đó gọi là nhãn thức cho đến ý thức,
tùy theo căn mà đặt tên.
Căn đủ có năm nghĩa, đó là y căn, phát căn,
thuộc căn, trợ căn, như căn. Tuy sáu thức đều nương Mạt na ý mà sanh khởi,
nhưng thức thứ sáu theo chỗ nương riêng của nó là Mạt na ý mà đặt tên là Ý
thức, ví như năm thức, không bị lỗi xen lạm. Hoặc nó chỉ nương nơi Ý cho nên
gọi là Ý thức. Ðây là biện biệt sáu thức nương sáu căn mà đặt tên, còn tâm thứ
tám, ý thứ bảy thì không theo lệ này.
Hoặc gọi là sắc thức cho đến pháp thức, đó
là theo cảnh đặt tên thuận với thức. Nghĩa là đối với sáu cảnh, liễu biệt gọi
là thức. Năm thức là sắc thức, thanh thức v.v... thì chỉ liễu biệt sắc cảnh,
thanh cảnh v.v... còn pháp thức thì liễu biệt khắp tất cả pháp. Hoặc vì Ý thức
liễu biệt pháp, nên gọi là Pháp thức. Cho nên tên gọi sáu thức, không bị lỗi
xen lạm. Trước là theo căn mà đặt tên sáu thức, còn sau đây là theo cảnh mà đặt
tên sáu thức, đều là dựa nơi năm sắc căn khi chưa được tự tại mà nói, Nếu khi
được tự tại thì các căn dùng chung lẫn nhau, một căn phát sanh thức duyên được
tất cả cảnh, nhưng vẫn tùy theo căn mà gọi tên thì không có lỗi xen lạm.
Luận Trang Nghiêm nói: "Năm căn của đức
Như Lai, mỗi căn đều duyên đủ năm cảnh". Ðây là theo cảnh đồng loại (tánh
cảnh) thô hiển (năm trần) mà nói (ý nói năm trần thô hiển cách ngại mà một căn
phát thức còn duyên được cả, huống pháp trần vô hình mà không duyên được).
Kinh Phật Ðịa nói: "Trí thành sở tác của Phật quyết trạch được tâm hạnh
sai biệt của hữu tình để khởi lên ba nghiệp giáo hóa và bốn thứ ký đáp".
Nếu năm căn của Phật không duyên cùng khắp thì không có khả năng ấy.
- Nhưng căn sở y và cảnh sở duyên của sáu
chuyển thức thô hiển dễ thấy rõ, cho nên ở đây không nói. Trước đây theo nghĩa
thuận tiện đã nói căn sở y, còn nghĩa của cảnh sở duyên khi gặp nghĩa thuận
tiện sẽ nói.
- Câu tụng thứ hai nói "Tánh tướng là
biệt cảnh", là hiển thị cả tự tánh và hành tướng của sáu thức. Sáu thức
lấy sự liễu biệt cảnh làm tự tánh, cũng lại dùng sự liễu biệt cảnh làm hành
tướng. Do đó câu tụng giải thích chung cả hai tên, vì nó liễu biệt cảnh nên gọi
là thức. Như Khế kinh nói: "Nhãn thức thế nào? Ðó là thức nương nhãn căn
liễu biệt các sắc. Nói rộng cho đến ý thức thế nào? Ðó là thức nương nơi ý căn
liễu biệt các pháp."
Kinh kia chỉ nói chỗ nương riêng của sáu
thức với kiến phần và cảnh sở duyên của nó, khi ở địa vị chưa chuyển y, còn khi
ở địa vị đã chuyển y thì căn sở y và cảnh sở liễu của sáu thức chung thông như
trước đã nói.
- Sáu chuyển thức này nhiếp thuộc về tánh
nào?
Nhiếp thuộc cả ba tánh là thiện, bất thiện
và câu phi. Câu phi tức là vô ký, chẳng phải thiện và bất thiện.
Khả năng làm cho thuận lẽ phải và có lợi ích
đời này, đời sau thì gọi là thiện; còn lạc quả của nó ở cõi Người, cõi Trời,
tuy thuận lẽ phải và có lợi ích đời này nhưng không phải lợi ích đời sau, nên
không gọi là thiện. Khả năng làm trái lẽ phải và tổn hại đời này, đời sau thì
gọi là bất thiệ; còn khổ quả của nó ở cõi ác tuy trái lẽ phải và tổn hại đời
này, nhưng không phải tổn hại đời sau, nên không phải bất thiện. Lưng chừng ở
giũa thiện, bất thiện, lợi ích và tổn hại không rõ ràng, thì gọi là vô
ký.
Sáu chuyển thức này nếu tương ưng với mười
một pháp như Tín, Tàm, Qúy v.v... thì nhiếp thuộc tánh thiện, nếu tương ưng với
mười pháp như Vô tàm, Vô quý v.v... là nhiếp thuộc về tánh bất thiện. Còn không
tương ưng với cả hai thứ trên là nhiếp thuộc về tánh vô ký.
- Có ý kiến cho rằng ba tánh của sáu thức
không khởi đồng khởi, vì sáu thức đồng chuyển hướng ra bên ngoài, ba tánh
thường trái nhau; vì năm thức phải do ý thức đạo dẫn, đồng thời sanh khởi, đồng
duyên theo cảnh, mới thành thiện hoặc nhiễm.. Nếu chấp nhận năm thức có đủ ba
tánh cùng hiện hành, vậy thời lúc bấy giờ ngũ câu ý thức cũng phải thông cả ba
tánh, bèn trái chánh lý. Cho nên quyết định ba tánh không cùng khởi một lần.
Nhưng luận Du già v.v... nói: " Tạng
thức một lúc cùng với các chuyển thức tương ưng cả ba tánh mà nhất thời khởi
lên", nhất thời đây là dựa theo nghĩa thức trải qua nhiều niệm mà nói. Như
nói "nhất tâm", không phải là nói chỉ trong một lần sanh diệt, nên
không có lỗi trái nhau.
- Có ý kiến cho rằng sáu thức đều có đủ ba
tánh, vì năm thức suất nhĩ và đẳng lưu hoặc nhiều hoặc ít cùng khởi lên. Lại
năm thức và ý thức tuy cùng sanh khởi, nhưng tánh thiện, ác không hẳn đồng
nhau. Trên kia cật nạn nói: "Năm thức phải do ý thức đạo dẫn" đến đây
trở thành uổng công. Cho nên luận Du già nói như người nhập định, khi gặp duyên
của tiếng khánh mà ra định, đó là nhĩ thức với thiện ý thức có định tương ưng
cùng khởi lên, chứ không phải chỉ một mình ý thức tương ưng với định kia mà có
thể tiếp nhận được tiếng khánh đó. Nếu không có nhĩ thức, thì đối với âm thanh
này một mình ý thức không lãnh thọ được, không thể xuất định cũng không phải
khi tiếp nhận âm thanh là xuất định ngay. Sau khi lãnh thọ âm thanh rồi, nếu có
hy vọng, sau đó mới xuất định.
Khi ở trong định, nhĩ thức suất nhĩ nghe âm
thanh, đó chẳng phải thiện. Vì khi chưa chuyển y, dù tâm suất nhĩ, tâm ấy chỉ
là vô ký.
Do đó chứng minh ngũ câu ý thức không nhất
định là đồng tánh thiện với năm thức. Các chỗ khác chỉ nói: Ngũ câu ý thức cũng
duyên năm cảnh như năm thức, như không nói đồng nhau.
Luận Tạp Tập nói: "Trong địa vị đẳng
dẫn (định) không có năm thức". Ðó là y theo đa phần ở trong định mà nói.
Nếu trong năm thức có ba tánh đồng khởi, ý
thức theo năm thức đó chuyên chú về cảnh nào thì ý thức cùng với năm thức đồng
tánh đó. Còn không chuyên chú thì là tánh vô ký. Cho nên biết sáu chuyển thức
có đủ ba tánh (như nhãn thức duyên tượng Phật, là thiện, nhìn hoa mà tham là
bất thiện tánh).
khi được địa vị tự tại thì nhiếp thuộc về
tánh thiện, vì Phật sắc (tướng hảo công đức), Phật tâm (bốn trí) nhiếp về Ðạo
đế (không có bất thiện), đã trừ sạch chủng tử hý luận (chẳng phải vô ký).(32)
- Sáu thức tương ưng với bao nhiêu tâm sở?
Tụng rằng:
Ðây tâm sở Biến hành,
Biệt cảnh, Thiện, Phiền não.
Tùy phiền não, Bất định,
Ðều tương ưng ba thọ.
Luận rằng: "Sáu chuyển thức này chung
cùng tương ưng với sáu vị Tâm sở". Ðó là năm Biến hành, năm Biệt cảnh,
mười một thiện, sáu căn bản phiền não, hai mươi Tùy phiền não, bốn Bất định.
Thường nương tâm khởi, tương ưng với tâm, hệ
thuộc theo tâm, cho nên gọi là Tâm sở. Như vật gì thuộc của ta, gọi là ngã sở.
Tâm đối với cảnh sở duyên chỉ nhận lấy tướng
chung, Tâm sở còn nhận lấy tướng riêng, giúp thành việc của tâm, nên được gọi
là Tâm sở. Như thầy trò thợ vẽ, thầy làm mô hình trò tô màu sắc. Cho nên luận
Du già nói: "Thức" có khả năng liễu biệt tướng chung của sự vật.
Tác ý có khả năng liễu biệt các tướng, chưa
liễu biệt đó của thức Tâm vương, tức có nghĩa các Tâm sở nhận biết tướng riêng.
Xúc có khả năng liễu biệt các tướng khả ý
v.v... đó của thức Tâm vương.
Thọ có khả năng liễu biệt các tướng nhiếp
thọ đó của thức Tâm vương.
Tướng có khả năng liễu biệt các tướng nhiếp
thọ đó của thức Tâm vương.
Tưởng có khả năng liễu biệt tướng nhân của
ngôn thuyết (ngôn thuyết nhân) đó của thức Tâm vương.
Tư có khả năng liễu biệt các tướng chánh nhân đó củ thức Tâm vương.
Cho nên tác ý, xúc v.v... gọi là Tâm sở
pháp. Chữ "đó" là biểu thị Tâm sở cũng duyên tướng chung đó của Tâm
vương (chứ không phải chỉ duyên tướng riêng mà thôi).
Chỗ khác lại nói "Dục" cũng có khả
năng liễu biệt tướng của các việc khả lạc của thức Tâm vương.
Thắng giải cũng có khả năng liễu biệt tướng của các việc đã quyết định của thức
Tâm vương.
Niệm cũng có khả năng liễu biệt tướng của
các việc đã tập quen của thức Tâm vương.
Ðịnh, tuệ cũng có khả năng liễu tướng của
các việc đắc, thất của thức Tâm vương.
Do thế mới có thể đối với cảnh khởi lên các Tâm sở thiện hoặc nhiễm, và đối với
cảnh duyên cũng đều nhận biết được tướng riêng.
Tuy các Tâm sở có danh và nghĩa không khác,
nhưng theo chủng loại sai biệt chia làm sáu vị, là: Biến hành có năm, Biệt cảnh
có năm, Thiện có mười một, Phiền não có sáu, Tùy phiền não có hai mươi, Bất
định có bốn. Như vậy sáu vị cộng là 51 Tâm sở.
Trong tất cả tâm đều có, nên gọi là tâm sở
Biến hành.
Duyên riêng mỗi cảnh mà sanh khởi, nên gọi
là tâm sở Biệt cảnh.
Chỉ trong thiện tâm mới có sanh khởi, nên
gọi là tâm sở Thiện.
Tánh nhiếp thuộc về phiền não căn bản, nên
gọi là tâm sở Phiền não.
Chỉ là tánh đẳng lưu của phiền não căn bản,
nên gọi là tâm sở Tùy phiền não.
Thiện hay nhiễm ô không rõ rệt nhất định,
nên gọi là tâm sở Bất định.
Nhưng luận Du già hợp sáu vị làm năm, vì
Phiền não và Tùy phiền não chung lại đều là nhiễm.
Lại dùng bốn món nhất thiết để biện biệt năm
vị sai khác. Bốn nhất thiết là nhất thiết tánh (thiện, ác, vô ký) nhất thiết
địa (ba cõi, chín địa), nhất thiết thời (hữu tâm vô tâm, hữu lậu, vô lậu), nhất
thiết câu (tám Tâm vương). Trong năm vị, Biến hành đủ cả bốn nhất thiết. Biệt
cảnh chỉ có hai nhất thiết đầu. Thiện chỉ có một, đó là nhất thiết địa. Nhiễm
thì không có bốn nhất thiết, Bất định chỉ có một, đó là nhất thiết tánh. Do đó
năm vị có chủng loại sai khác.
- Sáu chuyển thức này thay đổi không định
cho nên có thể tương ưng với cả ba thọ. Vì sáu thức đều có thể lãnh thọ cảnh
thuận, nghịch và câu phi. Khi lãnh nạp tướng của cảnh thuận hợp làm vui thích
thân tâm thì gọi là lạc thọ. Lãnh nạp tướng của cảnh trái nghịch làm bức bách
thân tâm thì gọi là khổ thọ. Lãnh nạp tướng của cảnh trung dung đối với thân
tâm không khổ không vui, thì gọi là bất khổ, bất lạc thọ.]
Ba thọ như thế hoặc mỗi thứ chia hai: Thọ
tương ưng với năm thức, gọi là thân thọ, vì nó nương riêng nơi thân. Thọ tương
ưng với ý thức, gọi là tâm thọ, vì nó chỉ nương nơi tâm.
- Lại ba thọ đều thông cả hữu lậu vô lậu. Khổ thọ cũng do vô lậu khởi (Khi tu
vô lậu đạo trải qua gian khó cũng cảm thọ khổ).
Hoặc ba thọ mỗi thứ chia làm ba: Là kiến sở
đoạn (thọ tương ưng với phân biệt hoặc), tu sở đoạn, (thọ tương ưng với câu
sanh hoặc), phi sở đoạn (thọ tương ưng với vô lậu).
Lại Học, Vô học, và chẳng phải hai, là ba.
Hoặc chung cả ba thọ lại chia làm bốn tánh,
đó là tánh thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký.
- Có ý kiến cho rằng cả ba thọ, mỗi thọ đều
chia làm bốn tánh. Vì Tham, Si tâm sở nhậm vận cùng với năm thức trước đồng
khởi lên và phiền não nhậm vận khởi nhưng không phát ác nghiệp của trong cõi
thuần khổ, là thuộc tánh hữu phú vô ký. Và tánh hữu phú vô ký đó đều tương ưng
với khổ thọ căn.
- Luận Du già nói: "Nếu tất cả phiền
não nhậm vận sanh thì đều đủ cả ba thọ hiện hành. Nếu phiền não ấy thông với
sáu thức trước thì nó tương ưng khắp cả ba thọ trong tất cả thức thân. Nếu
không thông tất cả thức thân, thì phiền não ấy chỉ tương ưng với tất cả ba thọ
căn nơi ý địa (ý thức)".
Luận Tạp Tập nói: "Nếu những phiền não
hệ thuộc Dục giới mà nhậm vận sanh ác hành, thì nó cũng là bất thiện. Còn những
phiền não không phát sanh ác hành, thì nó là hữu phú vô ký". Cho nên biết
ba thọ, khổ, lạc, xả đều đủ cả bốn tánh thiện, ác, hữu phú vô ký, vô phú vô ký.
Hoặc chung cả chia làm năm thọ là khổ, lạc,
ưu, hỷ, xả. Trong ba thọ khổ lạc, xả riêng khổ và lạc thọ mỗi thứ lại chia hai;
vì tướng vui, tướng khổ nơi thân và nơi tâm khác nhau, và do không phân biệt
(xả, lạc) có phân biệt (ưu, khổ) rất nặng (khổ, lạc) và rất nhẹ (ưu, hỷ) sai
khác. Còn bất khổ bất lạc thọ không chia hai vì không có tướng khổ bức thân
tâm, tướng vui thích thân tâm sai khác, vì bình đẳng vô phân biệt.
Những sự cảm thọ vui thích tương ưng với năm
thức, thì thường gọi là lạc thọ; còn tương ưng với Ý thức, nếu là ở cõi Dục, Sơ
Thiền, và Nhị Thiền cận phần thì gọi là hỷ, vì chỉ là vui tại tâm. Nếu ở Sơ
Thiền và Nhị Thiền căn bản định thì gọi là lạc và hỷ, vì sự vui ở cả thân và
tâm. Nếu ở tại đệ Tam Thiền cận phần và căn bản định thì gọi là lạc, vì ở đây
sự an tịnh rất lớn, không có phân biệt.
Những sự cảm thọ bức bách tương ưng với năm
thức, thường được gọi là khổ; còn nếu tương ưng với Ý thức, có ý kiến cho chỉ
gọi là ưu, vì nó chỉ bức bách tâm. Vì các Thánh giáo nói sự thọ lo buồn của Ý
thì gọi là ưu căn.
Luận Du già nói: "Loài huân tập sanh
trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn, có Dị thục sanh, có khổ và ưu
tiên liên tục không dứt. Lại nói: "Ở địa ngục có tâm tư ưu (tức sự ư ở ý).
Một phần ngạ quỷ và bàng sanh cũng thế". Cho nên biết ở ý thức có cái thọ
lo buồn rất nặng, còn gọi là ưu huống gì các sự bức bách nhẹ khác.
Có ý kiến cho rằng Ý thức thông cả hai thọ
là ưu và khổ. Ở trong loài Người, loài Trời thì thường gọi là ưu, vì sự bức
bách không phải quá nặng. Ở loài bàng sanh, ngạ quỷ mới gọi là ưu và khổ, vì
một đàng tạp thọ, một đàng thuần thọ có khinh có trọng khác nhau.
Ở trong Nại lạc ca (địa ngục) chỉ gọi là
khổ, vì thuần thọ khổ rất nặng, không thể phân biệt được.
- Luận Du già nói: "Nếu tất cả phiền
não nhậm vận sanh thì có đủ ba thọ khổ, lạc, xả hiện hành". Nói rộng như
trước.
- Lại nói phiền não Tát ca gia kiến câu sanh
(thân ngã kiến) chỉ có tánh hữu phú vô ký. Biên chấp kiến nên biết cũng thế.
Nên tương ưng với khổ thọ thì chỉ nhiếp về khổ căn không phải nhiếp về ưu căn,
vì Luận nói ưu căn chẳng phải là vô ký.
- Lại luận Du già nói: "Hữu tình trong
địa ngục có đủ các căn, ngoài ra quyết định không thành tựu được có ba thọ căn
hiện hành. Trong cõi ngạ quỷ, bàng sanh thuần khổ cũng thế". Ba thọ căn
nói đây là lạc, hỷ, ưu căn. Vì ở địa ngục kia quyết chắc có xả thọ hiện hành,
không phải nói không có xả thọ ở trong địa ngục. Ðã không biết văn luận Du già
chỉ nói có xả thọ thì không nên nói ở địa ngục chắc thành tựu ý căn, vì Luận
chấp nhận ở địa ngục sáu thức kia có lúc không có.
Không nên cho Luận kia chỉ nói xả thọ, mà
còn nói chung cả các căn, vì không có nhân chi khác để chỉ nói có xả thọ. Lại
nếu Luận kia y nơi xả thọ mà nói, thì tại sao còn nói ở dịa ngục định thành tựu
tám thọ căn?
Nếu bảo năm thức trước không tương tục nên
quyết định nói ưu căn là căn thứ tám. Nhưng ở địa vị khi chết, khi sanh, và khi
muộn tuyệt thì đâu có ưu căn?
Có người cho khổ căn là chỉ căn thứ tám, thì
bị phá đồng như đây.
Giả sử chấp ở địa ngục có một hình thể (tức
nam, nữ căn) là căn thứ tám, cũng không đúng lý; vì thân hình ở địa ngục bất
định; vì ở địa ngục do ác nghiệp chiêu cảm, không thể có hình (tức nam, nữ
căn); vì ở đó do ác nghiệp khiến cho năm căn luôn thường thọ khổ. Cho nên ở đó
có nhãn căn v.v... thì nó đối với một hình thể (tức nam, nữ căn) đâu có tác
dụng gì. Không thể nào ở trong đại địa ngục Vô gián mà có thể có sự mong cầu
việc dâm dục.
Do đó căn thứ tám nói đây quyết định chỉ cho
xả căn, vì đệ thất, đệ bát hai thức có xả căn tương ưng vậy. Như ở chỗ rất vui,
Ý thức vui thích gọi là lạc, không có hỷ căn. Cho nên ở chỗ rất khổ như địa
ngục, Ý thức bị bức bách gọi là khổ, không có ưu căn. Cho nên nói chữ
"ngoài ra còn ba căn" là chỉ cho ba căn ưu, hỷ, lạc (không có ở địa
ngục).
- Có chỗ khác nói: "Ở địa ngục có cái
vui đẳng lưu". Nên biết câu nói đó là y theo mặt lý tùy chuyển (chuyển lý
Ðại thừa mà nói lý Tiểu thừa) mà nói. Hoặc kia nói chung về chỗ có sự thọ khổ
vui lẫn lộn. Vì ở đó không có Dị thục lạc, gọi à thuần khổ.
Nhưng trong Thánh giáo nói: "Sự cảm thọ
lo buồn ở ý thức gọi là ưu căn", đây là y theo đa phần mà nói, hoặc y theo
mặt lý tùy chuyển mà nói, nên không có lỗi trái nhau.
- Luận Du già nói: "Các loài hữu tình
sanh trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn mà có Dị thục sanh với sự thọ
khổ, ưu tương tục không dứt". Lại nói: "Ở địa ngục có tầm, tứ, ưu cùng
khởi, một phần ngạ quỷ bàng sanh cũng thế". Ðây cũng là y theo mặt lý tùy
chuyển mà nói. Lại nói: "Khổ căn tương ưng với ý thức đó là cùng một loại
ưu với các cõi kia mà giả nói là ưu. Hoặc khổ căn kia tổn hại thân tâm, nên tuy
nó nhiếp thuộc khổ căn mà cũng gọi là ưu. Như hỷ ở cận phần định vì lợi ích cho
thân tâm nên tuy nó là hỷ căn mà cũng gọi là lạc".
Luận Hiển Dương đều hiển bày nghĩa này,
nhưng ở "vị chí địa", quyết định không có lạc căn. Vì nói ở đó chỉ có
21 căn vậy (chứ không có đủ 22 căn là nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý, khổ ,lạc, ưu,
hỷ, xả, nam căn, nữ căn, mạng căn, tín, tấn, niệm, định, tuệ, vị trí, đương
tri, dĩ tri, cụ tri).
Do đó nên biết sự cảm thọ lo buồn nơi ý mà ở
chỗ thuần thọ khổ, cũng nhiếp về khổ căn.
Những Thánh giáo như thế có nhiều cách nói
khác nhau, sợ dài dòng nên không thuật hết.
- Có ý kiến cho rằng sáu thức không tương
ưng ba thọ khổ, lạc, xả. Vì nó hướng ra bên ngoài duyên cảnh hay chống trái
nhau. Ngũ cây ý thức đồng duyên một cảnh với năm thức trước. Năm thức trước tương
ưng ba thọ, thì Ý thức cũng vậy. nói thế là trái chánh lý. Cho nên sáu thức
chắc không tương ưng cả ba thọ.
Luận Du già nói: "Tạng thức một lúc
cùng với chuyển thức tương ưng ba thọ cùng sanh khởi". Ðây là y theo nhiều
niệm mà nói. Như nói "nhất tâm" không phải là chỉ nói tâm một lần
sanh diệt, nên không có lỗi trái nhau.
- Có ý kiến cho rằng sáu thức tương ưng với
ba thọ. Trong ba cảnh thuận, nghịch, trung dung đều có cảm thọ.
Ý thức không nhất định cùng năm thức đồng
cảm thọ, khi nó chuyên chú cảnh nào thì cảm thọ theo cảnh đó; còn không chuyên
chú thì khởi xả thọ. Do đó sáu thức có đủ ba thọ. Khi ở địa vị đắc tự tại thì
chỉ có lạc, hỷ, xả, vì các đức Phật đã dứt hết việc ưu và khổ.
- Trước đã lược nêu sáu vị Tâm sở, nay nên
nói rõ tướng sai khác của các Tâm sở ấy.
Hai vị tâm sở Biến hành và Biệt cảnh đầu,
tướng nó thế nào?
Tụng rằng:
Trước là Biến hành: Xúc v.v...
Tiếp là Biệt cảnh: Dục,
Thắng giải, Niệm, Ðịnh, Tuệ.
Cảnh sở duyên không đồng.
Luận rằng: Trong sáu vị Tâm sở, vị đầu tiên
là Biến hành tâm sở tức là năm thứ xúc, tác, ý v.v... như trước đã nói rộng.
Nên biết tướng của Biến hành này thế nào? Do
giáo và lý làm định lượng để biết.
Trong đây về "giáo" là, như Khế
kinh nói: "Nhãn và sắc làm duyên sanh ra nhãn thức. Ba thứ đó hòa hợp lại
là "xúc", cũng sanh theo xúc có "thọ", "tưởng",
"tư" cho đến nói rộng". Do xúc ấy v.v... biến khắp bốn thứ nên
gọi là Biến hành.
Lại Khế kinh nói: "Nếu căn không hư
hoại và cảnh giới hiện tiền, ngay lúc tác ý khởi lên, mới sanh ra thức".
Các kinh khác lại nói: "Nếu lại ở nơi cảnh đó khởi tác ý thì chính ở đó có
liễu biệt thì chính ở đó tác ý. Cho nên hai thứ tác ý và liễu biệt đó thường
chung hòa hợp, cho đến nói rộng". Do đó tác ý cũng là Biến hành.
Những "Thánh giáo" như thế, làm
chứng không ít.
Còn về "lý" là, khi thức khởi phải
có ba sự hòa hợp, do ba hòa hợp đó quyết định sanh ra "Xúc" mà ba sự
hòa hợp lại phải do xúc mới có. Nếu không có xúc thì Tâm và Tâm sở pháp không
thể hòa hợp nơi một cảnh.
Tác ý có khả năng dẫn tâm khiến đi đến cảnh
của chính nó. Nếu không có tác ý, thì tâm không thể có.
Thọ có khả năng lãnh nạp cảnh thuận, nghịch,
trung dung, khiến tâm khởi lên tướng vui, lo và xả, vì không khi nào tâm khởi
lên mà lại không tùy theo một tướng nào trong đó.
Tưởng có khả năng an lập phần hạn ranh giới
của tự cảnh, nếu khi tâm khởi lên mà không có "tưởng" này thì không
thể nắm được phần ranh giới của cảnh.
Tư có khả năng khiến tâm nằm tướng chánh
nhân, tà nhân, tạo tác nghiệp thiện ác. Không khi nào ở địa vị có tâm khởi lên
mà không theo một nghiệp, cho nên phải có "Tư".
Do đó chứng biết năm pháp xúc, tác,ý v.v...
hễ tâm khởi lên là có nó, nên gọi nó là Biến hành. Ngoài ra, không phải Biến
hành, khi gặp đến nghĩa ấy sẽ nói:
- Tiếp đến, Biệt cảnh tâm sở là
"Dục" .. "Tuệ". Vì cảnh sở duyên của nó phần nhiều không
giống nhau, nên trong sáu vị tâm sở, nó được nối tiếp theo vị tâm sở Biến hành
thứ nhất.
Dục là thế nào? Là tánh hy vọng đối với cảnh
vui, va có nghiệp dụng làm chỗ nương cho "cần" (siêng năng).
- Có ý kiến cho rằng được vui là cảnh đáng
ưa thích, đối với việc đáng ưa thích có hy vọng thấy muốn nghe.
Hỏi: Ðối với việc đáng chán thì chỉ muốn nó đừng
hợp lại, hy vọng nó xa ra mà đừng hợp lại, là riêng có tự thể của sự hân thích
hợp lại chứ không phải hy cầu việc đáng chán mà khởi hy vọng. Cho nên nơi cảnh
đáng chán và cảnh trung dung không ưa, không chán, thì chỉ một bề không dục.
Vậy khi duyên việc đáng ưa thích, nếu không hy vọng thì cũng không có tâm dục
khởi hay sao?
- Có ý kiến cho rằng được vui là đối với
cảnh có sự cầu mong. Với việc đáng thích thì mong hợp, với việc đáng chán thì
mong lìa, đều có sự hy vọng; còn đối với cảnh trung dung thì chỉ một mực không
dục (không mong muốn). Khi duyên việc đáng ưa, đáng chán, nếu không mong cầu,
thì cũng không có dục khởi.
- Có ý kiến cho rằng được vui là muốn quán
sát cảnh. Ðối với việc nếu muốn quán sát thì có mong cầu, nếu không muốn quán
sát, thì cứ tùy theo nơi tình thế của cảnh mà nhậm vận duyên, tức hoàn toàn
không dục (không mong cầu). Do lý lẽ ấy mà Dục không phải là tâm sở Biến hành.
- Có thuyết cho rằng phải do năng lực của
cảnh hy vọng, các Tâm, Tâm sở mới tiếp nhận cảnh. Cho nên kinh nói: "Dục
là gốc các pháp" (nên Dục là tâm sở Biến hành).
- Kia nói thế không đúng. Tâm tiếp nhận cảnh
là do tác ý, vì các Thánh giáo nói: "Khi tác ý hiện tiền thì sanh ra các
thức", chứ chưa từng có chỗ nào nói: "Dục sanh ra Tâm, Tâm sở".
Như nói: "Dục là gốc của các pháp", là ý muốn nói từ Dục mới khởi tạo
các sự nghiệp. Hoặc nói thiện dục thì phát sanh chánh cần, do đó giúp thành mọi
việc thiện. Cho nên luận nói "Dục" có công dụng làm chỗ nương cho
"Cần".
Thắng giải là thế nào? Là tánh tin tưởng ấn
trì đối với cảnh đã quyết định, và có nghiệp dụng không thể bị lôi kéo lay
chuyển. Nghĩa là do sức chứng minh của giáo lý hoặc tà hoặc chánh mà đối với
cảnh nhận biết, thẩm định, quyết đoán, ấn trì, không bị duyên gì khác lôi kéo
lay chuyển. Cho nên nếu đối với cảnh đang do dự, thì hoàn toàn không có thắng
giải. Tâm không thẩm định, quyết đoán thì không có thắng giải. Do đó thắng giải
không nhiếp vào tâm sở Biến hành.
- Có thuyết cho rằng khi Tâm nắm bắt tự cảnh không câu chấp chướng ngại, thì
đều có thắng giải.
Kia nó phi lý. Vì sao? Vì không làm chướng ngại đó chính là các pháp, không bị
chướng ngại đó chính là các tâm; còn làm duyên tăng thắng cho Tâm và Tâm sở
phát khởi, thì đó là căn và tác ý. Nếu do thắng giải mà duyên tăng thắng phát
khởi, thì thắng giải đó lại phải đợi có cái duyên khác mới phát khởi, bèn mắc
phải lỗi vô cùng.
Niệm là thế nào? Là tính khiến Tâm ghi nhớ
rõ ràng không quên đối với việc đã từng tập quen, và có nghiệp dụng làm chỗ
nương cho định. Nghĩa là thường ghi nhớ việc đã tiếp thọ không để quên mất, nhờ
đó dẫn đến định. Còn đối với thể loại cảnh chưa từng tiếp thọ mà không thể nhớ
rõ thì niệm cũng không sanh. Cho nên niệm không nhiếp vào tâm sở Biến hành.
- Có thuyết cho rằng khi Tâm khởi lên là có
niệm cùng khởi, làm nhân cho sự ghi nhớ về sau. – Nói thế không đúng. Vì không
thể trước có si hoặc tín v.v... cùng khởi với Tâm làm nhân rồi sau mới có si,
tín. nhưng do Tâm, Tâm sở lúc trước hoặc do thế lực của tưởng cũng đủ để làm
nhân cho sự ghi nhớ lúc sau.
Ðịnh là thế nào? là tính đối với cảnh sở
quán làm cho Tâm chuyên chú không tán loạn và có nghiệp dụng làm chỗ nương cho
trí. Nghĩa là quán cảnh được, mất, trung dung, nhờ định khiến tâm chuyên chú
vào cảnh đó không tán loạn. Nương nơi đó bèn có trí lựa chọn phát sanh. Nói
"tâm chuyên chú" là hiển thị tâm muốn trụ ở đâu thì liền trụ được,
chứ không phải chỉ trụ duy nhất một cảnh. Nếu không thể, ở địa vị kiến đạo quán
khắp các đế lý cõi trên cõi dưới cảnh trước sau khác nhau, thì không thể có
đẳng trì (định). Nếu không buộc tâm chuyên chú vào cảnh thì định không khởi
được, cho nên định không phải tâm sở Biến hành.
- Có thuyết cho rằng, khi nó không buộc tâm
chuyên chú vào cảnh cũng có định khởi, chỉ vì tướng nó vi ẩn khó thấy Nên nó là
tâm sở Biến hành). – Nên nói lời đúng thật rằng, nên bảo định có thể khiến cho
Tâm và Tâm sở hòa hợp đồng hướng đến một cảnh, mà cho đó là Biến hành, cũng
không đúng lý; vì khiến Tâm, Tâm sở hòa hợp là tác dụng của xúc. Còn nếu bảo
định khiến tâm trong một khoảnh khắc sát na không thay đổi cảnh duyên, nên nó
nhiếp thuộc vào Biến hành, cũng không đúng lý; vì tâm trong một khoảnh khắc sát
na tự nó không thay đổi đối với cảnh duyên (chứ đâu phải do định mà tâm không
thay đổi). – Còn nếu nói do định mà tâm nắm bắt cảnh sở duyên, nên định nhiếp
về Biến hành, cũng không đúng lý; vì chính tác ý mới khiến tâm bắt cảnh sở
duyên, chứ đâu phải định Tâm sở.
Lại có thuyết cho rằng thể của định chính là
tâm, vì kinh nói định học là tâm học; lại nói định có tánh khiến tâm chuyên
nhất nơi một cảnh.
Dẫn kinh làm chứng như thế không đúng; vì
nhờ định nhiếp tâm, khiến tâm chuyên nhất mộtt cảnh, nên nói như vậy. Ðịnh
nhiếp vào năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi, như niệm, tuệ v.v... chứ
không phải định chính là tâm.
Tuệ là thế nào? Là tánh giản biệt lựa chọn
đối với quán sát, và có nghiệp dụng dứt nghi. Nghĩa là quán cảnh được, mất,
trung dung, nhờ tuệ suy tìm mà đi đến quyết định. Vì trong khi đối với cảnh
không phải quán sát, thì tâm ngu muội không giản trạch suy tìm, cho nên tuệ
không nhiếp vào Biến hành.
- Có thuyết cho rằng bấy giờ trong tâm ngu
muội cũng có tuệ sanh khởi, chỉ vì tướng nó vi ẩn tợ như một tí vật rất nhỏ bỏ
vào trong cái đồ rất lớn làm sao biết nó là có. Vì trong luận Ðối Pháp nói:
"Nó là đại địa pháp".
- Các bộ luận Ðối Pháp qua lại nói mâu thuẫn
nhau, làm sao các Ông cứ chấp đó làm định lượng? Chỉ có xúc, tác ý thảy năm
thứ, kinh nói là Biến hành thôi; còn nói mười Ðại địa pháp thì không phải kinh
nói, chớ nên cố chấp.
Nhưng dục, thắng giải v.v... không phải là
xúc, tác ý v.v... nên quyết không phải là Biến hành. Như tâm sở Tín, tâm Tham
v.v... không phải Biến hành.
- Có ý kiến cho rằng năm thứ dục, thắng giải
v.v... giúp đỡ lẫn nhau, tùy khi một thứ khởi, là phải có bốn thứ kia.
- Có ý kiến cho nó không nhất định như thế.
Luận Du già nói: "Năm Tâm sở Biệt cảnh này không có hai nhất thiết thời,
nhất thiết tâm của trong bốn thứ nhất thiết". (thêm nhất thiết tánh, nhất
thiết địa thành bốn).
- Lại nói năm thứ Biệt cảnh này duyên theo
bốn cảnh mà sanh. Vì sở duyên hay năng duyên, không nhất dịnh cùng khởi, nên
nói năm thứ ấy có khi chỉ khởi lên một, nghĩa là đối cảnh đáng vui, chỉ khởi
tâm hy vọng (dục); hoặc đối với cảnh quyết định, chỉ khởi tâm ấn giải (thắng
giải); hoặc đối với cảnh từng tập quen chỉ khởi tâm ghi nhớ (niệm); hoặc đối
với cảnh sở quán chỉ khởi tâm chuyên chú (định). Nghiã là loài ngu muội vì muốn
ngăn tâm tán loạn, tuy có chuyên chú vào cảnh sở duyên nhưng không thể lựa chọn
suy tìm. Ðời đều biết hạng người đó có định mà không có tuệ. Vì hạng kia ở địa
vị gia hạnh có chút ít nghe, suy nghĩ, cho nên nói ở địa vị đẳng trì (định)
duyên cảnh sở quán. Hoặc dựa đa phần định tuệ cùng có cho nên nói ở địa vị đẳng
trì duyên cảnh sở quán. Như cõi trời Hỷ vong (trời Dục giới) chuyên chú vào một
cảnh khởi lên tâm tham, sân, đó là có định mà không có tuệ, các loại như thế
rất nhiều. Hoặc đối với cảnh sở quán chỉ khởi tâm giản trạch; nghĩa là chỉ dong
ruỗi tìm cầu, chứ không chuyên chú (đó chỉ có tuệ không có định).
Hoặc có khi khởi hai tâm Biệt cảnh một lần,
đó là khi đối với cảnh đáng ưa và cảnh quyết định, mà khởi lên tâm dục và tâm
thắng giải. Hoặc đối với cảnh đáng ưa và cảnh từng tập quen, mà khởi lên tâm
dục và niệm. Cứ như thế cho đến đối với cảnh đáng ưa mà khởi lên tâm định và
tuệ. Hiệp lại có mười hai trường hợp khởi hai tâm Biệt cảnh.
Hoặc có khi khởi lên ba tâm, đó là đối với
cảnh đáng ưa, quyết định và tập quen, mà khởi lên tâm dục, thắng giải và niệm.
Như vậy cho đến đối với cảnh từng quán sát khởi lên tâm niệm, định, tuệ. Hợp
lại có mười ba trường hợp khởi ba tâm Biệt cảnh.
Hoặc có khi khởi lên bốn tâm, đó là đối với
cảnh đáng ưa, quyết định, tập quen và quán sát mà khởi lên tâm dục, thắng giải,
niệm định. Như vậy cho đến đối với cảnh quyết định, tập quen và quán sát mà
khởi lên bốn tâm dục, thắng giải, niệm, định. Hợp lại có năm trường hợp một lúc
khởi lên bốn tâm.
- Hoặc có khi khởi đủ năm tâm, đó là khi đối
với cảnh đáng ưa, quyết định, tập quen, quán sát mà khởi lên đủ năm tâm sở Biệt
cảnh.
Như vậy đối với bốn trường hợp khởi lên năm
tâm sở Biệt cảnh tổng biệt hợp lại có ba mươi mốt trường hợp.
Hoặc khi ở địa vị hữu tâm, cả năm tâm sở
Biệt cảnh đều không khởi. Như lúc không phải bốn cảnh, suất nhĩ ở tâm và năm
Biệt cảnh tương ưng với Tạng thức. Loại này không phải một.
Ở thức thứ bảy, thứ tám, tùy từng địa vị mà
hoặc có hoặc không năm tâm sở Biệt cảnh, như trước đã nói. Còn ý thức thứ
sáu, ở các địa vị đều có đủ, dù khi chuyển y hay chưa chuyển y đều không ngăn
ngại.
- Có ý kiến cho rằng ở năm thức không có năm
Biệt cảnh. Vì năm thức duyên cảnh có trước mắt nên không có hy vọng (dục). Vì
nó không có khả năng thẩm xét quyết định, nên không có ấn trì (thắng giải). Vì
nó hằng duyên cảnh mới nên không có tâm truy ức (niệm). vì tự tánh nó tán động
nên không chuyên chú (định). Vì nó không có khả năng suy đạt, nên không có lựa
chọn (tuệ).
- Có ý kiến cho rằng năm thức đều có đủ năm
Biệt cảnh. Tuy không có hy vọng nhiều đối với cảnh nhưng có cảnh vui vi tế yếu
ớt. Tuy không có sự thẩm định mạnh nhưng có cảnh ấn trì vi tế yếu ớt. Tuy không
nhớ rõ cảnh đã từng tập quen nhưng có cảnh ghi nhớ vi tế yếu ớt. Tuy không có
tác ý buộc niệm vào một cảnh nhưng có sự chuyên chú vi tế yếu ớt. Vì ngăn đẳng
dẫn mà nói tánh nó tán động, chứ không phải ngăn đẳng trì. Cho nên được có định
(Tam ma hê đa dịch Ðẳng dẫn, Tam ma địa dịch Ðẳng trì. Ðịnh có nhập, trú, xuất.
Nhập định xuất định là Ðẳng dẫn, trú định là Ðẳng trì). Tuy đối cảnh sở duyên
không thể suy đạt nhưng có sự chọn lựa vi tế yếu ớt. Do đó Thánh giáo nói:
"Có nhãn thông, nhĩ thông, đó là trí tuệ tương ưng với nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ, thiệt, thân ba thứ chuẩn theo đây, đều có tuệ" là không có lỗi.
Khi ở địa vị chưa tự tại thì năm Biệt cảnh
hoặc không có, khi được tự tại, năm Biệt cảnh, nhất định phải có. Vì ưa quán
các cảnh nên Dục tâm sở không thiếu. Vì ấn trì cảnh nên thắng giải thưòng không
thiếu. vì nhớ cảnh từng tập quen nên niệm không thiếu.
Lại năm thức của Phật duyên suốt cả ba đời,
vì đức Như Lai không có tâm bất định, vì năm thức đều có trí Thành sở tác sự.
Năm Biệt cảnh này tương ưng với thọ nào?
- Có ý kiến cho rằng tâm sở Dục có ba thọ
tương ưng, trừ thọ khổ và ưu, vì hai cảnh khổ và ưu không phải đáng ưa (dục).
Ngoài ra bốn tâm sở kia thông cả bốn thọ, trừ khổ thọ, vì tánh thẩm định, ở năm
thức không có.
- Có ý kiến cho rằng cả năm tâm sở Biệt cảnh
đều tương ưng năm thọ. Luận nói: Ưu căn (ưu thọ), đối với vô thượng pháp mà hâm
mộ (Dục tâm sở) lo sầu cầu (ưu) làm sao mau chứng được. Còn ở chỗ thuần thọ khổ
(khổ thọ) thì hy cầu (Dục tâm sở) được thoát khỏi. Ở Ý thức có khổ thọ căn, thì
như trước đã nói.
Luận nói: "Khi tham ái thì có cả ưu và
khổ tương ưng", tương ưng với tham ái thì chắc chắn có dục. Khổ thọ căn đã
có tương ưng với ý thức, mà y thức tương ưng với thắng giải, niệm, định, tuệ
tâm sở, vậy nói khổ thọ cũng tương ưng với thắng giải, niệm, định, tuệ thì có
lỗi gì?
- Lại năm Biệt cảnh tương ưng với năm thức,
vì năm thức cũng có sự ấn trì, truy ức, chuyên chú, giản trạch cảnh một cách vi
tế, như trước đã nói.
Do đó biết dục, thắng giải v.v... tương ưng
với cả năm thọ.
Năm thứ tâm sở Biệt cảnh này lại còn được
phân biệt theo các mặt ba tánh, ba cõi, ba học v.v... như lý nên suy nghĩ.
Ðã nói hai tâm sở Biến hành và Biệt cảnh,
còn tâm sở Thiện tướng nó như thế nào?
Tụng rằng:
Thiện là tín, tàm, quý,
Ba thiện căn: không tham v.v...
Cần, an, bất phóng dật,
Hành xả và bất hại.
Luận rằng: Thức Liễu biệt cảnh chỉ cùng khởi
với tâm sở Thiện, nên gọi là Thiện tâm sở. Ðó là tín, tàm v.v... mười một thứ.
Tín là thế nào? Tánh của lòng tin là tâm
thanh tịnh, nhẫn chịu sâu sắc đối với Thật, vui thích sâu sắc đối với Ðức, ưa
muốn (hy vọng) sau sắc đối với Năng Nghiệp của tín là đối trị tâm không tin,
vui thích cầu các việc lành.
Nhưng Tín sai khác nhau lược có ba thứ:
1. Tin Thật có – Là đối với thật sự (tục đế)
thật lý (chơn đế) của các các pháp, tin sâu sắc là thật có mà tùy thuận nhẫn
chịu theo.
2. Tin có Ðức – Là đối với Tam Bảo đầy đủ
chơn tịnh đức, tin sâu sắc mà vui thích theo.
3. Tin có Năng – Là đối với tất cả điều
thiện của thế và xuất thế gian, tin sâu sắc nó có năng lực, và mình có năng lực
thực hành theo là có thể được quả báo vui và sẽ chứng thành Thánh đạo, mà khởi
tâm hy vọng, mong muốn.
Do đó Tín nhằm đối trị không tin nơi Thật,
Ðức, Năng kia, đồng thời ưa thích chứng tu điều thiện của thế và xuất thế gian.
Hỏi: - "Nhẫn chịu" tức là
"Thắng giải" (trong Biệt cảnh), đó chính là nhân của Tín. "Vui
thích, ưa muốn" tức là "Dục" (trong Biệt cảnh), đó chính là quả
của Tín. Vậy chưa xác định tự tướng của Tín là thế nào!
Ðáp: - Há không vừa nói Tín lấy tâm thanh
tịnh làm tự tánh đó sao?
Hỏi: - Ðây còn chưa rõ nghĩa chữ "tâm
thanh tịnh" kia.
Nếu tịnh tức là Tâm (Tâm vương) thì tín
không phải là Tâm sở (làm sao gọi là tâm sở Tín?). Còn nếu nói làm cho Tâm
vương được tịnh mà gọi là Tín tâm sở, thì Tín đó có khác gì tâm sở Tàm, Quý
(cũng làm cho tâm thanh tịnh)? Nếu nói có pháp tịnh cùng khởi với tâm, mà gọi
là tâm tịnh, thì cũng nạn vấn như thế.
Ðáp: - Tánh của Tín là lặng trong, có khả
năng làm tịnh được Tâm, Tâm sở. Nhưng vì Tâm vương thắng hơn Tâm sở nên chỉ nói
"tâm tịnh". (chứ không nói Tâm sở tịnh). Ví như hạt ngọc thanh thủy
tánh nó vốn trong lại có khả năng làm trong nước đục. Tàm, Quý v.v... tuy thiện
nhưng không phải tánh vốn thanh tịnh; còn tâm sở Tín thì tánh vốn thanh tịnh,
nên không có lỗi xen lạm với Tàm, Quý v.v...
Lại các pháp ô nhiễm đều có tướng riêng,
nhưng chỉ có tâm bất tín là có tự tướng hỗn trược, lại làm hỗn trược các Tâm,
Tâm sở khác. Như vậy rất nhớp, tự nhớp lại làm nhớp cái khác. Tín ngược với Bất
tín, Tín lấy tịnh làm tướng.
- Có ý kiến cho rằng Tín lấy ưa vui làm
tướng. Nói vậy thì có thể thông cả ba tánh, tức Tín thông tánh thiện, ưa thông
tánh nhiễm, vui thông vô ký. Và đã thông ba tánh thì thể nó chính là dục trong
Biệt cảnh (còn Tín chỉ thông tánh thiện). Lại có thể Khổ Tập đế, không phải là
sở duyên của Tín.
- Có người cho Tín lấy sự tùy thuận làm
tướng. – Nói vậy thì Tín nên thông ba tánh, mà thông ba tánh thì chính là thắng
giải và dục (chứ không phải Tín). Vì nếu ấn thuận tức là thắng giải trong Biệt
cảnh. Nếu thuận vui tức là dục trong Biệt cảnh, lìa hai thể này thì không có
tướng tùy thuận.
- Do đó nên biết, tâm tịnh là Tín.
Tàm là thế nào? Là tính biết hỗ với mình, do
dựa vào sức mình và giáo pháp đã học mà sùng trọng hiền thiện, nó có nghiệp
dụng đối trị tâm không biết hỗ, và ngưng dứt ác hành. Nghĩa là dựa nơi chính
bản thân và giáo pháp mình mà biết tôn quý, tăng thượng (mạnh mẽ) đối với bản
thân và giáo pháp, do đó sùng trọng người hiền việc thiện, xấu hỗ tội ác không
dám làm nữa, đối trị tâm không biết hỗ, dứt các ác hành.
Qúy là thế nào? Là tính biết thẹn với người,
dựa vào sức thế gian mà khinh khi chống cự điều bạo ác, nó có nghiệp dụng đối
trị tâm không biết thẹn, ngưng dứt ác hành. Nghĩa là dựa nơi sự sự chê bai,
khinh khi chống cự bạo ác của thế gian mà biết thẹn, nó có công dụng đối trị
tâm không biết thẹn, ngưng dứt nghiệp ác.
Hỗ và thẹn tội lỗi, hai tướng thông nhau của
hai pháp Tàm và Qúy. Cho nên Thánh giáo giả nói là tự thể. Nếu chấp hỗ và thẹn
hai tướng khác nhau thì Tàm và Qúy chỉ có một thể, hai pháp một thể thì quyết
không tương ưng nhau, vì không có hai thể thọ và hai thể tưởng mà có nghĩa cùng
tương ưng nhau được. Nếu đợi có tướng tự lực mình và tha lực thế gian mới có
hai Tàm và Quý riêng, thì Tàm và Quý không phải thật có, bèn trái với Thánh
giáo. Nếu chấp nhận Tàm và Qúy có thật nhưng khởi riêng thì trái với luận nói
mười thứ biến khắp thiện tâm (Luận nói mười một Thiện tâm sở, trong đó khinh an
không biến khắp các thiện tâm, còn mười thứ kia trong đó gồm Tàm và Quý, biến
khắp các thiện tâm. Nếu cho Tàm và Quý là một, thì còn lại chín thứ biến khắp
sao?). Sùng trọng và khinh khi chống cự, nếu hai tướng ấy khác nhau thời sở
duyên của nó phải khác, có thể không cùng sanh. Nói hỗ và thẹn cùng sanh hay
khác sanh đều có lỗi giống nhau, tại sao lại quở trách thiên lệch về lỗi khác
sanh?
- Luận chủ: - Ai nói hai pháp có cảnh sở
duyên khác nhau?
- Người khác nói: - Không vậy, thì như thế
nào?
- Khi Thiện tâm khởi lên, tùy duyên cảnh
thiện hoặc ác đều có sự sùng trọng người thiện việc thiện và khinh cự người ác
việc ác. Cho nên biết Tàm và Quý đều biến khắp thiện tâm, sở duyên đồng nhau.
- Ðâu phải tôi đã không nói đến nghĩa Tàm và
Quý hai tướng thông nhau?
- Chấp Tàm và Quý tự tướng đã đồng như ông,
lẽ gì có thể ngăn sự thiết nạn trước đó cho có mười thứ biến khắp thiện tâm.
Nhưng Thánh giáo nói: "Nhìn vào tự, tha
đối đãi". Việc nơi mình gọi là tự, thế gian gọi là tha. Hoặc trong đó sùng
thiện đối với mình có ích gọi là tự, chống ác đối với mình không tổn gọi là
tha.
Vô tham thảy là chỉ cho vô sân, vô si, ba thứ này gọi là gốc thiện (thiện căn)
vì nó có khả năng sanh thiện mạnh hơn cả và vì gần nhất thì nó đối trị ba căn
bất thiện.
Vô tham là thế nào? Là tính không tham đắm
vào ba cõi (Hữu) và các hữu cụ của ba cõi, công dụng của nó là đối trị tâm tham
đắm, ưa làm điều thiện.
Vô sân là thế nào? Là tánh không sân hận đối
với khổ và nghiệp nhân của khổ (khổ, khổ cụ), công dụng của nó là đối trị sân
hận, ưa làm thiện.
Khi thiện tâm khởi lên hễ duyên theo cảnh gì
đều không tham đắm, không sân hận đối với hữu hữu cụ, khổ khổ cụ. Hai thiện căn
vô tham vô sân này chỉ quán sát nơi hữu và khổ để lập, chứ không phải đợi khi
duyên đến hữu và khổ mới lập; cũng như Tàm và Quý trước đây, là do quán sát
theo cảnh thiện ác mà lập (tức quán sát sự sùng thiện mà lập Tàm, quán nơi sự
khinh ác mà lập Quý). Cho nên hai thứ Tâm sở này đều biến khắp thiện tâm.
Vô si là thế nào? – Là tánh minh giải đối
với các sự lý. Nó có công dụng đối trị ngu si, ưa làm lành.
- Có ý kiến cho rằng "tuệ" là tánh của Vô si (dựa tuệ mà giả lập ra
Vô si). Tập Luận nói Vô si lấy sự quyết trạch của báo, giáo, chứng, trí, làm
thể, vì các tuệ do sanh đắc (báo) do nghe (giáo), do suy nghĩ (chứng) và do tu
(trí), thứ lớp như thế đều có tánh quyết trạch (tuệ). Vô si tuy là tuệ nhưng để
hiển thị nó có công năng thù thắng hơn tuệ, (Vô si là thuần thiện, chứ tuệ
thông cả thiện và nhiễm) cũng như ác kiến trong năm căn bản phiền não (ác kiến
thuần ác, chứ tuệ thì thông cả ác, thiện), cho nên nói riêng ra.
- Có ý kiến cho rằng Vô si không phải chính
là tuệ, mà nó có tự tánh riêng, vì nó chính thức đối trị vô minh, cũng như vô
tham, vô sân, nhiếp về ba thiện căn. Vì luận Du già nói: "Tâm đại bi nhiếp
về vô sân, Vô si chứ không phải nhiếp về tuệ căn (trong hai mươi hai
căn)". Nếu Vô si lấy tuệ làm tánh, thì tâm đại bi cũng như mười lực, bốn
vô úy, nên nhiếp về tuệ căn (trong hai mươi hai căn).
Lại nếu Vô si không có tánh riêng thì như
tâm bất hại, (lấy Vô sân làm thể) không có thật vậy, bèn trái với Luận nói:
"Trong mười một thiện, ba thứ không phóng dật, xả, bất hại chỉ có trong
thế tục, các thứ còn lại (trong đó có Vô si) đều là thật có".
Nhưng Tập Luận nói Vô si lấy tuệ làm thể, là
nêu tính nhân quả của ba tuệ để hiển thị tánh minh giải của nó. Cũng như lấy
nhẫn và lạc để biểu thị tự thể của Tín. Lý phải như vậy.
Vì tham, sân, si là chính phiền não tương
ưng sáu thức, nó khởi ác mạnh hơn cả, nên lập tên nó là ba thứ bất thiện căn.
Dứt nó phải do sự đối trị chung và riêng, chung đối trị chỉ là do thiện tuệ,
riêng đối trị chính là do ba thiện căn. Do đó nên phải có riêng Vô si.
Cần tức là tinh tấn, có tánh Dõng Hãn trong
việc tu thiện đoạn ác, và có nghiệp dụng đối trị giải đãi, dầy đủ việc thiện.
Dõng là biểu thị thắng tấn, không phải như các pháp nhiễm; Hãn là biểu thị tinh
thuần, không phải như tịnh vô ký (vô phú vô ký). Tức khi hiển thị tinh tấn nó
chỉ nhiếp vào tánh thiện.
Tướng sai biệt của tinh tấn có năm, là : Bị giáp, gia hành, vô hạ, vô thối, vô
túc. Chính khi nói có thể có dõng, có cần, kiên mãnh, và không bỏ cái ách
thiện, theo thứ lớp nên biết.
Năm tướng này sai khác nhau, tướng sơ phát tâm (bị giáp, có thế) tự phần tu
hành thắng tấn (gia hạnh, có dõng). Trong tự phần tu hành có ba bậc thượng,
trung, hạ (vô hạ, vô thối, vô túc), đó là năm. Hoặc tướng sơ phát tâm và bốn
tướng tu sai khác là trường thời tu, vô gián tu, ân trọng tu, vô dư tu là năm.
Hoặc có năm đạo sai khác là tư lương, gia hạnh, kiến đạo, tu đạo, vô học đạo.
Hoặc Nhị thừa cứu kính vô học đạo có tâm ham thích đại Bồ đề, hoặc chư Phật ở
cứu kính đạo mà ưa làm lợi ích hóa tha, hoặc hai địa vị gia hạnh là vô gián và
giải thoát có sự thắng tấn khác nhau, đều gọi là Cần.
An là khinh an, có tánh kham nhậm, xa lìa thô trọng là khinh, điều sướng thân
tâm là an; và có công dụng đối trị hôn trầm, khiến thân tâm được chuyển thành
an vui. Nghĩa là nó dẹp trừ pháp thường làm chướng ngại Thiền định, khiến cho
thân tâm y chỉ được an thích.
Bất phóng dật, là không buông lung, gồm Tinh tấn và ba Thiện căn, có tánh phòng
ngừa điều ác phải đoạn, không cho khởi lên, và siêng tu điều thiện phải tu, làm
cho tăng trưởng; và có công dụng làm thành tựu trọn vẹn mọi thiện sự của thế,
xuất thế gian. Nghĩa là chính nhờ bốn pháp là Tinh tấn và ba thiện căn mà có
thể phòng điều ác phải đoạn, tu điều Thiện phải tu, nên gọi là không buông
lung, chứ không ngoài bốn pháp kia mà có tự thể riêng, vì không có tướng khác;
vì đối với việc phòng ác và tu thiện, nếu lìa bốn công năng trên thì không có
công dụng riêng. Tuy Tín, Tàm, Quý v.v... cũng có khả năng phòng ác tu thiện
nhưng so với bốn pháp là Tinh tấn và ba Thiện căn thì thế lực và công dụng nó
vi tế yếu ớt, nó không phải ba căn và tinh tấn sách lệ mọi sự, cho nên Tín,
Tàm, Quý không phải chỗ nương của bất phóng dật.
Nạn: - Há không phải chính phòng ác tu thiện là tướng và dụng của bất phóng
dật?
Ðáp: - Nếu vậy, phòng ác tu thiện khác gì với Tinh tấn và ba Thiện căn?
Nạn: - Bốn pháp kia phải chờ có bất phóng dật mới có phòng ác tu thiện?
Ðáp: - Nếu vậy, bất phóng dật cũng phải chờ cái khác nữa, thì thành lỗi vô
cùng.
Nạn: - "Cần" chỉ là cùng khắp sách tấn thiện pháp, "thiện
căn" chỉ là khắp làm chỗ nương cho thiện pháp, tại sao nói nó công dụng
phòng ác tu thiện?
Ðáp: - Ông nói công dụng phòng ác tu thiện tướng nó như thế nào? Nếu khắp dựa
vào tất cả thiện tâm gọi là phòng ác tu thiện thì chính đó là ba Thiện căn vô
tham, vô sân, vô si. Nếu cùng khắp sách lệ thiện pháp thì có khác gì tinh tấn.
Nếu ngừng ác tấn thiện thì chính đó là chung cả bốn pháp là Tinh tấn và ba
Thiện căn. Nếu khiến tâm không tán loạn, thì đó là đẳng trì (định). Nếu khiến
Tâm, Tâm sở đồng thủ cảnh, thì đó có khác gì xúc. Nếu khiến Tâm không quên mất,
thì đó chính là Niệm. Suy tầm như vậy, thấy cái công dụng của bất phóng dật.
Nếu lìa bốn pháp là Tinh tấn và ba Thiện căn, thì hoàn toàn không thể có được.
Cho nên biết bất phóng dật không có tự thể riêng.
Hành xả là thế nào? Là Tinh tấn và ba Thiện căn, có tánh khiến tâm được bình
đẳng chánh trực vô công dụng mà an trú, và có nghiệp dụng đối trị trạo cử, được
trú yên tịnh. Nghĩa là chính nhờ bốn pháp là Tinh tấn và ba Thiện căn khiến tâm
xa lìa các chướng trạo cử v.v... được trú yên tịnh gọi là Xả. Nói bình đẳng,
chánh trực, vô công dụng mà an trú đó là biện biệt ba cấp sơ, trung, và hậu sai
khác của Xả.
Do Bất phóng dật, trước trừ tạp nhiễm, Hành xả lại khiến tâm tịch tịnh mà an
trụ. Hành xả không có tự thể riêng, cũng như bất phóng dật lìa bốn pháp kia thì
không có tướng và dụng riêng. Khả năng làm cho được tịch tịnh chính là bốn
pháp. Ðược làm cho tịch tịnh đó chính là tâm.
Bất hại là thế nào? Là tánh không sân hận, không làm tổn não các hữu tình; và
có nghiệp dụng đối trị hại, có lòng thương xót. Nghĩa là chính từ sự không
giận, không làm tổn não các hữu tình mà giả gọi là không hại. Vô sân ngược lại
với Sân là dứt mạng sống chúng sanh, Bất hại ngược lại với Hại là hay làm tổn
não chúng sanh. Vô sân thì cho vui, Bất hại thì cứu khổ. Ðó là hai thô tướng
sai khác của Bất hại. Ðúng thật, Vô sân thật có tự thể, còn Bất hại là nương
một phần của Vô sân mà giả lập. Vì để hiển thị hai tướng Từ và Bi khác nhau,
trong việc lợi lạc hữu tình thì hai thứ Vô sân và Bất hại, Từ và Bi này hơn cả.
- Có ý kiến cho rằng không Hại không phải chính là không sân, mà nó có tự thể
riêng, đó là tánh hiền thiện. Tướng đó thế nào? Ðó là không làm tổn não, không
sân cũng thế, không có tánh riêng. Nghĩa là không làm tổn não loài hữu tình, từ
biến hiền thiện là không sân vậy.
- Bài Tụng nói chữ "cập, (và) để hiển rõ ngoài mười một tâm sở Thiện vừa
nói, còn có những Tâm sở khác. Ðó là Thiện tâm sở "Hân" và "Chán"
v.v... Những Tâm sở này tùy nghĩa có khác nhau nên nói ra nhiều tên, nhưng thể
nó vẫn là một, cho nên không lập riêng. "Hân là hân thích, cùng đi với
"Dục", là một phần của không giận, vì không giận ghét đối với cảnh
vui thích. Không phẫn, hận, não, tật v.v... cũng thế. Tùy theo đó, thứ này đảo
ngược lại thành thứ kia. Như đảo ngược lại với bất phẫn và phẫn (giận), là một
phần của sân, "Chán" cùng đi với Tuệ, là một phần của vô tham, vì
không nhiễm trước đối với cảnh đáng chán. Không xan lẫn, không kiêu mạn v.v...
nên biết cũng giống như thế. Tùy theo đó mà đảo ngược lại thành xan lẫn, kiêu
mạn, đều là một phần của Tham. Không che dấu, không gian trá, không dua nịnh là
một phần của không tham, không si, tùy theo đó mà đảo ngược lại thành che dấu,
gian trá, dua nịnh, đều là một phần của Tham, Si.
- Có ý kiến cho rằng không che dấu chỉ là một phần không si. Không có chỗ nào
nói che dấu là một phần của Tham.
- Có ý kiến cho rằng không kiêu mạn là một phần của Tín. Nghĩa là tin ai thì
không kiêu mạn với họ.
- Có ý kiến cho rằng không kiêu mạn là một phần của Hành xả, vì tâm bình đẳng
thì không kiêu mạn.
- Có ý kiến cho rằng không kiêu mạn, một phần nhiếp vào vào Tàm (hổ) vì sùng
trọng ai đó thì không kiêu mạn với họ.
- Có ý kiến cho rằng không nghi chính là nhiếp về Tín, vì tin điều gì thì không
còn do dự nghi ngờ.
- Có ý kiến cho rằng không nghi chính là Thắng giải, vì khi đã quyết định thì
không do dự nghi ngờ.
- Có ý kiến cho rằng không nghi chính là Chánh tuệ, vì khi có chánh kiến thì
không do dự. Thể không tán loạn tức nhiếp tuệ. "Bất vong niệm", chính
là Chánh niệm. Hối, Miên, Tầm, Tứ thông cả và bất nhiễm như xúc, dục v.v... Nên
không có nghĩa đảo ngược lại.
- Vì sao những tâm nhiễm đảo ngược lại thành tâm thiện mà có cái lập riêng, có
cái không lập riêng?
- Tâm nào có tướng và dụng khác nhau thì lập riêng; còn các tâm thiện thì không
có tâm nào đảo ngược lại nên không lập riêng, không nên gạn trách.
Lại vì các nhiễm pháp bất thiện là tham, sân, si, vô tàm, vô quý, bất tín, giải
đãi, hôn trầm, trạo cử, phóng dật biến khắp cả sáu thức mạnh hơn, cho nên đảo
ngược lại lập thành mười pháp thiện là vô tham, vô sân, vô si, tàm, quý, tín,
cần, khinh an, hành xả.
Mạn, phẫn v.v... chỉ tương ưng với ý thức, nên đảo ngược lập riêng.
"Hại" tuy cũng thế, nhưng vì nó thường hiện khởi làm tổn não người
khác và làm chướng ngại tâm bi là thắng nhân của vô thượng thừa, vì để nói rõ
tội lỗi lớn lao đó của hại, nên đảo ngược với hại mà lập riêng ra bất hại.
Thất niệm, tán loạn, bất chánh tri, đảo ngược lại thì thành niệm, định, tuệ
trong Biệt cảnh thiện, nên không nói riêng.
Hỏi: - Tâm sở nhiễm và Tâm sở tịnh đảo ngược nhau, mà sao số Tâm sở tịnh lại ít
hơn số Tâm sở nhiễm?
Ðáp: - Tâm sở tịnh thù thắng,Tâm sở nhiễm yếu kém, đó là tịnh ít định nhiễm
nhiều.
Lại vì thiện thì ngộ giải thông lý, nên tuy Tâm sở thiện nhiều mà đồng thể, còn
Tâm sở nhiễm vì mê tình cuộc theo sự tướng nhiều mới chia ra nhiều thứ. Cho nên
không nên trách về số lượng nhiều ít của Tâm sở nhiễm và Tâm sở tịnh.
- Trong mười một thiện tâm ấy, ba thứ là không phóng dật, hành xả, không hại là
giả có, như trước đã nói, còn tâm thứ kia thật có tướng và dụng khác nhau.
- Có ý kiến cho rằng trong mười một thiện, có bốn thứ biến khắp thiện tâm, đó
là Tinh tấn và ba Thiện căn, còn bảy thứ kia thì bất định, vì khi suy tầm sự lý
chưa quyết định thì không sanh tín tâm. Tàm và Qúy thì đồng loại nhưng chỗ
nương khác nhau, tùy khi khởi lên tâm này thì tâm kia không khởi. Khinh an thì
đợi khi có đạo thế gian đoạn phiền não khởi lên thì mới có được. Tâm Bất phóng
dật và Hành xả, thì khi có đạo vô lậu mới khởi lên được. Khi có tâm bi mẫn loài
hữu tình mới có tâm Bất hại.
- Luận nói 11 thiện được khởi lên trong sáu địa vị. Ðó là khi ở địa vị quyết
định mới có Tín tương ưng. Khi ngưng dứt nhiễm mới có tâm Tàm Qúy khởi lên nhìn
lại mình và người. Ở địa vị thiện có tâm Tinh tấn và ba Thiện căn. Khi có thế
gian đạo (bốn Thiền tám Ðịnh) thì có tâm Kinh an khởi. Khi có đạo xuất thế (vô
lậu đạo quán vô ngã) thì có tâm Hành xả và Bất phóng dật khởi. Khi nhiếp hoá
chúng sanh thì có tâm Bất hại khởi lên.
- Có ý kiến cho rằng kia nói thế chưa đúng lý. Khi suy tầm sự lý, tâm chưa
quyết định, tín nếu không sanh thì không phải là thiện, như khi nhiễm tâm là vì
không có tịnh tín. Tàm và Quý khác loại, nương tha thì khác mà cảnh duyên thì
đồng, nó điều biến khắp thiện tâm, như trước đã nói.
Nếu có xuất thế đạo mà tâm Khinh an không sanh thì Khinh an giác chi ấy chẳng
phải vô lậu. Nếu có thế gian đạo mà không có Hành xả và Bất phóng dật thì không
phải tịch tịnh phòng ác tu thiện, lại không thể dẹp trạo cử, phóng dật. Thiện
tâm hữu lậu đã có đủ bốn pháp là Tinh tấn và ba Thiện căn thì nó như xuất thế
đạo,nên có hai tâm là Hành xả và Bất phóng dật. Lại khi thiện tâm khởi lên đều
không tổn hại vật, chính do pháp trái với sự tổn hại đó mà có tên Bất hại.
Nhưng Luận nói: "Trong sáu trường hợp có mười một thiện tâm khởi lên là
nương nơi sự tăng mạnh của mỗi thứ mà nói tên mỗi thứ đó"; cho nên ý kiến
đầu tiên kia nói, nhất định không đúng lý.
Nên nói rằng trong mười một Thiện, Tín, Tàm, Quý v.v... mười thứ biến khắp các
thiện tâm, trừ "Khinh an" thì không biến khắp. Phải khi ở địa vị
Thiền định mới có Khinh an. Vì sự điều sướng thân tâm ở địa vị khác (không phải
Thiền định) không có được.
Trong Quyết trạch phần của luận Du già nói: "Mười Thiện tâm sở dù ở địa vị
Thiền định hay không Thiền định nó đều biến khắp thiện tâm, chỉ trong định địa
thì "Khinh an" tăng hơn".
Có ý kiến cho rằng ở địa vị định gia hạnh cũng được gọi là định địa, vì ở đó
cũng có sự điều sướng thân tâm vi tế. Do đó ở cõi Dục cũng có Khinh an. Không
như vậy thì trái với Bản địa phần trong luận Du già nói: "Mười một thiện
như Tín, Tàm, Quý v.v... thông hết thảy địa.
- Có ý kiến cho rằng Khinh an chỉ khi có định mới có, vi do định tư dưỡng, mới
có sự điều sướng. Luận nói: "Các Tâm, Tâm sở ở cõi Dục vì thiếu Khinh an
nên gọi là bất định địa". Nói hết thảy địa đều có mười một thiện, vì nó
thông cả ba địa là địa có tầm có tứ, địa không tầm chỉ có tứ, địa không tầm
không tứ (căn bổn Sơ Thiền gọi là hữu tầm hữu tứ Tam ma địa; Nhị Thiền, gia
hạnh gọi là vô tầm duy tứ Tam ma địa).
- Mười một thiện này trước đã nói đủ, đệ thất, đệ bát thức tùy theo địa vị hoặc
có hoặc không (khi địa vị mê thì không có, khi ở địa vị ngộ thì hai thức đều có
đủ mười một thiện); còn đệ lục thức ở các địa vị thì đều có đủ. Nêú không phải
định vị là chỉ thiếu Khinh an.
Có ý kiến cho năm thức chỉ có mười thứ, vì tự tánh năm thức tán động nên không
có Khinh an.
Có ý kiến cho rằng năm thức cũng có Khinh an. Vì thiện do định dẫn phát cũng có
sự điều sướng Khinh an. Vì thiện cùng đi với Thành sở tác trí, chắc chắn có
Khinh an.
- Mười một Thiện tâm sở này tương ưng với thọ nào? Mười Thiện tâm sở tương ưng
với đủ năm thọ, chỉ Khinh an tâm sở, không tương ưng ưu thọ, khổ thọ, vì có ưu
khổ thì không có điều sướng Khinh an.
- Mười một Thiện tâm sở này đều cùng tương ưng với năm Biệt cảnh. Vì Tín, Tàm,
Quý v.v... với Dục, Thắng giải v.v... không trái nhau vậy.
- Mười một thứ Tâm sở này chỉ là thiện.
- Trừ Khinh an không có ở cõi Dục, còn mười thứ kia thông ở cả ba cõi.
- Mười một thứ tâm sở Thiện, không chướng kiến đạo, nên không phải loại bị kiến
đạo diệt trừ. Luận Du già nói: "Sáu căn là Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ và Vị
tri đương tri căn (nếu thuộc hữu lậu, chỉ do tu mới đoạn, chứ không phải do
kiến đoạn được".
Còn phân biệt mười một thiện này theo các phương diện (môn) khác nữa, như lý
nên biết.
- Như vậy đã nói tâm sở thiện, còn tâm sở Phiền não tương ưng với sáu thức,
tướng nó như thế nào?
Tụng nói:
Phiền não là tham, sân,
Si, mạn, nghi, ác kiến.
Luận rằng: "Sáu thứ tham, sân v.v... tánh nó thuộc về căn bản phiền não
nên được gọi là phiền não".
Tham là thế nào? Là tánh nhiễm đắm đối với hữu và hữu cụ. Nó có nghiệp dụng làm
chướng ngại vô tham, phát sanh khổ não. Nghĩa là vì do năng lực của tham ái mà
có thủ uẩn sanh thành.
Sân là thế nào? là tánh ghét giận đối với khổ và khổ cụ. Nó có nghiệp dụng làm
chướng ngại vô sân và làm chỗ nương cho tánh bất an ổn và ác hành. Nghĩa là vì
sân nên chắc chắn khiến thân tâm nóng bức, khởi lên các ác nghiệp bất thiện.
Si là thế nào? Là tánh mê muội đối với các sự lý, nó có nghiệp dụng chướng ngại
vô si, và làm chỗ nương cho tất cả tạp nhiễm. Nghĩa là do vô minh (si) khởi lên
các căn bản phiền não nghi, tà kiến, tham, v.v... và các tùy phiền não mà tạo
tác nghiệp ác có thể chiêu cảm pháp tạp nhiễm ở đời sau.
Mạn là thế nào? Là tánh ỷ mình mà cao ngạo đối với người, và có nghiệp dụng là
chướng ngại tánh không kiêu mạn, và phát sanh khổ não. Nghĩa là nếu có mạn thì
tâm không khiêm hạ đối với Tam bảo chơn tịnh đức và người có đức; do đó mà bị
sanh tử luân chuyển vô cùng, chịu các khổ não. Mạn này sai biệt có bảy (mạn,
quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty liệt mạn, tà mạn), hoặc chín
thứ là đối nơi ba bậc thượng, trung, hạ về ngã, đức và xứ sở (ta hơn, ta bằng,
ta thua) mà thành ra chín mạn.
Tấc cả mạn đều thông cả kiến sở đọan. Ở nơi Thánh vị, câu sanh ngã mạn đã không
còn hiện hành, thời các loại mạn từ nó khởi lên cũng không có lỗi.
Nghi là thế nào? là tánh do dự chẳng quyết đối với các đế lý, và nó có nghiệp
dụng làm chướng ngại tâm không nghi, chướng ngại thiện pháp. Nghĩa là do dự thì
điều thiện không sanh.
Có ý kiến cho rằng nghi này lấy thiện làm thể. Do dự trong sự lựa chọn nên nói
là nghi. Vì chữ "Tỳ" (trợ giúp) mạt để (tuệ) là nghĩa của nghi. Vì nghĩa
chữ "mạt để" và chữ Bát nhã là một (Tỳ mạt để hay Tỳ Bát nhã là giúp
cho Bát nhã, giúp cho giác ngộ. Có nghi mới có ngộ, không nghi ắt không ngộ,
cho nên giúp cho ngộ đó là nghi).
Có ý kiến cho rằng nghi này có tự thể riêng, nó làm cho tuệ không quả quyết,
chứ nó không phải tuệ.
Luận Du già nói: "Trong sáu phiền não, chỉ ác kiến là thế tục có, vì nó là
một phần của tuệ, còn các thứ phiền não kia đều thật có tánh riêng. Do chữ
"Tỳ" trợ giúp chữ Mạt để " thành "Tỳ mạt để" mà chấp
tuệ là nghi, thế thì có thể do chữ "Tỳ" trợ giúp "Nhã nam"
(trí) thành "Tỳ nhã nam", mà trí biến thành thức được sao? Chẳng phải
do trợ giúp mà nghĩa của nó biến chuyển khác đi được, thế nên nghi này không
phải lấy tuệ làm thể.
Ác kiến là thế nào? Là tánh của tuệ ô nhiễm suy đạt điên đảo đối với các đế lý,
nó có nghiệp dụng làm chướng ngại thiện kiến, chiêu cảm sự khổ. Nghĩa là người
ác kiến phải chịu nhiều khổ não. Hành tướng của ác kiến sai biệt có năm (tức
năm lợi sử).
1. Tát ca gia kiến (thân kiến) - Tức là đối với năm thủ uẩn chấp cho là ngã và
ngã sở; nghiệp của nó là làm chỗ nương cho hết thảy kiến thủ (thân kiến thông
cả phân biệt và câu sanh). Kiến này sai biệt có 20 câu, 65 câu, chúng đều là
phân biệt khởi chứ không phải câu sanh sanh (năm thứ ác kiến này, hãy xem rõ kinh
Phạm Võng trong Trường Bộ Kinh, hoặc kinh Phạm Ðộng trong Trường A hàm).
2. Biên chấp kiến - Tức là chấp Tát ca gia kiến kia là đoạn là thường, nó
chướng ngại sự tu hành hạnh xuất ly theo trung đạo phi đoạn phi thường. Sự sai
biệt của kiến này là trong các kiến thú. Như đối với đời quá khứ chấp bốn Biến
thường luận. Nhất phần thường luận, đối với đời vị lai chấp có mười sáu Hữu
tưởng, tám Vô tưởng và tám Câu phi. Và bảy Ðoạn diệt luận v.v... đều thuộc về
phân biệt khởi.
3. Tà kiến - Tức là phỉ báng nhân quả, phỉ báng tác dụng, phỉ báng sự thật. Và
gồm những tà chấp khác ngoài bốn ác kiến kia là thân kiến, Biên kiến, kiến thủ,
giới cấm thủ. Cũng như tăng thượng duyên là gồm tất cả những duyên còn lại
ngoài ba duyên là Nhân duyên, Ðẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên; vì nó có danh
và nghĩa rất bao quát. Sự sai biệt của kiến này là ở trong các kiến thủ, chấp
hai Vô nhân luận về quá khứ, chấp bốn Hữu biên luận, Bất tử kiểu loạn luận, và
chấp vị lai năm hiện Niết bàn; hoặc chấp trời Tự Tại, Thế chủ, Thích, Phạm và
các vật loại khác là thường hằng biến đổi; hoặc chấp trời Tự Tại là nguyên nhân
của mọi vật; hoặc chấp bướng các lối giải thoát tà vạy; hoặc vọng chấp phi đạo
là đạo. Những lối chấp như thế đều nhiếp vào tà kiến này.
4. Kiến thủ - Tức là chấp các tà kiến trên và các thủ uẩn mà các tà kiến dựa
vào để chấp, cho là tối thắng, có thể làm chúng sanh thanh tịnh; nghiệp dụng
của nó là làm chỗ nương cho mọi sự đấu tranh.
5. Giới cấm thủ là thuận theo giới cấm của tà kiến đó và các uẩn mà tà kiến dựa
vào để chấp, cho là tối thắng, có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh; nghiệp
dụng của nó là làm chỗ nương cho sự khổ hạnh vô ích.
Nhưng có chỗ nói chấp nó là tối thắng (không phải quả chấp là quả) thì gọi là
kiến thủ, chấp nó có thể làm cho được thanh tịnh (không phải nhân tốt mà chấp
là nhân tốt), thì gọi là giới thủ. Ðây là lối nói ưóc lược phản ảnh. Hoặ là nói
theo phương diện tùy chuyển (tùy chuyển nghĩa là nói tối thắng tức trong đã có
thanh tịnh, nói thanh tịnh là trong đã có tối thắng). Không như vậy thì tại sao
phi tịch diệt chấp tịch diệt, phi đạo chấp là đạo thì gọi là tà kiến, mà chẳng
phải hai thủ là kiến thủ và giới thủ?
- Trong mười thứ phiền não tổng và biệt như trên, có sáu thứ là tham, sân, si,
mạn, thân kiến, biên kiến thông cả câu sanh và phân biệt khởi. Hoặc nhậm vận
hoặc tư sát đều khởi lên ác kiến được cả. Còn nghi và ba kiến là tà kiến, kiến
thủ, giới cấm thủ thì chỉ là phân biệt khởi; vì cần phải do bạn ác và năng lực
tà giáo, tự thẩm xét, tư sát mới được sanh khởi.
- Có thuyết cho rằng trong biên chấp kiến, thứ nào thông câu sanh thì nó thuộc
loại đoạn kiến, còn tướng của thường kiến thô phù, phải có năng lực của bạn ác
và tà giáo mới dẫn sanh ra được. Như luận Du già nói: "Biên chấp kiến nào
là thứ câu sanh? Ðó là thứ biên chấp kiến thuôc loại đoạn kiến. Người học hiện
quán sanh tâm sợ như vầy: "Cái ta của ta nay ở tại chỗ nào? "Cho nên
như loài cầm thú nếu gặp nghịch duyên, đều sợ cái ta đoạn mất, mà sanh tâm sợ
hãi".
- Có ý kiến cho rằng Luận kia nói đó là y theo thô tướng mà nói. Lý thật, câu
sanh cũng thông cả thường kiến. Nghĩa là như cầm thú vì chấp cái ta thường còn
nên hăng hái tạo tác chứa nhóm các đồ dùng để lâu dài. Các luận như Hiển Dương
v.v... đều nói: "Ðối với năm thủ uẩn chấp đoạn chấp thường, hoặc là câu
sanh, hoặc là phân biệt".
- Mười thứ phiền não ấy thứ nào tương ưng với thứ nào?
- Tham nhất định không cùng sanh với sân và nghi, vì hai cảnh yêu và ghét không
đồng nhau. Ðối với cảnh còn nghi ngờ không quyết chấp thì không có tham đắm.
Tham có thể tương ưng với mạn và kiến, nhưng vì cảnh tham ái và kiêu mạn chẳng
phải một, nên không cùng sanh một lần. Còn cảnh ô nhiễm của ái và cảnh ỷ thị
của mạn có thể đồng nhau, nên được tương ưng. Vì đối với cảnh của năm ác kiến
đều có thể tham ái, nên tham và năm kiến tương ưng nhau, không lỗi gì.
- Sân với mạn, nghi, hoặc có thể cùng khởi một lần, vì cảnh sân và cảnh ỷ thị
chẳng phải một, nên nói sân với mạn không tương ưng nhau. Cảnh miệt thị và cảnh
ghen ghét có thể là một cho nên nó có thể cùng sanh. Vì lúc đầu còn do dự
(nghi) thì chưa ghét, nên nói sân và nghi không cùng sanh. Suy nghĩ lâu mà vẫn
không quyết được, mới phát giận, nên sân và nghi có thể được tương ưng. Nghi
cảnh thuận hay nghịch tùy theo đó cũng vậy. Sân và hai thủ là giới cấm thủ và
kiến thủ chắc không tương ưng, vì khi đã chấp cho đó là đạo thù thắng, thì
không ghét nó. Sân với ba kiến là thân, biên, tà kiến hoặc được tương ưng mà
không nhất định. Vì đối với thân năm uẩn đáng ưa mới khởi lên chấp cho thân là
thường, mà không ghét nó, đó là sân không tương ưng. Nếu đối với thân năm uẩn
khổ đau đáng ghét mà khởi lên chấp thân thường thì sanh tâm ghét giận nó, nên
nói sân được cùng khởi. Ðối với đoạn kiến, thì ngược lại với đây mà xét sân có
tương ưng hay không. Tà kiến thì bài bác luôn cả việc xấu, việc tốt, theo thứ
tự đó mà xét sân có hay không có tương ưng với tà kiến.
Mạn tâm sở là đối với cảnh đã quyết, còn Nghi tâm sở thì không thể. Cho nên mạn
và nghi không tương ưng nhau. Mạn và năm kiến thì câu khởi, vì hành tướng hai
thứ không chống trái nhau. Nhưng mạn thì không câu sanh với "đoạn
kiến", vì khi chấp ngã bị đoạn thì không thể ỷ thị kiêu mạn với ai được.
Mạn có một phần không câu sanh với thân kiến, và tà kiến cũng vậy.
Nghi là không thẩm quyết, nên trái với năm kiến, cho nên nghi và năm kiến không
thể câu sanh. Năm kiến cũng không tương ưng câu khởi với nghi, vì không thể
trong một tâm có nhiều tuệ (kiến).
Si và chín phiền não kia đều được tương ưng, vì các phiền não sanh ra được,
phải do si mới có.
- Mười phiền não này tương ưng với thức nào?
- Tạng thức hoàn toàn không có. Mạt na thức có bốn, Ý thức có đủ mười. Năm thức
trước chỉ có ba đó là tham, sân, si. Vì năm thức trước không có tánh phân biệt
nên không có mạn v.v... vì do có phân biệt so sánh mới khởi kiêu mạn
v.v...
- Mười phiền não nàu tương ưng với thọ nào?
- Câu sanh tham, sân, si và phân biệt tham, sân, si, tất cả đều tương ưng với
năm thọ; vì khi tham mà gặp cảnh duyên trái nghịch thì cả ưu và khổ thọ cùng
sanh, gặp cảnh duyên thuận thì cả hỷ thọ và lạc thọ cùng sanh.
Có ý kiến cho rằng mạn câu sanh và phân biệt khởi tương ưng với bốn thọ, trừ
khổ thọ. Vì chúng sanh ỷ thị thân ngũ uẩn xấu khổ của mình, mà sanh ưu thọ, nên
mạn tương ưng với ưu thọ.
Có ý kiến cho rằng nếu là câu sanh thì mạn cũng tương ưng với khổ thọ; vì nơi ý
thức có khổ thọ, như trước đã nói. Nếu là phân biệt mạn v.v... thì nó không có
ở những nơi thuần chịu khổ, vì ở nơi ấy không có tà sư tà giáo. Nhưng chúng
sanh ở chỗ chỗ thuần khổ đó không tạo nghiệp dẫn đến đường ác, vì phải cần có
phiền não phân biệt từ ý thức khởi mới tạo nghiệp dẫn đến chỗ ác đó.
Nghi và ba kiến là tà kiến, kiến thủ kiến và giói cấm thủ chỉ tương ưng với bốn
thọ, trừ khổ thọ. Ở cõi Dục, nghi không tương ưng với khổ nhưng tương ưng với
hỷ và ưu. Kiến thủ và giới thủ nếu duyên theo cảnh của ưu tương ưng với kiến
thì bấy giờ nó tương ưng với ưu thọ.
Có ý kiến cho rằng câu sanh thân kiến, biên kiến chỉ tương ưng với hỷ, lạc, xả
thọ. Hai kiến này không tương ưng năm thức nên không có khổ thọ, vì năm thức là
vô ký, nên không có ưu thọ. Còn phân biệt thân kiến, biên kiến chỉ tương ưng
với bốn thọ, trừ khổ thọ. Chấp thân ngũ uẩn cùng sanh với khổ là ngã, ngã sở,
mà thường, thì thân, biên kiến đó có ưu thọ. Nếu chấp thân ngũ uẩn cùng sanh
với lạc là ngã, ngã sở mà đoạn, thì thân biên kiến đó cũng tương ưng với ưu
thọ.
Có ý kiến cho rằng thân kiến, biên kiến nếu là câu sanh thì tương ưng với khổ
thọ; vì ở chỗ thuần khổ chỉ duyên với thân ngũ uẩn cực khổ, nên tương ưng với
khổ thọ.
Luận nói: "Tất cả phiền não não câu sanh đều cùng hiện hành với ba
thọ". Nói rộng như trước. Còn các nghĩa khác như trước đã nói.
- Dưới đây theo nghĩa thật nói, nói theo tướng thô, thì tham, mạn và bốn kiến
đều tương ưng với lạc, hỷ, xả thọ. Sân chỉ tương ưng với khổ, ưu, xả thọ. Nghi
thì tương ưng đủ năm thọ. Nghi và tà kiến tương ưng bốn thọ, trừ khổ thọ. Tham,
si tương ưng với lạc thông ở bốn địa dưới là Ngũ thú tạp cư địa đến Tam Thiền
địa; còn bảy thứ là năm ác kiến, mạn và nghi kia tương ưng với lạc, thì trừ Dục
giới địa, nó thông ba địa là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền. Nghi và độc hành
si, nếu ở cõi Dục thì chỉ tương ưng với ưu và xả thọ. Các thọ khác câu khởi như
thế nào, cứ theo lý suy biết.
- Mười phiền não này mấy thứ tương ưng với Biệt cảnh tâm sở?
- Tham, sân, si, mạn cùng khởi với năm Biệt cảnh. Vì chuyên chú một cảnh là có
Ðịnh tâm sở. Nghi và năm Kiến mỗi mỗi tương ưng với bốn Biệt cảnh, vì nghi
không tương ưng với thắng giải, vì nghi thì không quyết định. Kiến không phải
tương ưng với tuệ, vì nó không khác tuệ.
- Mười thứ phiền não này nhiếp thuộc về tánh gì?
- Sân chỉ có tánh bất thiện, vì nó làm tổn hại mình, người. Chín thứ còn lại
tương ưng cả thiện và bất thiện. Nếu ở hai cõi trên là Sắc, Vô sắc giới thì
nhiếp về vô ký, vì ở đó nó bị đè bẹp. Nếu hệ thuộc cõi Dục mà sân phân biệt
khởi thì chỉ nhiếp về bất thiện, vì nó phát sanh ác hành. Nếu sân câu sanh ác
hành thì cũng nhiếp về bất thiện, vì nó làm tổn hại mình, người. Các phiền não
còn lại nhiếp về vô ký, vì vi tế không làm chướng ngại thiện mà không có làm
tổn hại mình, người quá lắm. Nên biết câu sanh thân kiến và biên kiến chỉ nhiếp
về tánh vô ký. Vì không phát sanh nghiệp ác, tuy thường hiện khởi, song không
làm chướng ngại thiện pháp.
- Mười thứ phiền não này hệ thuộc vào cõi nào?
- Sân chỉ hệ thuộc cõi Dục, chín thứ còn lại thông cả ba cõi. Khi sanh ở địa
dưới, chưa lìa sự ô nhiễm của địa dưới, thì phiền não địa trên không hiện tiền.
Phải được căn bản định ở địa trên kia, khi đó phiền não ở địa trên kia mới hiện
tiền.
Các hữu lậu đạo (chỉ bốn Thiền tám Ðịnh, không có quán hai không, nên gọi là
hữu lậu đạo) tuy không dẹp được phiền não phân biệt và phiền não câu sanh vi tế
trong thức thứ bảy, nhưng có thể dẹp trừ được phiền não câu sanh thô phù ở thức
thứ sáu, để dần dần chứng được căn bản định của địa trên. Vì phiền não câu sanh
đó chỉ là mê sự, hướng ra bên ngoài sanh khởi, tán loạn thô động, chính thức
làm chướng ngại Thiền định, nên khi được định địa trên rồi, vậy sau các phiền
não câu sanh và phân biệt ở địa trên này đều hiện tiền. Nếu người khi sanh địa
trên, các phiền não phân biệt câu sanh địa dưới đều được hiện khởi. Như người
sanh ở Vô tưởng thiên trong đệ Tứ Thiền, trung hữu của họ do phỉ báng đạo giải
thoát mà phải sanh vào địa ngục.
Lại khi thân đang ở địa trên mà sắp sanh xuống địa dưới, khởi lên câu sanh ái
để nhuận sanh xuống địa dưới. Như có chỗ nói người sanh địa trên không khởi
phiền não địa dưới, đó là dựa theo đa phần mà nói, hoặc nói theo môn tùy
chuyển.
Phiền não ở địa dưới cũng duyên địa trên mà khởi. Luận Du già nói:
"Tham" hệ thuộc cõi Dục mà vẫn câu sanh địa trên là vì thích định địa
trên, cũng như đã bao sân nhuế, cũng ghen ghét, tật đố khi duyên Diệt đế và Ðạo
đế mà khởi, thì cũng nên nói ghen ghét và tật đố duyên Ly dục địa mà khởi. Vì
tổng duyên các hành sắc tâm ba cõi mà chấp ngã ngã sở (thân kiến) là đoạn hoặc
là thường (biên kiến) mà khởi mạn, thì đó là đều được duyên cõi trên mà khởi
lên. Còn lại năm kiến duyên cõi trên mà khởi, lẽ đó chắc chắn.
Nhưng có chỗ nói tham, sân, mạn v.v... không duyên cõi trên, đó là nói theo
tướng thô; hoặc dựa theo duyên khác mà nói. Không thấy người thế gian nào chấp
các pháp của tha địa là ngã v.v... và biên kiến thì phải dựa thân kiến mới có
được. Phiền não ở địa trên cũng duyên pháp ở địa dưới là nói kẻ sanh lên cõi
trên, đối với hữu tình hạ giới, ỷ thị đức mình cao hơn mà sanh tâm lấn lướt.
Duyên chung các hành mà chấp làm ngã, ngã sở là đoạn hoặc thường mà ưa thích nó
thì được duyên hạ địa.
Nghi và ba kiến sau, như lý nên xét biết. Nhưng mà nói phiền não cõi trên không
duyên cõi dưới, đó là dựa theo đa phần mà nói, hoặc theo duyên khác mà nói.
- Mười phiền não này nhiếp thuộc học vị nào?
- Chỉ nhiếp thuộc học vị phi học, phi vô học, chứ không nhiếp thuộc vào học và
vô học vị, vì học và vô học vị chỉ là thiện mà nó là ô nhiễm.
- Mười phiền não này do kiến sở đọan, tu sở đoạn hay phi sở đoạn?
- Nó không phải phi sở đoạn. Vì phi sở đoạn là thứ không ô nhiễm. Mười phiền
não này nếu là phân biệt khởi thì chỉ do kiến đạo là đoạn, vì thô dễ đoạn. Nếu
là câu sanh thì chỉ do tu đạo đoạn được, vì vi tế nên khó đoạn. Mười thứ phiền
não phân biệt khởi thuộc kiến đạo đoạn, thật sự là kíp đoạn một lần, vì chơn
kiến đạo một lần tổng duyên đủ Tứ đế. (Do mê lý Tứ đế mà có mười thứ phiền não
phân biệt khởi lên, nên khi thấy rõ lý Tứ đế thì mười phiền não phân biệt khởi
này kíp được dứt sạch).
Nhưng mê tướng Tứ đế có tổng có biệt. Tổng nghĩa là mười thứ phiền não đều do
mê lý Tứ đế mà có. Khổ, Tập đế là nhân, là chỗ nương của mười phiền não; Diệt,
Ðạo đế là chỗ mười phiền não sợ hãi. Biệt nghĩa là riêng mê tướng Tứ đế mà khởi
các phiền não, như trong đó hai thứ thân kiến và biên kiến chỉ do mê Khổ đế mà
khởi, còn tám thứ kia do mê chung cả Bốn đế mà khởi. Vì thân và biên kiến chỉ
đối với thân khổ quả mà khởi. Vì riêng tướng không và tướng vô ngã là thuộc Khổ
đế (Khổ đế có bốn tướng là vô thường, khổ, không, vô ngã). Nghĩa là nghi và ba
kiến trực tiếp mê lý khổ, còn hai thứ là chấp vàp ba kiến đó, và chấp giới cấm
thủ cùng thân ngũ uẩn cho là thù thắng có thể đạt thanh tịnh. Ðối với tự kiến
và tha kiến và quyến thuộc của nó mà thứ tự tùy lúc khởi lên tham, sân, mạn
(tức đối mình khởi tham, đối người khởi sân, đối quyến thuộc khởi mạn), tương
ưng với vô minh (tức là thứ vô minh đi chung với tham, sân ...) cùng với chín
thứ kia đồng mê lý Khổ đế mà khởi. "Bất cộng vô minh" (hay Ðộc hành
vô minh, nó không đi chung với tham, sân v.v... nên chỉ cho kiến đạo đoạn) thì
trực tiếp mê lý Khổ đế mà khởi. Nghi và tà kiến thì trực tiếp mê lý Tập đế ...
mà khởi. Hai thủ và tham v.v... chuẩn theo Khổ đế nên biết. Nhưng sân cũng có
thể trực tiếp mê Diệt và Ðạo đế, vì sợ hãi Diệt và Ðạo đế mà sinh ra ghen ghét,
sân giận.
Trực tiếp mê lý Tứ đế và gián tiếp mê lý Tứ đế về thô tướng là như thế. Nếu nói
tướng vi tế của nó là tham, sân, mạn, ba kiến và nghi câu sanh, thì tùy khi
thích ứng mà nó cũng mê lý Tứ đế như trên. Còn hai kiến câu sanh và ái, mạn, vô
minh tương ưng với nó, tuy là do mê Khổ đế mà có, nhưng vi tế khó đoạn, phải tu
đạo mới đoạn được. Sân và độc đầu ái, mạn cùng vô minh tương ưng với nó là do
mê riêng hữu tình hoặc cảnh sự tướng mà có, không trái với trí quán đế lý (vì
mấy thứ này không phải do lý Tứ đế mà khởi, nên nó không làm chướng ngại trí
quán lý Tứ đế), nên cần phải khi tu đạo mới đoạn được.
Tuy các phiền não này đều có tướng phần, nhưng bản chất để cho nó nương cậy mà
biến ra tướng phần thì hoặc có hoặc không, và được gọi là phiền não duyên hữu
sự hay là phiền não duyên vô sự (như duyên cảnh hiện tại có thật mà sanh phiền
não, gọi là phiền não duyên hữu sự có bản chất, còn duyên cảnh quá khứ, vị lại
v.v... mà sanh phiền não, thì gọi là phiền não duyên vô sự, không có bản chất).
Tướng phần thân sở duyên của nó tuy đều là pháp hữu lậu, nhưng bản chất của nó
nương cậy để biến ra tướng phần thì cũng thông cả pháp vô lậu và được gọi là
phiền não duyên hữu lậu hay phiền não duyên vô lậu mà khởi (như duyên pháp hữu
lậu Khổ, Tập đế mà sanh phiền não, thì gọi là phiền não duyên hữu lậu, còn
duyên pháp vô lậu Diệt, Ðạo đế mà sanh phiền não thì gọi là phiền não duyên vô
lậu, hay gọi hữu lậu, vô lậu duyên hoặc).
Phiền não duyên tự địa (nơi mình đang ở), thì tướng phần của nó tương tợ bản
chất và được gọi là duyên cảnh cụ thể do phân biệt khởi. Còn phiền não duyên
Diệt, Ðạo đế và tha địa (nơi khác, cõi khác) thì tướng phần của nó không tương
tợ bản chất, và được gọi là duyên cảnh trừu tượng danh ngôn do phân biệt khởi.
Còn các mặt phân biệt khác về mười phiền não, cứ như lý nên suy nghĩ.
- Ðã nói tướng sáu Phiền não căn bản, các Tùy phiền não tướng nó thế nào?
Tụng rằng:
Tùy phiền não là phẫn,
Hận, phú, não, tật, xan,
Dối, nịnh và hại, kiêu,
Vô tàm và vô quý,
Trạo cử với hôn trầm,
Không tín cùng giải đãi,
Phóng dật và không nhớ,
Tán loạn, không chánh tri.
Luận rằng: "Chỉ là tánh đẳng lưu và phận vị sai biệt của căn bản phiền não
gọi là Tùy phiền não (tức những phiền não tùy thuộc nơi căn bản phiền não mà
có)".
Tùy phiền não này gồm có hai mươi thứ chia làm ba loại. Mười thứ từ "phẫn,
hận" đến "hại, kiêu", mỗi mỗi thứ khởi riêng, nên gọi là Tiểu
tùy phiền não. Vô tàm, vô quý biến khắp các tâm bất thiện, nên gọi là Trung tùy
phiền não. Tám thứ từ "trạo cử" đến "bất chánh tri", biến
khắp tâm ô nhiễm, nên gọi là Ðại tùy phiền não.
Phẫn là thế nào? Là tánh tức giận đối với cảnh không nhiêu ích trước mắt, nó có
nghiệp dụng là chướng ngại tánh không tức giận. Nghĩa là người ôm lòng tức giận
thì thường phát hiện ra thân biểu nghiệp hung ác (như cầm gậy). Phẫn lấy một
phần sân nhuế làm tự thể. Lìa sân thì không có tướng và dụng của phẫn.
Hận là thế nào? Là tánh ôm lòng hung ác oán kết không bỏ về những điều đã tức
giận trước đó. Nó có nghiệp dụng là chướng ngại tâm không hận, dễ nóng nảy.
Nghĩa là người kết hận thì không thể ẫn nhẫn mà thường nóng nảy. Nó cũng lấy
một phần sân nhuế làm tự thể. Lìa sân nhuế thì không riêng có tướng và dụng của
hận.
Phú là thế nào? Là tánh che dấu tội lỗi mình đã làm, vì sợ mất lợi dưỡng danh
dự. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tâm không che dấu, dễ hối hận, bức não.
Nghĩa là người che dấu tội, về sau chắc chắn hối hận bức não không an.
Có ý kiến cho rằng "Phú" lấy một phần si làm tự thể, vì luận nói phú
là một phần của si, vì không biết sợ sự khổ tương lai (si) nên che dấu tội lỗi
mình.
Có ý kiến cho rằng phú nhiếp thuộc một phần tham và si, vì cũng sợ mất lợi
dưỡng danh dự mà che dấu tội mình. Luận cứ theo mặt thô hiển mà nói nó là một
phần của si. Như nói "Trạo cử" là một phần của tham, nhưng nói trạo
cử biến khắp các nhiễm tâm, thì không thể chấp nó chỉ là một phần của tham.
Não là thế nào? Là tánh tàn ác hung bạo truy xúc do phẫn, hận phát sanh. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại tâm không não, dễ hiểm độc ... Nghĩa là truy nhớ
điều oán ghét đã qua, lại gặp duyên ngang trái hiện ra trước mắt làm cho tâm
nổi tàn ác, phát sanh hung bạo, nói năng thô bỉ, hiểm độc với người. Nó cũng
lấy một phần sân nhuế làm tự thể. Lìa sân nhuế không riêng có tướng dụng của
não.
Tật là thế nào? Là tánh quay cuồng theo danh lợi, đố kỵ không chịu nổi trước sự
hiển vinh của người khác. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tâm không tật đố,
dễ lo buồn. Nghĩa là người có tâm đố kỵ khi thấy nghe người khác có sự vinh
hiển thì rất lo buồn không yên ổn. Nó cũng lấy một phần sân làm tự thể. Lìa sân
thì không có riêng tướng và dụng của tật.
Xan là thế nào? Là tánh xan lẫn, đắm trước trước tài và pháp không chịu huệ thí
cho ai. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tâm không xan tham, ưa cất chứa thấp
hèn. Nghĩa là người có tâm xan lẫn thì hay keo rít, cất chứa tài và pháp không
chịu thí xả. Nó cũng lấy một phần tham ái làm tự thể. Lìa tham thì không có
tướng và dụng của xan.
Cuống là thế nào? Là tánh vì muốn được lợi dưỡng danh dự mà trá ngụy dối hiện
mình có đức. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh không trá ngụy, ưa tà mạn.
Nghĩa là người kiêu cuống, tâm thường mưu kế kỳ lạ, dối hiện những điều bất
thật, tà mạn. Nó cũng lấy một phần tham, si làm tự thể. Lìa tham, si thì không
riêng có tướng và dụng của cuống.
Siễm là thế nào? Là tánh quanh co hiểm hóc, vì muốn gạt người mà dối bày các
hình nghi kỳ lạ. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh không dua nịnh và tánh
dễ dạy bảo. Nghĩa là người có tánh nịnh hót quanh co vì giăng lưới gạt người mà
chiều thuận theo thời nghi, dối bày phương tiện để được lòng người, hoặc che
dấu lỗi mình không chịu nghe lời dạy bảo của thầy bạn. Nó cũng lấy một phần
tham và si làm tự thể. Lìa tham và si thì không riêng có tướng và dụng của
siễm.
Hại là thế nào? Là tánh ưa làm tổn hại khổ não các hữu tình, không có chút
thương xót. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh không hại, ưa bức não. Nghĩa
là người có tâm hại thì ưa bức não người khác. Nó cũng lấy một phần sân nhuế
làm tự thể. Lìa sân nhuế thì không riêng cớ tướng và dụng của hại. Nên biết,
chuẩn theo mười một thiện, sân và hại, tướng khác nhau, không sân thì cho vui
(từ), không hại thì cứu khổ (bi) khác nhau.
Kiêu là thế nào? Là tánh mê say kiêu ngạo, nhiễm đắm sâu xa đối với sự vinh
thạnh của mình. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh không kiêu và làm chỗ
nương cho nhiễm đắm. Nghĩa là người mê say kiêu ngạo thì dễ sanh trưỏng hết
thảy điều tạp nhiễm. Nó cũng lấy một phần tham ái làm tự thể. Lìa tham ái thì
không riêng có tướng và dụng của kiêu.
Vô tàm là thế nào? là tánh không biết nhìn lại điều mình làm, cứ khinh khi
chống cự điều hiền thiện. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh biết hổ, sanh
trưởng điều ác. Nghĩa là đối với điều mình làm không biết nhìn lại, cứ khinh
khi chống cự hiền thiện, không biết hổ trước điều tội lỗi, sanh trưởng các điều
ác.
Vô quý là thế nào? Là tánh không biết nhìn người khác, cứ tôn sùng quý trọng
điều bạo ác. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh biết thẹn, sanh trưởng điều
ác. Nghĩa là không biết trông nhìn người khác, cứ nhắm mắt tôn sùng quý trọng
điều bạo ác, không biết hổ tội lỗi, sanh trưởng các ác hành.
Không biết hổ tội lỗi, là tướng thông cả hai thứ vô tàm, vô quý. Cho nên các
Thánh giáo giả nói là thể. Nếu chấp "không biết hổ" là hai tướng
riêng, không hổ theo vô tàm và không hổ theo vô quý, thì thể nó vẫn không sai
khác. Do đó mà hai pháp ấy không thể cùng sanh một lần, không phải như thọ và
tưởng có nghĩa đó. Nếu vì đối đãi với tự với tha mà lập ra vô tàm và vô qúy,
thì nó không phải thật có, bèn trái với Thánh giáo. Còn nếu chấp nhận hai thứ
đó là có thật thể mà phát khởi riêng biệt, thì lại trái với luận nói hai thứ đó
đều biến khắp các ác tâm. Khi tâm bất thiện nổi lên thì bất cứ duyên cảnh nào
cũng đều có tánh khinh khi chống cự điều thiện và tôn sùng quý trọng điều ác,
cho nên nói hai thứ vô tàm và vô quý này biến khắp các ác tâm, cảnh sở duyên
của hai thứ đó không khác, nên nó không có lỗi khởi riêng. Nhưng các Thánh giáo
nói không nhìn đến mình và người, là chính mình làm gọi là tự, thế gian gọi là
tha. Hoặc trong đó chống cự thiện hay tôn sùng ác đối với mình nó đem lại lợi
ích hay tổn hại mà gọi là tự và tha, nhưng luận nói nó là một phần của tham
v.v... tức là nói nó là phần đẳng lưu của tham v.v... chứ không phải chính tham
là tánh của tham v.v... chứ không phải tham là tánh của vô tàm, vô quý (tức do
tham diễn tiến mà thành vô tàm, vô qúy chứ nó không phải một phần của tham).
Trạo cử là thế nào? Là tánh khiến tâm không tịch tịnh đối với cảnh. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại hành xả và việc tu Xa ma tha (tức tu Chỉ).
Có ý kiến cho rằng trạo cử nhiếp thuộc về một phần tham. Luận chỉ nói nó là một
phần của tham, vì nó do nhớ lại chuyện vui ngày trước mà phát sanh.
Có ý kiến cho rằng trạo cử không phải nhiếp về tham, vì Luận nói: "Trạo cử
biến khắp các nhiễm tâm". Lại tướng của trạo cử là không tịch tịnh, vì nó
là tướng chung giữa các phiền não. Trạo cử nếu lìa các phiền não thì không có
tướng và dụng riêng. Tuy dựa tất cả phiền não mà giả lập, nhưng trong đó phần
tham tăng hơn nên nói trạo cử là một phần của tham.
Có ý kiến cho rằng trạo cử có tự tánh riêng, nó biến khắp các nhiễm tâm, như
bất tín v.v... không phải vì nói nó là một phần của cái khác mà thể nó không
thật. Chớ bảo bất tín v.v... cũng là giả hữu. Nhưng Luận nói: "Nó chỉ có
theo nghĩa thế tục, cũng như thùy miên v.v... ", đó là nói theo tướng của
cái khác (theo phiền não khác). Tướng riêng của trạo cử chính là tánh huyên
động làm cho Tâm, Tâm sở cùng sanh với nó không được tịch tịnh. Nếu lìa phiền
não, không riêng có tướng trạo cử, không nên nói riêng trạo cử làm chướng ngại
Xa ma tha. Cho nên không tịch tịnh, không phải là tướng riêng của trạo cử.
Hôn trầm là thế nào? Là tánh khiến tâm đối với cảnh không kham nỗi. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại khinh an và việc tu Tỳ bát xá na (tu Quán).
Có ý kiến cho rằng hôn trầm là một phần của si. Luận chỉ nói nó là si phần, hôn
muội trầm trầm trọng là tướng của si.
Có ý kiến cho rằng hôn trầm không phải chỉ nhiếp về si. Nghĩa là không kham nỗi
là tướng của hôn trầm. Tất cả phiền não đều có tánh không kham nỗi. Lìa tánh
không kham nỗi đó không riêng có tướng hôn trầm. Tuy dựa tất cả phiền não mà
giả lập hôn trầm, nhưng trong đó vì tướng si tăng hơn, nên chỉ nói hôn trầm là
một phần si.
Có ý kiến cho rằng hôn trầm có tự tánh riêng. Tuy gọi là si phần, nhưng là đẳng
lưu của si, cũng như bất tín v.v... không phải nó chính là si. Nói theo tha
tướng (là theo tham, sân, si mà có nó), gọi nó là có theo nghĩa thế tục, cũng
như thụy miên v.v... là có tánh thật. Tướng riêng của hôn trầm chính là hôn
muội trầm trọng, khiến cho Tâm, Tâm sở cùng sanh với nó cũng trầm trọng không
kham nỗi. Nếu lìa phiền não ra thì không riêng có tướng hôn trầm; không nên nói
riêng hôn trầm làm chướng ngại việc tu Tỳ bát xá na. Cho nên tính không kham
nỗi, không phải là tướng riêng của hôn trầm. Hôn trầm với tướng si có khác nhau
là, si thì mê ám đối với cảnh, trực tiếp chướng ngại không si, nhưng không phải
hôn mê trầm trọng. Còn tướng của hôn trầm là hôn mê trầm trọng đối với cảnh, và
trực tiếp chướng ngại khinh an, nhưng không phải mê ám.
Bất tín là thế nào? Là tánh của tâm ô uế không nhận chịu vui thích mong muốn
đối với Thật, Ðúc, Năng. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại lòng tin thanh tịnh,
và làm chỗ nương cho đọa lạc. Nghĩa là người không có lòng tin thì dễ biếng
lười, ba tướng của bất tín, ngược lại với tín là tin Thật, Ðức, Năng. Nhưng các
pháp ô nhiễm đều có tướng riêng, chỉ bất tín này tự tướng là ô trược lại làm ô
trược các Tâm, Tâm sở khác, như vật rất nhớp, tự làm nhớp lại làm nhớp vật
khác, cho nên nói bất tín lấy tâm ô uế làm tánh. Do bất tín nên đối với Thật,
Ðức, Năng không nhẫn chịu, vui thích, mong muốn chứ không phải bất tín có tánh
riêng. Nếu đối với việc khác mà tâm nhẫn chịu, vui thích mong muốn một cách tà
vạy, thì đó chỉ là nhân quả của không tin (thuộc tà dục, tà thắng giải) chứ
không phải là tự tánh của bất tín.
Giải đãi là thế nào? Là tánh lười biếng đối với việc tu thiện đoạn ác. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại tinh tấn và làm tăng ô nhiễm. Nghĩa là người lười
biếng thì nuôi lớn sự ô nhiễm. Người siêng năng theo việc ô nhiễm cũng gọi là
giải đãi, vì sự siêng năng đó làm hư mất điều thiện. Người siêng năng theo việc
vô ký thì đối với điều thiện cũng không có tiến thoái gì. Ðây chỉ thuộc dục và
tà thắng giải, chứ không có tánh riêng của sự siêng năng đó. Như đối với việc vô
ký mà nhẫn chịu, vui thích, mong muốn thì đó không phải là tịnh hay nhiễm, cũng
không phải là tín hay bất tín.
Phóng dật là thế nào? Là tánh phóng đảng, không biết phòng ngừa điều ô nhiễm,
tu điều thanh tịnh. Nó có nghiệp dụng làm chướng ngại tánh không phóng đảng và
làm chỗ dựa cho điều ác được tăng, điều thiện bị giảm. Nghĩa là do giải đãi và
tham, sân, si nên không ngăn ngừa ô nhiễm, không tu tập thanh tịnh, gọi chung
là phóng dật, chứ không phải có tự thể phóng dât riêng. Tuy mạn, nghi v.v...
cũng có khả năng này nhưng so với giải đãi và tham, sân, si thì mạn, nghi yếu
kém không mạnh như tham, sân si làm chướng ngại ba thiện căn và giải đãi là
chướng ngại tinh tấn (nên không dựa vào mạn, nghi để lập phóng dật). Suy cứu
tướng phóng dật cũng như tướng bất phóng dật.
Thất niệm là thế nào? Là tánh không ghi nhớ rõ ràng các cảnh sở duyên. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại chánh niệm và làm chỗ dựa cho tán loạn. Nghĩa là
người thất niệm thì tâm tán loạn.
Có ý kiến cho rằng thất niệm là một phần của niệm, vì đó là cái niệm có phiền
não tương ưng.
Có ý kiến cho rằng, thất niệm là một phần của si, vì luận Du già nói:
"Thất niệm là si phần". Si khiến cho niệm bị mất, nên gọi là thất
niệm.
Có ý kiến cho rằng thất niệm là một phần của tham, sân, si v.v... vì do hai văn
trước đối chiếu lược nói, vì Luận còn nói: "Thất niệm biến khắp các nhiễm
tâm".
Tán loạn là thế nào? Là tánh làm cho tâm lưu đẳng đối với cảnh sở duyên. Nó có
nghiệp dụng làm chướng ngại chánh định và làm chỗ dựa cho ác tuệ. Nghĩa là
người tán loạn thì phát sanh ác tuệ.
Có ý kiến cho rằng tán loạn nhiếp thuộc vào tham, sân, si, vì Tập Luận nói:
"Tán loạn là ba phần tham, sân, si". Luận Du già nói: "Tán loạn
là si phần", là vì nó biến khắp các tâm ô nhiễm, tức là tham, sân, si
khiến tâm lưu linh phóng đảng hơn pháp gì khác, nên nói là tán loạn.
Có ý kiến cho rằng tán loạn có thể tự thể riêng. Tập Luận nói: "Ba phần
tham, sân, si ...", đó là nói tán loạn là tánh đẳng lưu của ba thứ tham,
sân, si, như vô tàm v.v... chứ không phải nói tán loạn chính là tham, sân, si.
Tùy theo tướng khác (là tướng tham, sân, si) mà nói, gọi là có theo nghĩa thế
tục. Tướng riêng của tán loạn là tháo động nhiễu loạn khiến cho Tâm, Tâm sở
cùng sanh với nó đều bị lưu đẳng. Nếu lìa ba thứ tham, sân, si không có tự thể
tán loạn riêng, thì Luận không nên nói riêng tán loạn làm chướng ngại Tam ma
địa (định).
- Trạo cử và tán loạn tác dụng khác nhau thế nào? Trạo cử khiến tâm biến đổi sự
hiểu biết (cùng nơi một cảnh mà biến động, vừa hiểu này lại hiểu khác, không
yên như ngọn đèn soi một chỗ mà cứ nhấp nháy) tán loạn khiến tâm biến đổi cảnh
duyên (vừa duyên cảnh này đổi sang duyên cảnh khác không yên như ngọn đèn vừa
soi chỗ nsày lại soi chỗ khác lia lịa). Tuy trong một sát na thì hiểu biết và
cảnh duyên không đổi, nhưng trong nhiều sát na tiếp nối thì có sự biến đổi đó.
Trong khi tâm ô nhiễm, thường do năng lực của trạo cử và tán loạn mà làm cho
tâm biến đổi hiểu biết và biến đổi cảnh duyên. Nếu có lúc tâm đúng yên là hoặc
do năng lực của niệm v.v... chế phục như dây buộc khỉ, vượn khiến đứng yên tạm
thời, cho nên trạo cử và tán loạn đều biến khắp các tâm ô nhiễm.
Bất chánh tri là thế nào? Là tánh hiểu lầm đối với cảnh sở quán. Nó có nghiệp
dụng làm chướng ngại sự hiểu biết đúng, làm chỗ dựa cho sự hủy phạm.
Có ý kiến cho rằng bất chánh tri nhiếp về một phần của tuệ, tức tuệ có phiền
não tương ưng thành bất chánh tri. Có ý kiến cho rằng bất chánh tri là nhiếp về
một phần của si, vì luận Du già nói: "Bất chánh tri là si phần". Si
khiến cái biết không đúng, gọi là bất chánh tri.
Có ý kiến cho rằng bất chánh tri là một phần chung của các phiền não, vì do hai
văn trước đây đối chiếu lược nói, và luận còn nói: "Bất chánh tri biến
khắp các nhiễm tâm".
- Trong bài tụng có ba chữ "dữ, tinh, cập" là hiển thị tùy phiền não
không phải chỉ có 20 thứ, vì trong luận Tạp Sự nói: "Có nhiều thứ phiền
não của tham, sân v.v..."; nói: "Tùy phiền não cũng nhiếp luôn cả các
phiền não nhiễm ô khác ngoài 20 thứ trên", vì nó là tánh đẳng lưu của căn
bản phiền não trước kia. Các pháp phiền não nhiễm ô khác đồng loại với căn bản
phiền não thì chỉ gọi là Tùy phiền não, chứ không nhiếp vào căn bản phiền não.
Nay chỉ nói hai mươi Tùy phiền não là vì nó không phải căn bản phiền não, nó
chỉ ô nhiễm và thô trọng. Còn những pháp nhiễm khác hoặc là phận vị của Tùy phiền
não, hoặc là tánh đẳng lưu của Tùy phiền não, đều nhiếp thuộc vào đây. Tùy theo
loại khác nhau, như lý nên biết.
- Trong hai mươi Tùy phiền não như thế, tiểu tùy mười, đại tùy hai, chắc chắn
là giả có; còn vô tàm, vô quý, bất tín, giải đãi chắc chắn là thật có, vì có
giáo và lý chứng thành. Trạo cử, hôn trầm, tán loạn ba thứ, có ý kiến cho là
giả, có ý kiến cho là thật. Và dẫn giáo và lý làm chứng, như trước nên biết.
- Hai mươi Tùy phiền não đều có câu sanh và phân biệt, vì nó tùy theo thế lực
của hai thứ phiền não căn bản câu sanh và phân biệt phát khởi.
- Trong hai mươi Tùy phiền não đó, tiểu Tùy phiền não mười thứ từ phẫn, hận,
đến hại, kiêu là lần lượt thay nhau sanh khởi, chứ chắc chắn không cùng sanh
khởi một lần, vì tánh nó trái nhau. Hành tướng mỗi thứ thô trọng mãnh liệt, tự
làm chủ riêng. Còn trung Tùy phiền não hai thứ là vô tàm, vô quý thì tương ưng
với tất cả tâm bất thiện, nó cùng sanh khởi một lần với cả tiểu tùy và đại tùy.
Luận nói: "Ðại Tùy phiền não tám thứ từ bất tín, đến bất chánh tri thì
biến khắp các nhiễm tâm, nó thay nhau cùng sanh khởi với tiểu tùy, trung
tùy". Có chỗ nói sáu thứ là bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán
loạn và trạo cử tăng mạnh thì cùng khởi một lần. Có chỗ nói năm thứ biến khắp
nhiễm tâm vì hôn trầm, trạo cử chỉ trái với thiện, nghĩa là hôn trầm thì chướng
khinh an, trạo cử thì chướng hành xả.
- Hai mươi Tùy phiền não chỉ là ô nhiễm nên không tương ưng với thức thứ tám.
Thức thứ bảy chỉ là tương ưng với tám đại tùy. Hoặc thủ hoặc xả khác nhau nên
biết như trên. Thức thứ sáu tương ưng với đủ cả hai mươi thứ. Tiểu tùy mười, có
tánh thô mãnh không tương ưng với năm thức trước, trung tùy và đại tùy thông
nhau, trong năm thức đều có đủ.
- Do đó trung tùy, đại tùy tương ưng với năm thọ. Có ý kiến cho rằng tiểu tùy
mười trừ ba là siễm, cuống, kiêu, bảy thứ còn lại là phẫn, hận v.v... tương ưng
với ba thọ là hỷ, ưu, xả; ba thứ siễm, cuống, kiêu tương ưng với bốn thọ, trừ
khổ thọ. Có ý kiến cho rằng phẫn v.v... tương ưng với bốn thọ, trừ lạc thọ; còn
siễm, cuống, kiêu ba thứ thì tương ưng với cả năm thọ. Ý thức có khổ thọ, trước
đã nói.
Tướng Tùy phiền não tương ưng với năm thọ. Ba thứ còn lại tương ưng thêm lạc
thọ. Trung tùy, đại tùy thô tướng cũng có nghĩa đúng như thế.
- Hai mươi Tùy phiền não như thế đều cùng sanh khởi với năm Biệt cảnh, vì không
trái nhau. Niệm ô nhiễm, tuệ ô nhiễm (niệm ô nhiễm tức là thất niệm, tuệ ô
nhiễm tức bất chánh tri). Tuy không cùng phát sanh với niệm và tuệ, nhưng nó là
si phần (vô minh), nên cũng được tương ưng. "Niệm" cũng duyên được
loại cảnh hiện tại và thường tập quen, "Phẫn" cũng duyên được sát na
quá khứ, cho nên phẫn và niệm cũng được tương ưng nhau. Khi định ô nhiễm phát
khởi, tâm cũng tháo động nhiễu loạn, cho nên loạn và định tương ưng.
- Trung tùy hai, đại tùy tám, với mười thứ căn bản phiền não, cùng tương ưng
nhau. Tiểu tùy mười thứ chắc chắn không tương ưng với ác kiến và nghi, vì tướng
nó thô động; còn ác kiến và nghi thì thẩm xét vi tế. Phẫn, hận, não, tật, hại
năm thứ tương ưng với mạn và nghi, chứ không tương ưng với tham và sân, vì nó
là một phần của sân. Xan, si, mạn cùng tương ưng với nhau chứ không phải tham
và sân cùng tương ưng được, vì nó là một phần của tham. Kiêu thi tương ưng với
si, khác với mạn và giải đãi, là một phần của tham. Phú, cuống, siễm, tham, si,
mạn tương ưng nhau, vì hành tướng không trái nhau, đều là một phần của tham,
si.
Tiểu tùy bảy là phẫn, hận, não, phú, tật, kiêu, hại. Trung tùy hai là vô tàm,
vô qúy, chỉ nhiếp về tánh bất thiện. Tiểu tùy ba là siễm, cuống, kiêu. Ðại tùy
tám cũng thông cả tánh vô ký.
- Tiểu tùy bảy, trung tùy hai, chỉ nhiếp thuộc về Dục giới. Cuống và siễm thông
cả Dục và Sắc giới. Các thứ còn lại thông cả ba cõi. Sanh ở hạ địa, có thể khởi
sanh mười một thứ của thượng địa, vì tham đắm định cảnh mà khởi tâm kiêu, đối
với Dục giới lại khởi tâm cuống, siễm. Nếu sanh ở thượng địa thì khởi mười thứ
sau của hạ địa, tà kiến và ái tương ưng nhau nên có thể khởi lên nơi đó. Tiểu
tùy mười, khi sanh ở thượng địa, thì không còn lý do khởi lên ở hạ địa, vì nó
không phải thứ trực tiếp nhuận sanh và không phải tà kiến phỉ báng tịch diệt.
Trung tùy hai, đại tùy tám ở cõi dưới cũng duyên được ở cõi trên; vì tương ưng
với tham duyên cõi trên mà khởi vậy.
Có ý kiến cho rằng tiểu tùy mười thứ ở cõi trên dưới không thể duyên cõi trên;
vì hành tướng nó thô trọng, thiển cận không thể chấp thứ cảnh ở xa.
Có ý kiến cho rằng tật v.v... cũng duyên được cõi trên, vì đối với pháp ở cõi
cao hơn mà sanh tật đố. Ðại tùy tám thứ thêm siễm, cuống ở cõi trên cũng duyên
được cõi dưới; vì tương ưng với "mạn" duyên cõi dưới mà khởi lên vậy.
Ví như Phạm thiên đối với Thích tử khởi tâm siễm, cuống, "Kiêu" không
duyên cõi dưới vì không phải đối tượng đáng để ỷ thị.
-Hai mươi Tùy phiền não đều nhiếp thuộc phi học, phi vô học, vì nó chỉ là
nhiễm, mà học và vô học là tịnh.
-Mười thứ sau trong hai mươi Tùy phiền não chỉ thông kiến đạo và tu đạo đoạn,
vì nó tương ưng với hai thứ căn bản phiền não câu sanh và phân biệt khởi lên.
- Phiền não kiến sở đoạn là thứ phiền não tùy ở chỗ nó mê về tướng Tứ Ðế hoặc
tổng hoặc biệt, cùng lúc sanh ra, cho nên tùy sự thích ứng mà nó đều thông cả
bốn bộ hoặc (tức bốn bộ phiền não do mê lý Bốn đế phát sanh, phiền não do mê
một Ðế mà sanh, đó là một bộ hoặc, mê Bốn Ðế thành bốn bộ hoặc). Mê Bốn Ðế hoặc
trực tiếp mê, hoặc gián tiếp mê, đều nói như cách nói về phiền não.
Có ý kiến cho rằng mười thứ trước trong 20 Tùy phiền não chỉ là thứ phiền não
do tu đoạn, vì nhậm vận câu sanh, duyên cảnh sự tướng thô thiển.
Có ý kiến cho rằng nó cũng thông cả kiến đạo và tu đạo đọan, vì dựa theo thế
lực hai thứ căn bản phiền não là câu sanh và phân biệt khởi lên, vì duyên tà
kiến của người khác cũng sanh phẫn, hận v.v....
Kiến sở đoạn hoặc (phiền não do kiến đạo đọan trừ) là tùy theo năng lực nó
duyên Bốn đế hoặc tổng và biệt nên nó đều thông cả bốn bộ hoặc (bốn bộ phiền
não).
Trong đây có ý kiến cho rằng phẫn v.v... chỉ gián tiếp duyên theo lậu hoặc mê
lý Bốn đế phát sanh, chứ không phải trực tiếp mê lý Bốn Ðế; vì hành tướng nó
thô thiển không chấp thủ được đi sâu xa.
Có ý kiến cho rằng tật v.v... cũng trực tiếp mê lý Bốn Ðế, vì đối với Diệt Dế,
Ðạo Ðế sanh ganh ghét.
Nhưng mười thứ như phẫn, hận v.v... chỉ duyên các sự thật, vì phải dựa bản chất
của sự thật mới sanh dược. Duyên pháp hữu lậu, chuẩn theo trên đây mà biết.
Ðã nói tướng của hai mươi Tùy phiền não, bốn Bất định tâm sở, tướng nó thế nào?
Tụng nói:
Bất định là Hối, Miên,
Tầm, Tứ hai đều hai.
Luận rằng: "Bốn thứ Hối, Miên, Tầm, Tứ đối với thiện và nhiễm đều bất
định; không phải như xúc, tác ý v.v... định biến khắp các tâm; không phải như
dục, thắng giải v.v... định biến khắp các địa, cho nên lập tên bất định".
Hối là ố tác, là tánh ghét việc mình đã làm, truy ức hối hận; có nghiệp dụng
làm chướng ngại tu chỉ (vì hối thì hay trạo cử). Ðây là danh từ chính nơi quả
(truy hối) mà giả lập nhân (ố tác), trước ghét việc mình đã làm (nhân), sau mới
nhớ lại hối hận (quả); hoặc hối hận sao trước kia ta không làm, cũng là ố tác,
như truy hối rằng: " Sao ta trước kia không làm việc như thế, như thế, ấy
là ố tác".
Miên là thụy miên, ngủ nghỉ, có tánh khiến tâm muội lược (liệt), thân
không tự tại, và có nghiệp dụng làm chướng ngại tu quán (vì miên thì hay hôn
trầm). Nghĩa là khi nó ngủ mê thì thân không tự tại, tâm rất hôn ám bại liệt,
nó chỉ một mặt hướng bên trong. "Muội" là khác với khi tu định,
"lược" là khác với khi thức. Ðể hiển bày thụy miên không phải là
không có thể dụng, tuy ở năm vô tâm vị (là khi không có ý thức khởi lên, vô tâm
như khi nhập Vô tưởng định, Diệt tận định, thùy miên, chết ngất, trời Vô tưởng)
cũng giả lập tên gọi thùy miên nhưng cũng như năm cái và mười triền. Năm cái là
năm thứ ngăn che tâm, là tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thụy miên, trạo cử ố
tác, và nghi. Mười triền là mười thứ trói buộc tâm, là vô tàm, vô quý, tật xan,
hối, miên, trạo cử, hôn trầm, phẫn, phú) tương ưng với tâm (cho nên nói định có
thật thể dụng).
- Có ý kiến cho rằng : "Hối và miên đó lấy si làm thể, vì luận Du già nói:
"Nó là Tùy phiền não và si phần".
- Có ý kiến cho rằng nói thế không đúng, vì Hối, Miên cũng thông cả thiện
tánh. Nên nói hai thứ đó nếu ô nhiễm thì lấy si làm thể, nếu thanh tịnh tức lấy
không si làm thể. Luận dựa theo phần nhiễm mà nói Hối, Miên là nhiếp vào Tùy
phiền não và si phần.
- Có ý kiến cho rằng kia nói thế cũng không đúng lý, vì Hối, Miên cũng thông vô
ký mà vô ký thì tánh không phải si và không si. Nên nói ố tác lấy tư và tuệ làm
thể, vì do tuệ và tư suy xét chọn lựa việc làm. Còn thùy miên thì hợp dùng một
phần tư và tưởng làm thể, vì khi ngủ vẫn tư tưởng các cảnh mộng. Vì Luận đều
nói nó chỉ có theo nghĩa thế tục. Tánh nhiễm ô của Hối, Miên là tánh đẳng lưu
của si; như bất tín là si phần.
Có ý kiến cho rằng nói thế không đúng, vì không phải tư, tuệ, tưởng, mà chính
lấy sự triền phược thân tâm là tánh của Hối, Miên. Nên nói hai thứ Hối, Miên
đều có tự thể riêng, vì có hành tướng khác với các Tâm sở khác, nhưng vì tùy
theo tướng si mà nói có Hối, Miên, nên gọi là có theo thế tục.
Tầm là tìm cầu, là tánh khiến tâm mau chóng đối với cảnh ý ngôn, quán sát một
cách thô thiển.
Tứ là tư sát, là tánh khiến tâm mau chóng đối với cảnh ý ngôn (cảng của ý thức
tiếp nhận phần nhiều dựa theo danh ngôn, nói cách khác là cảnh chỉ có trên danh
ngôn, chứ không có trên thực tế - đản hữu giả danh, đô vô thật nghĩa). Quán sát
một cách tế nhị, cả hai thứ Tầm và Tứ này đều có nghiệp dụng làm chỗ nương để
thân tâm được an trú hay không an trú. Nó lấy một phần tư và tuệ làm thể, vì
đối với cảnh ý ngôn suy đạt nông cạn hay sâu xa mà Tầm và Tứ thành có nghĩa
khác nhau. Nếu lìa tư và tuệ thì hai thứ Tầm và Tứ không có thể loại riêng.
- Trong bài Tụng chữ "hai đều hai" có ý kiến cho rằng Tầm và Tứ mỗi
thứ đều có nhiễm và tịnh hai loại.
Có ý kiến cho rằng lời giải thích trên không đúng, vì Hối và Miên cũng có hai
loại nhiễm và tịnh. Nên nói như trước các Tâm sở nhiễm có thứ là phiền não, có
thứ là Tùy phiền não. Hai thứ Hối, Miên và Tầm, Tứ này đều có tánh bất thiện và
vô ký; hoặc là mỗi thứ đều có triền (hiện hạnh) và tùy miên (chủng tử).
Có ý kiến cho rằng lối giải trên cũng không đúng, vì bài Tụng sau khi nêu đủ
bốn thứ bất định mới nói đến chữ "hai đều hai" đó. Vậy nên nói
"hai" là chỉ cho hai thứ: Một là Hối, Miên, hai là Tầm, Tứ. Hai thứ
có hai đó, chủng loại khác nhau. Cho nên nói một chữ "hai" là hiển
thị hai thứ hai. Nghĩa là mỗi thứ đều có hai là nhiễm và không nhiễm, chứ không
phải như các Tâm sở kia hoặc chỉ là thiện, hoặc chỉ là nhiễm. Hoặc chỉ đơn giản
biệt với Tâm sở nhiễm cho nên nói "hai đều hai" đó. Có ngưòi cũng nói
bốn thứ đó là Tùy phiền não.
Nay vì để hiển thị nghĩa "Bất định" của bốn thứ kia, nên nói"
hai đều hai". Tụng nói như thế rất có tác dụng vậy.
- Trong bốn thứ đó, Tầm và Tứ chắc là giả có, vì Thánh nói: "Nó là do tư
và tuệ hợp thành". Hối và Miên có người cũng nói là giả có, vì luận Du già
nói: "Nó chỉ có theo thế tục".
Có ý kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên là thật có, chỉ hai thứ Tầm Tứ là giả có.
Nói "có theo thế tục" là nói dựa theo tướng phiền não khác mới có,
chứ không phải chỉ hai thứ Hối, Miên là giả có. Lại như chủng tử ở trong thức,
thể nó tuy thật mà có luận cũng nói "chỉ có theo thế tục".
Trong bốn thứ đó Tầm và Tứ không tương ưng nhau, vì thể loại tuy đồng mà bên
Tầm thô, bên Tứ tế khác nhau.
Dựa theo Tầm, Tứ có nhiễm hay lìa nhiễm mà lập ra ba địa khác nhau là hữu tầm
hữu từ địa (cõi Dục và Sơ Thiền gia hạnh), vô tầm duy từ địa (Sơ Thiền căn bản),
vô tầm vô từ địa (Nhị Thiền), chứ không dựa theo chủng tử hiện hành của nó có
hay không, cho nên không tạp loạn. - Tầm, Tứ và Hối, Miên tương ưng được với
nhau. Hối, Miên cũng tương ưng nhau.
- Cả bốn thứ đều không tương ưng với thức thứ bảy, thứ tám, như trước đã nói.
Hối, Miên chỉ tương ưng với thức thứ sáu, chứ không tương ưng với năm thức
trước. Có ý kiến cho Tầm, Tứ cũng tương ưng năm thức trước, vì luận nói:
"Năm thức có Tầm Tứ".
Lại nói Tầm, Tứ chính là bảy cách phân biệt, đó là hữu tướng phân biệt, vô
tướng, nhậm vận, tầm cầu, tư sát, nhiễm ô, bất nhiễm ô phân biệt. Luận Tạp Tập
lại nói: "Nhậm vận phân biệt", đó là ngũ thức (ngũ thức chỉ phân biệt
một cách nhậm vận tự nhiên, chứ không phân biệt theo cách có tầm cầu, tư sát).
- Có ý kiến cho rằng Tầm, Tứ chỉ tương ưng với ý thức. Luận nói: "Tầm cầu,
tư sát đều là pháp riêng của ý thức".
- Lại nói Tầm, Tứ tương ưng với ưu và hỷ thọ, chứ không nói tương ưng với khổ
và lạc thọ; còn xả thọ thì biến khắp, không đợi nói. Tại sao không nói Tầm Tứ
tương ưng với khổ và lạc thọ? Tuy ở Sơ tịnh lự (Sơ Thiền), ý địa vẫn có lạc
thọ, nhưng lạc đó không rời hỷ, nên chung gọi là hỷ. Tuy ở chỗ thuần khổ, có
khổ thọ nơi ý địa, nhưng nó tương tợ với ưu, nên gọi chung là ưu.
Lại nói Tầm, Tứ lấy danh thân, cú thân v.v... làm cảnh sở duyên, chứ không phải
năm thức trước mà có thể lấy danh thân, cú thân v.v... làm cảnh sở duyên. Như
Luận Du già nói: "Ở năm thức có Tầm, Tứ", là hiển thị Tầm, Tứ suất
nhĩ, phần nhiều do năm thức dẫn khởi, chứ không phải nói Tầm, Tứ tương ưng với
năm thức. Luận Tạp Tập nói: "Nhậm vận phân biệt", đó là năm thức, với
nghĩa phân biệt được nói trong luận Du già có khác nhau. Tạp Tập kia nói:
"Nhậm vận phân biệt" chính là năm thức tức chỉ cho tự tánh phân biệt;
còn Du già bảy thứ phân biệt chính là Tầm, Tứ tương ưng với ngũ câu ý thức. Cho
nên kia dẫn chứng đó không thành. Do đó năm thức quyết định không có Tầm, Tứ.
- Có ý kiến cho rằng ố tác tương ưng với ưu và xả thọ, vì nó chỉ có trong khi
lo âu, thông cả tánh vô ký.
Thụy miên tương ưng với cả hỷ, ưu và xả thọ, vì hành tướng nó thông cả khi
trung dung vừa mừng vừa lo. Tầm, Tứ tương ưng với cả ưu, hỷ, xả, lạc thọ, vì ở
Sơ tịnh lự ý thức tương ưng với lạc.
- Có ý kiến cho rằng bốn thứ Bất định đó cũng tương ưng với khổ thọ, vì ở trong
chỗ thuần khổ, ý thức tương ưng với khổ.
- Bốn thứ tâm sở Bất định đó dều tương ưng với năm Biệt cảnh, vì hành tướng và
sở duyên của hai bên không trái nghịch nhau.
- Hối, Miên chỉ tương ưng với mười Thiện tâm sở, vì chỉ ở cõi Dục không có tâm
khinh an. Tầm, Tứ thì tương ưng cả mười một Thiện tâm sở, vì trong Sơ tịnh lự
vẫn tương ưng với khinh an. Hối chỉ tương ưng với vô minh. Vì hành tướng nó thô
mà tham v.v... thì vi tế, Thụy miên, Tầm, Tứ tương ưng với mười tiểu Tùy phiền
não, vì kia, dây qua lại không trái nhau.
Hối cũng tương ưng với trung, tùy, đại tùy hoặc, chứ không phải với phẫn, vì
phẫn v.v... mười tiểu tùy, vì tiểu tùy mỗi thứ đều tự chủ. Thụy miên, Tầm, Tứ
tương ưng với cả hai mươi Tùy phiền não, vì trong khi thụy miên đều khởi lên
các phiền não đó.
Bốn bất định tâm sở đều thông cả ba tánh thiện, ác, vô ký, vì trong nghiệp vô
ký cũng có truy hối.
- Có ý kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên chỉ có sanh đắc thiện, vì hành tướng thô
bỉ và muội lược. Còn hai thứ Tầm, Tứ cũng thông cả gia hạnh thiện (sanh đắc
thiện do đã tập quen từ trước, bây giờ sanh ra là có, gia hạnh thiện là điều
thiện do cố gắng gần bạn lành, nghe Chánh pháp rồi suy nghĩ thực hành mà có
được), vì trong khi nghe thành tuệ vẫn có Tầm, Tứ.
- Có ý kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên cũng có gia hạnh thiện, vì trong khi văn
và tư vẫn có Hối, Miên. Ba thứ Miên, Tầm, Tứ đều thông cả nhiễm tịnh và vô ký;
còn ố tác (hối) thì không phải nhiễm, vì sự liễu giải thô mảnh.
Trong bốn tịnh vô ký là Dị thục, Oai nghi, Công xảo, Biến hóa (thân quả báo Dị
thục trong ba cõi là Dị thục; đi, đứng, nằm, ngồi là oai nghi; khắc chạm vẽ là
công xảo, biến hóa thần thông là biến hoá). Hối chỉ có hai thứ vô ký giữa vì
hành tướng nó thô mảnh, không phải định (biến hóa vô ký) và quả báo (Dị thục vô
ký). Miên thì chỉ trừ vô ký thứ tư, vì không phải do định dẫn sanh, trong tâm
Dị thục sanh cũng có Miên vậy. Tầm, Tứ trừ vô ký đầu, vì sự liễu giải của nó vi
tế liệt nhược, không thể tầm sát được các danh nghĩa.
Ố tác và thụy miên chỉ có ở cõi Dục. Tầm, Tứ có cả ở Dục giới, và Sơ tịnh lự,
vì các pháp ở các địa trên đều diệu tịnh, nên không có bốn Bất định Tâm sở này.
Hối, Miên khi sanh thượng địa chắc không còn hiện khởi. Tầm, Tứ khi sanh ở
thượng địa cũng có thể duyên cảnh hạ địa, khi sanh ở hạ địa cũng có thể duyên
cảnh thượng địa.
- Có ý kiến cho rằng hối, Miên không thể duyên thượng địa, vì hành tướng nó thô
lậu rất muội lược.
- Có ý kiến cho rằng Hối, Miên cũng duyên được cảnh thượng địa, vì như người có
tà kiến hối hận việc tu định của cõi trên và vì mộng cũng có thể duyên khắp các
việc đã trải qua.
- Hối không phải có ở vị vô học, vì khi lìa dục đã bỏ Hối. Thụy miên, Tầm, Tứ
đều thông cả ba học. Người cầu giải thoát, có thiện pháp hữu vi, đều gọi là
học. Người học đã đến cứu cánh có thiện hữu vi, thì gọi là vô học (thiện pháp
này còn sanh diệt nên gọi là hữu vi).
Hối, Miên chỉ thông kiến đạo, tu đạo đoạn trừ, vì nó cũng do thế lực tà kiến
khởi lên, vì không phải do vô lậu đạo trực tiếp dẫn sanh, nên cũng chẳng phải
như ưu căn do tham cầu giải thoát mà có, hoặc vì đã đoạn rồi thì gọi là không
phải đoạn. Tầm, Tứ tuy không phải chơn vô lậu đạo, nhưng có thể dẫn sanh vô lậu
đạo và từ vô lậu đạo dẫn sanh, nên nó nhiếp đủ cả kiến, tu và phi sở đoạn.
- Có ý kiến cho rằng Tầm, Tứ là phi sở đoạn, và trong năm pháp (là tướng, danh,
phân biệt, chánh trí, như như), nó chỉ nhiếp về phân biệt, vì luận Du già nói:
"Tầm Tứ là phân biệt".
- Có ý kiến cho rằng Tầm, Tứ cũng nhiếp thuộc chánh trí, vì chánh tư duy trong
Tám chánh đạo là vô lậu; vì chánh tư duy có thể khiến tâm tầm cầu. Lại nói Tầm,
Tứ là nguyên nhân của ngôn thuyết (có Tầm, Tứ mới khởi ngôn thuyết).
Ở địa vị chưa cứu cánh thì chưa thể biết khắp thuốc và bịnh, (thuốc là pháp môn
tu, bịnh là tâm bịnh của chúng sanh), do đó ở trong trí hậu đắc, muốn nói pháp
dạy người, phải nhờ đến Tầm, Tứ chứ không phải như ở Phật địa, vô công dụng mà
nói. Cho nên Tầm, Tứ cũng thông vô lậu. Tuy nói Tầm, Tứ là phân biệt, nhưng
không nhất định nói nó thuộc pháp phân biệt thứ ba, vì trong chánh trí hậu đắc
cũng ... phân biệt.
Còn phân biệt bốn Tâm sở Bất định này theo các mặt khác, chuẩn như trên mà
biết. (39)
- Sáu vị Tâm sở pháp như trên là lìa Tâm vương có tự tánh riêng hay chính là
phận vị sai biệt của Tâm vương? Nếu vậy có lỗi gì?
Cả hai cách đều có lỗi. Vì nếu lìa Tâm vương (tâm thể) có tự tánh riêng thì tại
sao Thánh giáo nói chỉ có thức (chứ không nói Tâm sở). Lại tại sao nói tâm một
mình đi xa (chứ không nói Tâm sở). Sáu giới là địa, thủy, hỏa, phong, không
thức hợp thành hữu tình (chứ không nói Tâm sở hợp thành). Luận Trang Nghiêm nói:
" Lại làm sao thông được? " Như luận đó nói tụng rằng:
Cho tâm tợ hai hiện
(tợ hai pháp thiện nhiễm mà hiện)
Như vậy, tợ "tham" thảy.
Hoặc tương tợ "tín" thay,
Không pháp nhiễm, tịnh riêng.
Nếu Tâm sở chính là phận vị sai biệt của tâm thì tại sao Thánh giáo nói cùng
với tâm tương ưng. Có tánh riêng mới tương ưng, chứ không phải tự tánh mà tương
ưng tự tánh. Lại làm sao nói Tâm và Tâm sở cùng thời khởi như mặt trời và ánh
sáng. Và luận Du già nói: "Lại làm sao thông được". Luận này nói rằng
Tâm sở chẳng phải chính là tâm. Như bài Tụng trong luận kia rằng:
Năm chủng tánh không thành
(ngũ chủng tánh thủ uẩn)
Phận vị sai biệt, lỗi (nói do phận vị sai biệt mà lập năm uẩn, sai)
Vì nhân duyên không khác
(trong một sát na)
Là trái với Thánh giáo.
Nên nói Tâm sở lìa tâm có tự tánh riêng.
Vì Tâm thắng hơn nên nói là Duy thức, vì Tâm sở dựa thế lực của tâm mà sanh nên
nói tâm tợ kia hiện, chứ không phải pháp thiện kia chính là tâm.
Lại phàm nói chữ "Thức tâm" là cũng nhiếp luôn cả Tâm sở, vì thường
tương ưng với tâm. Do đó nói chữ "Duy thức" và nói "hiện tợ
kia" đều không có lỗi. Nhưng đây là chỉ dựa theo nghĩa thế tục mà nói là
có, còn theo thắng nghĩa thì Tâm sở và Tâm chẳng phải lìa, chẳng phải tức. Các
thức trông qua lại với nhau, nên biết cũng thế.
Ðó là diệu lý chơn tục của Ðại thừa.
- Ðã nói Tâm sở tương ưng với sáu thức, vậy làm sao biết phận vị hiện khởi của
nó?
Tụng rằng:
nương dựa thức căn bản,
Năm thức theo duyên hiện,
Ðồng thời khởi, hoặc không,
Như sóng mòi nương nước,
Ý thức thường hiện khởi,
Trừ sanh trời Vô tưởng,
Và hai định Vô tâm,
Khi ngủ say, chết ngất.
Luận rằng: Căn bản thức tức là thức A đà na thứ tám, là căn bản sanh ra các
thức nhiễm tịnh. Nương dựa là sáu chuyển thức trước lấy căn bản thức này làm
chỗ nương trực tiếp chung.
Năm thức là năm chuyển thức trước. Có chủng loại giống nhau, cho nên chung lại
để gọi chữ "tùy duyên hiện" là nói nó không phải thường sanh khởi.
"Duyên" tức là tác ý, căn, cảnh, không, minh, Căn bản y (tức thức thứ
tám), Nhiễm tịnh y (tức thức thứ bảy), Phân biệt y (tức thứ sáu), Chủng tử y.
Nghĩa là năm thức thân, bên trong nương căn bản thức, bên ngoài tùy theo tác ý
và năm căn, năm cảnh, khi đủ các duyên hòa hợp mới hiện khởi được. Do đó hoặc
cùng khởi lên một lần, hoặc không, vì ngoại duyên hợp lại có khi gấp, khi dần
dần, như sóng nước tùy theo duyên nhiều ít mà nổi lên. Pháp và dụ như thế, nói
rộng như trong kinh.
Do năm chuyển thức hành tướng thô động, nương cậy các duyên nhiều khi không đủ,
cho nên lúc sanh khởi thì ít mà lúc không sanh khởi thì nhiều. Còn ý thức thứ
sáu tuy cũng thô động, nhưng các duyên mà nó nương cậy không lúc nào không có
đủ, chỉ khi do duyên trái ngược (như vô tâm định), mới có lúc không sanh khởi.
Còn thức thứ bảy, thức thứ tám thì hành tướng vi tế, các duyên mà nó nương cậy
lúc nào cũng có, cho nên nó không bị chướng ngại về duyên làm cho nó không hiện
hành.
Lại năm thức thân không thể tư lự, chỉ chuyển hướng ra bên ngoài nhờ nhiều
duyên mới khởi được, cho nên lúc gián đoạn thì nhiều, mà lúc hiện hành thì ít.
Ý thức thứ sáu, tự mình tư lự, chuyển hướng cả bên trong, bên ngoài, không cần
nhờ nhiều duyên cho nên chỉ trừ năm trường hợp không hiện khởi mà thôi. Vì vậy
Ý thức gián đoạn thì ít, mà hiện khởi thì nhiều. Do đó không nói Ý thức tùy
duyên hiện như năm thức.
Năm trường hợp là gì? Ðó là sanh cõi trời Vô tưởng v.v...
Trời Vô tưởng là người tu định Vô tưởng, do sức nhàm chán tư tưởng thô phù mà
được sanh trong cõi trời kia, trái với Tâm, Tâm sở không hằng hành, chỉ lấy sự
diệt tưởng làm chính, nên gọi là trời Vô tưởng. Cho nên ở tại đây sáu chuyển
thức đều đoạn.
- Có ý kiến cho rằng ở cõi trời kia thường không có sáu thức, vì Thánh giáo
nói: "Ở cõi kia không có chuyển thức" nói: "Ở đó chỉ có sắc
thân" (chi sắc trong 12 chi),lại nói: "Ở đó là chỗ vô tâm".
Có ý kiến cho rằng ở cõi trời kia khi sắp mệnh chung phải khởi lên chuyển thức
sau đó mới mệnh chung, vì trời kia phải khởi lên phiền não ái nhuận sanh về cõi
dưới. Luận Du già nói: "Khi tư tưởng lúc sau cùng hiện ra thì các hữu tình
cõi ấy theo đó liền mất". Nhưng nói cõi trời đó không có chuyển thức là
dựa vào thời gian lâu dài mà nói, chứ không phải hoàn toàn không có.
- Có ý kiến cho rằng ở trời Vô tưởng khi sanh cũng có chuyển thức, vì thân
trung hữu kia chắc chắn phải khởi phiền não ái nhuận sanh, như thân bản hữu ở
các cõi Thiền, lúc mới sanh cũng phải có chuyển thức (từ khi chết đến khi sanh
là thân trung hữu hay trung ấm, khi thụ sanh là thân sanh hữu từ khi sanh đến
khi chết là thân bản hữu, khi chết là thân tử hữu. Gọi là bốn hữu lưu chuyển).
Luận Du già nói: "Nếu sanh cõi trời Vô tưởng, chỉ có nhập định mà không
khởi định". Nếu có tư tưởng khởi sanh thì liền chết mất ngay đó. Giả nói
bước đầu sanh của thân bản hữu, nếu không có chuyển thức thì làm sao có thể gọi
là nhập định? Vì trưóc có sau không mới gọi là nhập.
Lại trong Quyết trạch phần của luận Du già nói: "Ở trời kia những Tâm, Tâm
sở sanh đắc đã diệt hết gọi là vô tưởng". Câu này ý nói bước đầu sanh của
thân bản hữu kia có chuyển thức Dị thục sanh tạm khởi, chỉ do sức nhân duyên đã
tập định từ trước mà sau đó chuyển thức không còn sanh lại. Do sức định Vô
tưởng đó dẫn khởi ra phận vị sai biệt của Dị thục vô ký mà gọi là vô tưởng. Như
hai định Vô tưởng và diệt tận do gia hạnh thiện dẫn sanh, nên được gọi là
thiện. Nếu không như vậy, hết thảy chuyển thức không hiện hành, thì sao nói chỉ
có Tâm, Tâm sở sanh đắc đã diệt hết? Cho nên biết trong bước đầu sanh ở cõi
trời Vô tưởng vẫn có sáu chuyển thức tạm khởi.
- Trời Vô tưởng chỉ ở tại đệ Tứ tịnh lự (Tứ Thiền), vì ở cõi dưới thì tư tưởng
thô động khó đoạn trừ, mà thân Dị thục ở cõi Vô sắc trên thì không có chỗ Dị
thục vô tưởng. Chính do tư nghiệp dẫn phát ra Vô tưởng định mà chiêu cảm quả dị
thục ở cõi trời Vô tưởng.
Trong bài tụng câu: "Và hai định Vô tâm" là Vô tưởng định và Diệt tận
định. Ở hai định này đều không có sáu thức, nên gọi là vô tâm.
Vô tưởng định là có kẻ dị sanh (phàm phu) dẹp được lòng tham câu sanh của cõi
trời Biến tịnh ở Tam Thiền, nhưng chưa dẹp được lòng tham ở cõi trời trên, do
trưóc tiên tác ý về tưởng xuất lý làm cho Tâm, Tâm sở bất hằng hành (nơi ý
thức) đoạn diệt, lấy sự tưởng diệt đó làm đầu mà lập tên Vô tưởng. Và làm cho
thân an hòa nên gọi là Ðịnh. Tu tập định này có ba bậc: Bậc tu hạ là pháp tu
hiện tại bị thối mà không thể mau chóng làm cho nó phát hiện trở lại, nên sau
đó sanh cõi trời Vô tưởng, thân không mấy sáng sạch, hình sắc không mấy rộng
lớn. Ðịnh giữa chừng chết yểu. Tu bậc trung là pháp tu hiện tại không bị thối,
giả sử có thối cũng mau chóng phát sanh trở lại, nên sau đó sanh cõi trời Vô
tưởng, tuy thân rất sáng sạch, hình sắc rộng lớn, nhưng không hoàn toàn. Tuy có
chết yểu nhưng không chắc chắn. Tu bậc thượng là pháp tu hiện tại không thối.
Sau đó sanh cõi trời Vô tưởng, thân rất sáng sạch, hình sắc rộng lớn, không bị
chết yểu, sống hết tuổi thọ mới chết.
Ðịnh này chỉ thuộc vào đệ Tứ tịnh lự. Lại là thiện, vì do thiện gia hạnh dẫn
sanh. Hạ địa và thượng địa không có định này, như đoạn trước ở cõi trời Vô
tưởng đã nói. Trong bốn nghiệp là thuận hiện thọ, thuận sanh thọ, thuận hậu
thọ, thuận bất định thọ; định này có ba thứ, trừ nghiệp thuận hiện thọ.
- Có ý kiến cho rằng định này chỉ khỏi lên ở Dục giới, do sức thuyết giáo của
ngoại đạo mà khởi lên, vì ở trong loài Người mới có tuệ giải rất mãnh lợi.
- Có ý kiến cho rằng trước tu tập ở cõi Dục, sau sanh lên cõi Sắc, có thể dẫn
phát hiện ra, trừ sanh trời Vô tưởng và trời Cứu cánh.
Ðịnh Vô tưởng này do nhàm chán tư tưởng và hân thích quả báo cõi trời Vô tưởng
kia mà nhập định, cho nên nó chỉ là hữu lậu, chứ không phải Thánh định vô lậu.
- Diệt tận định là bậc Thánh Hữu học, Vô học, hoặc là bậc Thánh Hữu học mà đã
đè bẹp hoặc lìa hết lòng tham câu sanh ở cõi Vô sở hữu xứ, còn lòng tham cõi
Phi phi tưởng không nhất định. Do trước hết tác ý về sự ngưng dứt tưởng làm cho
Tâm, Tâm sở ô nhiễm bất hằng hành nơi sáu thức và một phần hằng hành nơi thức
thứ bảy diệt hết, mà lập tên Diệt tận. Và vì làm cho thân an hòa nên cũng gọi
là định. Lại do nhàm chán riêng "thọ" và "tưởng", nên cũng
gọi là định Diệt thọ tưởng.
Tu Diệt tận định này có ba bậc: Tu bậc hạ thì pháp tu hiện tại bị thối rồi là
không thể mau chóng làm phát sanh trở lại.Tu bậc trung là pháp tu hiện tại
không bị thối, giả sử có bị thối cũng mau chóng làm phát sanh trở lại. Tu bậc
thượng, hoàn toàn không bị thối.
Ðịnh này khi mới tu phải dựa ở cõi trời Hữu đỉnh (Phi phi tưởng thiên), duyên
lịch quán pháp vô lậu làm gia hạnh mà nhập. Trong chín bậc định thứ lớp (Tứ
thiền, Tứ không và Diệt tận định), định này ở cuối cùng , và tuy thuộc cõi Hữu
đỉnh nhưng nhiếp về vô lậu.
Nếu khi tu định này đã được tự tại xuất nhập, thì ở những tâm sau cùng của bảy
địa kia (ngoài Hữu đỉnh) định này cũng được hiện tiền. Ðịnh này tuy nó thuộc
Ðạo đế, nhưng nhiếp về chẳng phải học, vô học, vì ở đây là tương tợ như Niết
bàn.
Ðịnh này khi mới khởi tu là ở trong cõi Người, nhờ sức thuyết giáo của Phật và
đệ tử Phật mà phát khởi; và vì ở trong cõi Người có tuệ giải cực mãnh lợi. nhờ
tu ở cõi Dục mà sau sanh lên hai cõi trên này cũng được hiện tiền. Kinh Ô đà di
là chứng cứ cho điều này. Cõi trời Vô sắc cũng gọi là trời Ý thành. Người đối
với giáo lý dạy về Tạng thức chưa có lòng tin, thì tuy có sanh cõi Vô sắc cũng
không phát khởi định này, vì họ sợ không còn sắc tâm thì trở thành đoạn diệt.
Nhưng người đã có tâm tin đối lý Tạng thức, thì khi sanh cõi Vô sắc, định này
cũng được hiện ra, vì họ biết có Tạng thức, không sợ đoạn diệt.
- Cần phải đoạn hết lậu hoặc thuộc kiến sở đoạn của ba cõi mới phát khởi định
này, vì hàng Dị sanh phàm phu không thể dẹp và dứt Tâm Tâm sở do kiến sở đoạn
của cõi Hữu đỉnh. Lại Ðịnh này vi diệu phải do trí Hậu đắc sau khi chứng hai
Không mới dẫn phát sanh.
Có ý kiến cho rằng đối trong nhóm lậu hoặc tu sở đoạn của tám địa dưới (chín
địa trừ Phi phi tưởng còn tám) phải dứt hết chín phẩm tu hoặc của cõi Dục, và
khắc phục tu hoặc của bảy địa kia, vậy sau mới phát khởi được định này. Vì
chủng tử lậu hoặc cõi Dục có đủ hai tánh là bất thiện và hữu phú rất phiền tạp,
làm chướng ngại Ðịnh diệt tận này rất mạnh. Kinh luận nói chỉ quả Bất hoàn, Tam
thừa vô học, và các Bồ tát, mới có thể được định này. Các vị ấy tùy thích mà
sanh lên tám địa trên, sau đó đều khởi lên được định này.
Có ý kiến cho rằng phải đoạn hết lậu hoặc thuộc loại tu sở đoạn ở bốn địa dưới,
và dẹp hoặc đoạn các lậu hoặc của năm địa khác, vậy sau mới bắt đầu khởi lên
định này, vì chủng tử phiền não tương ưng với biến dị thọ (là khổ, lạc, ưu, hỷ)
ở bốn địa dưới, làm chướng ngại việc tu định này rất mạnh. Các vị này tùy theo
sự thích được sanh lên năm cõi trên mà định này đều được khởi lên sau.
Hỏi: - Nếu chỉ dẹp lậu hoặc cõi dưới có thể sanh khởi định này, sau đó lậu hoặc
vì không đoạn mà không thối, vẫn được sanh cõi trên. Làm sao sanh cõi trên rồi
mới đoạn lậu hoặc cõi dưới?
Ðáp: - Ðoạn được, không lỗi gì, như người sanh cõi trên mà đoạn câu sanh hoặc
của thức Mạt na cõi dưới. Nhưng hàng Thánh Bất hoàn, do sức đối trị mạnh, chính
ngay khi thức nhuận sanh, mà không khởi hiện hành phiền não nhuận sanh, chỉ do
chủng tử lậu hoặc (chứ không phải do hiện hành lậu hoặc) mà nhuận sanh cõi trên
thôi. Tuy lậu hoặc bị dẹp, hoặc có thối khởi, hoặc không thối khởi, nhưng không
có nghĩa dẹp lậu hoặc cõi dưới mà sanh thượng địa. Cho nên không có cái lỗi khi
sanh cõi trên mới đoạn lậu hoặc cõi dưới.
Có những Bồ tát khi còn ở địa vị Nhị thừa đã được Diệt tận định, sau mới hồi
tâm hướng đến Ðại thừa, mong trong tất cả địa vị Ðại thừa ba Hiền mười Thánh
đều khởi lên định này. Nếu không được vậy thì hoặc có hạng đợi cho đến khi ở
Thất địa (Viễn hành địa) mãn tâm, mới có thể dẹp vĩnh viễn hết thảy phiền não.
Tuy ở Thất địa chưa đoạn hẳn tu hoặc của cõi Dục, mà nhu là đã đoạn và có thể
khởi lên định này, vì Luận nói: "Bồ tát đã vào Viễn hành địa mới có thể
hiện khởi Diệt tận định".
Lại có Bồ tát lợi căn từ Sơ địa đã có thể dẹp hẳn hết thảy phiền não, như A la
hán. Họ ở trong Thập địa đều khởi lên định này, vì kinh nói: "Hàng Bồ tát
ở sáu địa đầu cũng có thể khởi Diệt tận định".
Bài Tụng nói: "Vô tâm thùy miên và muộn tuyệt", nghĩa là khi ngủ mê
man, và chết ngấy trầm trọng thì sáu thức trước không hiện hành. Do các duyên
mệt mỏi nặng nề dẫn thân đến chỗ trái với sáu thức, nên gọi là ngủ mê trầm
trọng. Khi ngủ mê tuy không có tự thể Tâm sở ngủ, song do "ngủ" dần
đến tợ như Tâm sở ngủ mà giả gọi là ngủ mê.
lại do duyên cảm mạo gió và nóng dẫn thân đền chỗ trái với sáu thức trước, cho
nên gọi chết ngất trầm trọng, hoặc nói các duyên đó đều là thiếu phần của xúc.
Trừ năm trường hợp trên đó, ý thức thường hiện khởi.
Hỏi: - Ngay trong khi sanh và chết cũng không có ý thức, tại sao chỉ nói năm
trường hợp trên, ý thức không hiện hành?
- Có ý kiến cho rằng chính khi chết và khi sanh cũng đều không có ý thức,
mà chữ "cập" và chữ "dữ" trong bài Tụng là nói rõ điều đó?
Ðáp: - Kia nói thế không đúng, vì sao? Vì Thánh giáo chỉ nói có sáu trường hợp
vô tâm mà thôi. Ðó là năm trường hợp đã nêu trên và Vô dư Niết bàn. nên nói khi
chết khi sanh, nhiếp thuộc về khi chết ngất làm một, vì tâm khi sanh và chết là
ở trường hợp rất muộn tuyệt vậy. Tuy nói chữ "cập" chữ "dữ"
chính là hiển thị năm trường hợp vô tâm, khỏi bị lẫn lộn. Trong đây hiển rõ sau
khi sáu thức đoạn, thì dựa vào tự chủng của nó nơi bản thức mà khởi trở lại, do
đó mà không cho năm trường hợp vô tâm này là nhập Vô dư y Niết bàn (Vô dư y
Niết bàn thì không khởi lại ý thức).
Trong năm trường hợp vô tâm trên, kẻ dị sanh có bốn, trừ Diệt định; Thánh, chỉ
có ba trường hợp sau; trong đó Như Lai và Tự tại Bồ tát chỉ còn một trường hợp sau
hết là Diệt tận định, chứ không có thùy miên, muộn tuyệt.
Cho nên tám thức nơi các hữu tình, có thức thứ tám và thứ bảy là thường cùng
chuyển một lần, nếu khởi thức thứ sáu thì có ba thức cùng khởi đó là thức sáu,
bảy, tám. Còn năm thức kia tùy theo duyên hợp mà khởi lên từ một đến năm, thời
có bốn thức cũng chuyển (đó là Nhãn thức, Ý thức, Mạt na, Ðệ bát. Nhĩ thức khởi
cũng như vậy), cho đến có tám thức cùng chuyển.
Ðây là lược nói nghĩa các thức cùng khởi sanh.
Hỏi: - Nếu một hữu tình mà có nhiều thức cùng chuyển hiện một lần thì tại sao
nói đó là một hữu tình?
Ðáp: - Nếu dựa theo thức khởi lên nhiều ít mà lập hữu tình, thì theo Ông, người
ở trường hợp vô tâm là không phải hữu tình sao? Lại trong trường hợp có một
phần tâm của cõi khác hiện ra, tại sao chỉ có thể nói là tự phần hữu tình (như
ở cõi Người mà trong tâm họ khởi lên niệm ác của địa ngục, sao không gọi người
đó là hữu tình địa ngục, mà chỉ gọi họ là người?) Nhưng lý do lập hữu tình là dựa
nơi mạng căn hoặc Dị thục thức (quả báo thức), đều không trái lý; vì mạng căn
và thức Dị thục đều thường có, và chỉ có một (thành một hữu tình).
Hỏi: - Một thân chỉ một đối Ðẳng vô gián duyên (chỉ một thân mà niệm trước làm
duyên cho niệm sau, tạo thành tiếp nối một loại thân), vậy tại sao cùng lúc lại
có nhiều thức chuyển hiện?
Ðáp: - Ðã chấp nhận một Ðẳng vô gián duyên dẫn ra nhiều Tâm sở niệm sau, thì
tại sao lại không chấp nhận một Ðẳng vô gián duyên này có thể dẫn ra nhiều Tâm
vương? Lại ai nhất định nói Ðẳng vô gián duyên chỉ có một? Nhưng nói nhiều thức
cùng sanh thì phải chấp nhận có nhiều Ðẳng vô gián duyên. Lại như muốn cùng một
lúc tiếp nhận được nhiều cảnh, nhiều cảnh hiện ra, làm sao không kíp nhận. Vì
các căn và các cảnh có sự hòa hợp ngang nhau, mà thức thì sanh trước sanh là
không đúng lý. Lại như thế tính các Tâm sở tuy không khác nhau nhưng thể loại
thiện ác khác nhau, đã chấp nhận có nhiều tâm cùng sanh, thì tại sao không chấp
nhận Tâm vương có các thể loại Tâm sở khác nhau vẫn được cùng sanh một lần? Lại
như sóng trong nước, bóng trong gương, chỉ dựa nơi một nước và một gương mà
khởi lên nhiều thứ, cho nên dựa một Tâm vương mà nhiều thức cũng khởi cũng thế.
Lại nếu không chấp nhận ý thức cùng khởi với năm thức, thì năm thức tiếp nhận cảnh
sở duyên không thể rõ ràng, như khi ý thức tán loạn, duyên vật đã diệt mất từ
lâu.
Hỏi: - Tại sao cùng khởi với năm thức chỉ một ý thức, mà đối với sắc, thanh
v.v... lại có thể tiếp nhận một thứ hoặc nhiều thứ?
Ðáo: - Như Nhãn thức v.v... mỗi mỗi đối với cảnh của riêng mình mà tiếp nhận
một thứ hoặc nhiều thứ, thì có lỗi gì? Vì kiến phần và tướng phần của sáu thức
đều có nhiều thứ.
Hỏi: - Tại sao các thức đồng thể loại với nhau mà không cùng sanh khởi (trong
một sát na không hai thức đồng loại khởi lên) duyên một cảnh?
Ðáp: - Ðối với cảnh sở duyên, nếu có thể nhận rõ thì một thức đã có thể nhận rõ
rồi, các thức khác không dùng nữa.
Hỏi: - Nếu vậy, năm thức đã nhận rõ cảnh của riêng mình, cần gì có ý thức cùng
khởi mới nhận rõ?
Ðáp: - Ngũ câu ý thức còn giúp cho năm thức khởi, chứ không phải chỉ một việc
nhận rõ cảnh của năm thức duyên. Lại ý thức đối với cảnh sở duyên của năm thức
có thể nhận biết rõ ràng khác với năm thức, cho nên không phải vô dụng. Do đó
Thánh giáo nói ý thức gọi là có phân biệt, còn năm thức thì không.
Hỏi: - Nhiều thức cùng khởi sao không tương ưng nhau (như Tâm, Tâm sở tương ưng
nhau)?
Ðáp: - Vì không phải đồng một cảnh. Giả sử đồng một cảnh thì chỗ nương căn và
thể loại của thức này thức kia khác nhau (như năm thức nương năm căn mà ý thức
chỉ nương ý căn, năm thức tương ưng ba mươi bốn Tâm sở mà ý thức thì tương ưng
năm mươi mốt Tâm sở). Vậy năm thức cùng năm căn tuy đồng duyên một cảnh song
không tương ưng nhau.
- Tự tánh tám thức không thể nói nhất định là một, vì hành tướng (kiến phần),
chỗ nương (căn), cảnh sở duyên và Tâm sở tương ưng khác nhau. Lại một thức này
diệt, các thức khác không diệt, vì tướng năng huân và sở huân khác nhau. Nhưng
cũng không phải nhất định là khác, vì kinh nói tám thức như nước và sóng bình
đẳng không sai khác (thức thứ tám như nước, bảy chuyển thức như sóng). Nếu tám
thức nhất định khác nhau thì không phải là tính nhân quả của nhau. Tám thức là
y tha khởi, ví như sự huyễn, không có tánh nhất định.
Như trước đã nói thức tướng sai biệt là dựa theo lý thế tục mà nói, chứ không
phải theo lý chơn thắng nghĩa; vì trong lý chơn thắng nghĩa thì tâm và ngôn đều
dứt. Như bài tụng trong kinh Lăng già nói:
Tâm, ý, thức tám thứ,
Do tục, tướng có khác,
Do chơn, tướng không khác,
Tướng, sở tướng đều không.
Trên đã phân biệt rộng tướng của ba năm biến, làm chỗ nương cho hai phần Kiến,
Tướng mà nó biến ra. Làm sao biết nương nơi tướng của thức biến, giả nói là
ngã, là pháp, chứ ngã pháp đó không có thực thể riêng và do đó mà hết thảy duy
có thức ư?
Tụng rằng:
Các thức ấy chuyển biến,
Phân biệt, bị phân biệt,
Do kia, đây đều không,
Nên hết thảy Duy thức.
Luận rằng: Các thức ấy, là ba thức năng biến và Tâm sở của nó như đã nói trước,
chúng đều có thể biến ra tương tợ hai phần Kiến và Tướng, đó gọi là chuyển
biến. Kiến phần được biến ra, gọi là phân biệt, vì có khả năng nhận biết tướng
phần. Tướng phần được biến ra, thì gọi là bị phân biệt, vì là tướng của Kiến
phần nhận biết.
Do lý nghĩa chính đáng đó, mà biết ngã và pháp kia lìa khỏi sự biến hiện của
thức, thì đều nhất định không có. Vì lìa khỏi năng thủ (Kiến phần) và sở thủ
(Tướng phần) thì không có riêng vật gì được. Không thể có một thật vật gì lìa
khỏi tướng năng thủ, sở thủ đó. Cho nên hết thảy pháp Hữu vi (Sắc, Tâm, Tâm sở,
Bất tương ưng hành), Vô vi (Hư không vô vi v.v... ) hoặc thật (sắc, tâm), hoặc
giả (Bất tương ưng hành) đều không lìa khỏi thức.
Chữ "Duy" chỉ để ngăn các thật vật lìa ngoài thức, chứ không phải để
ngăn luôn Tâm sở pháp v.v... không lìa thức (Duy là ngăn ngoại cảnh chẳng phải
có), Thức là biểu thị Tâm, Tâm sở chẳng phải không).
Hoặc chữ "chuyển biến" có nghĩa là nội thức chuyển hiện ra tướng ngã
pháp tương tợ như là cảnh bên ngoài. Chính khả năng chuyển biến đó, gọi là phân
biệt, vì lấy hư vọng phân biệt làm tự tánh, đó chính là Tâm và Tâm sở trong ba
cõi.
Cảnh được chấp đó, gọi là phân biệt, tức là ngã và pháp bị vọng chấp cho là
thật có. Do tánh phân biệt đó biến ra giả ngã, giả pháp tợ như là cảnh bên
ngoài, chứ thật ngã và thật pháp bị phân biệt chấp trước kia quyết định đều là
không có. Trước kia đã dẫn giáo và lý để phá điều đó. Thế nên hết thảy duy có
thức, chỉ do hư vọng phân biệt mà có thôi, điều đó đã cực thành.
Chữ "Duy đã không ngăn những pháp không lìa thức, vậy chơn không v.v...
cũng là có, mà không lìa thức.
Do đó xa lìa bệnh chấp trước nhị biến là chấp tăng và chấp giảm, nên nghĩa lý
Duy thức được thành tựu, khế hợp Trung đạo.
Hỏi: - Do giáo lý gì mà nghĩa lý Duy thức được thành lập?
Ðáp: - Ðiều đó, đã chẳng nói rồi sao?
Hỏi: Tuy nói mà chưa rõ, vì không phải chỉ phá nghĩa lý của người khác, mà
nghĩa lý của mình tự nhiên được thành. Hãy nên trình bày xác đáng thêm để thành
lập giáo lý Duy thức này.
Ðáp: - Khế kinh nói: "Ba cõi duy tâm"; lại nói: "Các cảnh sở
duyên đều Duy thức biến hiện"; lại nói: "Các pháp đều không lìa
tâm", lại nói" "Hữu tình cấu hay tịnh là do tâm"; lại nói:
"Hàng Bồ tát thành tựu được bốn trí, thì có thể tùy theo đó ngộ nhập lý
Duy thức vô cảnh". Bốn trí đó là:
1. Tương vi thức tướng trí – Túc trí biết về tướng mâu thuẫn nhau giữa các thức.
Nghĩa là như đối nơi một cảnh mà quỷ, người trời theo nghiệp sai khác, nhìn
thấy khác nhau (như đồng một cảnh mà quỷ thấy là máu,người thấy là nước, trời
thấy là lưu ly). Cảnh nếu thật có, thì tại sao lấy khác nhau như vậy?
2. Vô sở duyên thức trí - Tức trí biết về thức duyên vô cảnh. Như khi duyên
cảnh tượng quá khứ, vị lại và cảnh trong mộng, nó không phải cảnh thật mà thức
vẫn hiện thấy có. Cảnh kia đã không mà vẫn thấy có, thì các cảnh khác trong
hiện tại cũng vậy.
3. Tự ưng vô đảo trí - Tức trí biết về trí kẻ ngu tự không điên đảo. Như nếu
trí kẻ ngu duyên đúng được cảnh thật, thì trí đó tự nhiên là trí không điên
đảo, họ không cần phải dụng công tu vẫn được giải thoát. (Ý nói nếu ngã pháp có
thật thì người nào thấy có ngã pháp là người thấy đúng, không điên đảo. Ðã
không điên đảo thì họ không cần gì phải tu dứt ngã chấp để cầu giải thoát).
4. – Tùy ba trí chuyển trí. Ðó là:
a. Tùy tự tại giả trí chuyển trí - Tức người đã chứng đắc tâm tự tại, tùy họ
muốn chuyển biến đất thành nước, nước thành lửa đều được. Cảnh nếu thật có, thì
làm sao chuyển biến được như thế.
b. Tùy quán sát giả trí chuyển trí - Tức người tu pháp quán đã đắc thắng định,
tùy họ quán một cảnh mà hiện ra nhiều tướng vẫn được. Cảnh nếu có thật thì làm
sao lại chuyển cảnh theo tâm được như vậy?
c. Tùy vô phân biệt trí - Tức khi khởi lên trí vô phân biệt chứng thật lý chơn
như, thì mọi cảnh tướng thông thưòng không còn hiển hiện. Cảnh nếu có thật, thì
tại sao khi đó nó không hiển hiện?
Bồ tát thành tự bốn trí nêu trên thì quyết chắc ngộ nhập lý Duy thức.
Lại tụng nói:
Sở duyên của tâm ý thức,
Ðều không lìa tâm tự tánh.
Cho nên Ta nói hết thảy,
Chỉ có thức, không gì khác.
Những Thánh giáo như thế để chứng minh không phải một. Cực thành nhãn thức
v.v... vì là một trong năm thức, ví như các thức kia, không thân duyên được gì
ngoài sắc cảnh của riêng nó. Các thức khác, vì là thức, ví như nhãn thức, cũng
không thân duyên được gì ngoài các pháp của riêng nó. Tướng phần thân sở duyên
của sáu thức quyết định không lìa ngoài sáu thức, vì nó nhiếp vào một trong hai
phần Kiến, Tướng, ví như Kiến phần duyên kia. Pháp sở duyên ví như pháp tương
ưng (Tướng phần), quyết định không lìa Tâm và Tâm sở.
Những giáo lý chơn chánh để chứng minh cho nghĩa lý Duy thức như thế, không
phải chỉ có một. Cho nên, nên thêm tín thọ lý Duy thức: "Ngã và pháp chẳng
phải có, mà chơn không và chơn thức năng duyên chẳng phải không. Lìa có lìa
không, một khế hợp Trung đạo". Từ tôn Di lặc nương lẽ đó mà nói hai bài
tụng rằng:
Hư vọng phân biệt có (do hư vọng phân biệt mà có Kiến tướng).
Nơi đây, hai đều không (Nơi Kiến tướng, ngã pháp đều không).
Trong đây, chỉ có không (Trong y tha Kiến tướng đó, chỉ có chơn không vô ngã).
Nơi đó, cũng có đây (Trong chơn không vô ngã cũng có Y tha kiến tướng).
Nên nói hết thảy pháp (hữu vi vô vi).
Chẳng không, chẳng không không (Có Y tha nên chẳng không, không Biến kế nên
chẳng có).
Có không và có vậy (Có cả không và có).
Thế thời khế Trung đạo.
Bài tụng này là chỉ dựa vào mặt nhiễm phần Y tha khởi mà nói. Ðúng lý cũng có
tịnh phần Y tha khởi.
Hỏi: Nếu chỉ do nội thức hiện ra tương tợ như cảnh bên ngoài, thì tại sao hiện
thấy trong thế gian loài hữu tình và phi tình có nơi chốn và thời gian quyết
định? Thân phần và tác dụng không quyết định?
Ðáp: - Ví như cảnh mộng v.v... là điều để giải thích chỗ nghi này.
Hỏi: - Duyên gì đức Thế Tôn nói mười hai xứ?
Ðáp: - Mười hai xứ nương nơi thức được biến hiện, không phải thật có riêng. Vì
dẫn người ngộ nhập lý ngã không mà đức Thế Tôn nói mười hai xứ, giống như để
ngăn ngừa chấp đoạn kiến mà nói loài hữu tình tương tục. Lại vì dẫn người ngộ
nhập lý pháp không nên lại nói lý Duy thức, khiến họ biết ngoại pháp cũng chẳng
phải thật có.
Hỏi: - Tánh Duy thức này, há chẳng phải cũng không như ngã pháp?
Ðáp: - Không phải vậy.
Hỏi: - Không phải vậy thì thế nào?
Ðáp: - Thức tánh không phải là pháp của vọng tình chấp. Nghĩa là dựa vào ngã
pháp do thức biến, lấy lý suy xét thì ngã pháp ấy trống rỗng không thể nắm bắt
được, nên nói là pháp không, chứ không phải bảo không có "tánh Duy
thức" do chánh trí ly ngôn chứng nhập,
mà nói là pháp không; vì thức này nếu không có, thì không có tục đế, nếu
tục đế không có thì chơn đế cũng không; vì chơn tục dựa nhau mà kiến lập. Nếu
bác không có hai đế, là ác thủ không, chư Phật nói đó là hạng người không thể
chữa trị. Nên biết các pháp có không và bất không. Do đó đức Từ Tôn nói hai bài
tụng trên kia.
Hỏi: - Nếu các sắc cũng lấy thức làm thể tánh, thi tại sao nó lại tương tợ hiện
ra như một loại sắc tướng kiên cố tương tục?
Ðáp: - Ðó là do thế lực của mình của danh ngôn huân tập mà khởi lên, nó làm chỗ
nương cho pháp nhiễm và tịnh. Nghĩa là sắc tướng này nếu không có, thì không có
điên đảo vọng chấp, đã không có điên đảo vọng chấp thì không có tạp nhiễm, cũng
không có pháp thanh tịnh. Thế nên các thức cũng hiện ra sắc tương tợ. Như có
bài tụng nói:
Loạn tướng và loạn thể,
(sắc tướng sở biến và tâm thể năng biến)
Nên nhận là sắc thức, (loạn tướng)
Và chẳng phải sắc thức, (loạn thể)
Nếu không, cái khác không
(cái này không cái kia không).
Hỏi: - Ngoại cảnh và sắc thanh v.v... hiện thấy rõ ràng, hiện lượng nhận biết
được, tại sao bảo là không có?
Ðáp: - Khi hiện lượng nhận biết thì không chấp nó là vật ở ngoài, sau đó ý thức
khởi lên phân biệt mới tưởng lầm cho nó ở ngoài. Cho nên cảnh hiện lượng là tự
tướng phần bởi thức biến hiện, cũng nói nó là có, nhưng vì ý thức vọng chấp nó
là sắc thật có bên ngoài, đó là vọng chấp có, nên mới nó là không.
Lại cảnh sắc, thanh v.v... là không phải sắc, thanh mà tợ như sắc, thanh, không
phải ở ngoài thức mà tợ như ở ngoài. Như cảnh thấy trong mộng, không thể chấp
đó là cảnh sắc bên ngoài thật.
Hỏi: - Nếu sắc thấy được trong khi đang thức đều như cảnh trong mộng, không lìa
khỏi thức, cũng như khi từ mộng tỉnh dậy liền biết sắc đó là duy tâm, thế thì
cớ gì khi đang thức đây mà đối với cảnh sắc của mình duyên, lại không biết đó
là Duy thức?
Ðáp: - Giống như mộng chưa tỉnh, không thể tự biết, phải đợi đến khi tỉnh thức
mới truy biết đó là cảnh trong mộng. Nên biết cảnh sắc trong khi đang thức đây
cũng vậy, nếu chưa đến địa vị thật giác ngộ thì không thể biết, phải đợi đến
khi thật giác ngộ, mới có thể truy giác cảnh khi thức; còn chưa đến địa vị thật
giác ngộ thì vẫn như người ở trong mộng. Cho nên đức Phật nói đó là sống chết
trong đêm trường, do đó mà chưa nhận rõ lý sắc cảnh Duy thức.
Hỏi: -Ngoại sắc thật không, có thể không phải là cảnh của nội thức, còn tha tâm
(tâm ngườì khác) thật có, sao lại không phải là cảnh sở duyên của tự thức?
Ðáp: - Ai nói tha tâm không phải là cảnh sở duyên của tự thức? Chỉ không nói nó
là thân sở duyên, nghĩa là khi trên tự thức sanh tướng phần tha tâm, tâm đó
không thật có tác dụng, không như tay đích thân cầm được ngoại vật, hay như mặt
trời tỏa ánh sáng chiếu đến ngoại cảnh, mà chỉ như trong gưong có cảnh hiện ra
như cảnh bên ngoài, gọi là biết tha tâm (tha tâm trí) chứ không phải trực tiếp
biết được. Cái trực tiếp biết được là tướng do thức biến ra, cho nên Khế kinh
nói: "Không có tí pháp nào có thể trực tiếp nhận biết tí pháp nào cả, chỉ
khi thức sanh, tợ như có tướng vật kia hiện ra, gọi à nhận biết vật kia. Giống
như duyên tha tâm, duyên sắc v.v... cũng thế.
Hỏi: Ðã có tâm người khác ở ngoài làm cảnh duyên cho tâm người này, thì sao gọi
là Duy thức?
Ðáp: -Lạ thay tánh cố chấp, gặp đâu sanh nghi đó! Ðâu phải Duy thức giáo chỉ có
thức của một người!
Hỏi: - Không vậy thì thế nào?
Ðáp: - Ông nên nghe cho kỹ, nếu chỉ có thức của một người thì làm sao có mười
phương phàm Thánh, tôn ti, nhân quả khác nhau? Ai nói cho ai? Pháp gì cầu gì?
Cho nên nói Duy thức là có ý thú sâu xa.
Nói "Thức" là tổng quát chỉ rõ hết thảy hữu tình mỗi mỗi đều có tám
thức, sáu vị Tâm sở, Tướng phần, Kiến phần được biến ra, phận vị sai khác và
chơn như do lý không hiển lộ. Ðó là tự tướng của thức (Tâm vương), tương ưng
của thức (Tâm sở), sắc tướng được biến của Tâm, Tâm sở phận vị sai khác của
thức (Bất tương ưng hành), thật tánh của bốn pháp sắc Tâm, Tâm sở, Bất tương
ưng (vô vi). Những pháp như thế đều không rời thức, tổng quát lại gọi là Duy
thức.
Chữ "Duy" là cốt ngăn kẻ phàm phu chấp nhất định có sắc lìa ngoài
thức.
Nếu biết rõ về ý chỉ của Duy thức giáo như thế, thì có thể không bị điên đảo,
khéo chuẩn bị tư lương, mau ngộ nhập lý pháp không, chứng bậc Vô Thượng Giác,
cứ vớt kẻ hàm thức khỏi sanh tử luân hồi, chứ không phải hạng người ác thủ
không, bác không tất cả, trái nghịch với giáo lý, mà có thể thành tựu những
việc ngộ độ sanh như thế. Thế nên nhất định nên tin hết thảy đều Duy thức.
- Nếu chỉ có thức, hoàn toàn không có ngoại duyên, thi do đâu mà thức sanh ra
nhiều sự phân biệt?
Tụng rằng:
Do thức Nhất thiết chủng,
Biến như vậy như vậy,
Vì năng lực triển chuyển,
Kia kia phân biệt sanh.
Luận rằng: Thức Nhất thiết chủng là chỉ cho công năng sai biệt ở trong bản
thức, nó có khả năng sanh ra tự quả. Công năng sai biệt ấy sanh ra quả đẳng
lưu, dị thục, sĩ dụng và tăng thượng; thế nên gọi là Nhất thiết chủng. Trừ quả
ly hệ (giải thoát) là không phải do chủng tử sanh, vì phải nhờ đạo vô lậu phát
khởi dứt hết kiết sử mới chứng đắc quả ly hệ. Ðạo vô lậu, tuy từ chủng tử vô
lậu sanh, song đối với quả ly hệ chỉ có nghĩa triển chuyển, nhưng không phải là
ý chính được nói trong bài tụng đây. Vì ở đây chỉ nói chủng tử có khả năng sanh
ra phân biệt, nó lấy bản thức làm thể, nên lập tên là Chủng tử thức; vì chủng
tử lìa bản thức thì không có tự tánh riêng.
Hai chữ "Chủng thức" là giản biệt thức không phải chủng, không phải
thức, vì có thứ thức mà không phải chủng (như hiện thức), có thứ chủng mà không
phải thức (như hạt giống). Lại nói "Chủng thức" là hiển thị chủng tử
ở trong bản thức, chứ không phải chỉ cho cái thức chấp trì chủng tử, sau sẽ nói
rõ.
Chủng tử ở trong thức ấy nhờ các duyên của các hiện thức trợ giúp bèn chuyển ra
như thế. Nghĩa là từ vị trí sanh chuyển biến đến vị trí thành thục, để nói rõ
số chủng tử chuyển biến đó có nhiều, cho nên nói hai lần như thế, như thế.
Nghĩa là tất cả chủng tử nhiếp hết vào ba thứ huân tập (là danh ngôn, ngã chấp,
hữu chi) cộng (chủng tử y báo) và bất cộng (chủng tử chánh báo), tức gom hết
chủng tử của thức.
Năng lực triển chuyển là tám hiện thức (tám thức hiện hành) và Tướng phần; Kiến
phần của Tâm sở tương ưng với nó, chúng nó đều có năng lực tương trợ lẫn nhau.
Chính tám hiện thức v.v... gọi chung là phân biệt, vì hiện thức lấy hư vọng
phân biệt làm tự tánh. Phân biệt có nhiều chủng loại Tâm vương có, Tâm sở có,
cho nên tụng nói là "kia kia".
Ý bài tụng này nói tuy không có ngoại duyên, nhưng do trong bản thức có hết
thảy chủng tử chuyển biến sai biệt và do năng lực triển chuyển của tám thức
hiện hành mà các phân biệt kia được sanh, chớ đâu cần có ngoại duyên mới khởi
lên phân biệt. Các tịnh pháp được khởi lên, nên biết cũng giống thế, do chủng
tử vô lậu và có thức vô lậu hiện hành làm duyên mà sanh khởi vậy.
- Bài tụng trên đã nói chủng tử và hiện hành đều làm duyên sanh ra thức phân
biệt. Làm sao biết được tướng duyên sanh đó?
- Duyên có bốn thứ:
1. Nhân duyên – Nghĩa là pháp hữu vi trực tiếp sanh ra quả của chính nó, có hai
là chủng tử và hiện hành.
Chủng tử - Nghĩa là các công năng sai biệt của thiện, nhiễm, vô ký và các cõi,
các địa ở trong bản thức, nó có khả năng dẫn ra công năng cùng loại kế tiếp
(chủng sanh chủng) và đồng thời khởi lên hiện quả cùng loại (chủng sanh hiện).
Ðây chỉ trông với kia mới là tánh nhân duyên (nghĩa là chỉ chủng tử sanh chủng
tử, chủng tử sanh hiện hành mới là nhân duyên).
Hiện hành – Nghĩa là bảy chuyển thức và Tâm sở tương ưng với nó biến ra Tướng
phần, Kiến phần, ba tánh, ba cõi, bốn địa v.v... Trừ thiện pháp của Phật quả và
tánh vô ký quá yếu là không huân bản thức, còn tất cả các thứ hiện hành khác
như bảy chuyển thức v.v... đều có thể huân sanh chủng tử cùng loại nơi bản
thức. Chuyển thức đây chỉ trong đến chủng tử cùng loại của nó mới là tánh nhân
duyên (đây nghĩa là hiện hành huân chủng tử cũng là tánh nhân duyên).
Hỏi: - Thức thứ tám sao không năng huân mà chỉ là sơ huân?
Ðáp: - Tâm phẩm thứ tám nếu là năng huân, thi không còn có cái gì làm sở huân.
Hỏi: - Ba tánh, ba cõi, chín địa, làm sao cũng là năng huân?
Ðáp: - Vì không phải riêng thức thể tự chứng phần là chỗ nương của các thứ đó
mới là năng huân.
Hỏi: - Tại sao thiện pháp của Phật quả và vô ký yếu kém không huân tập?
Ðáp: - Vì tánh vô ký quá yếu kém. Phật quả quá viên mãn, cho nên không huân
thành chủng tử.
Pháp hiện hành đồng loại, triển chuyển trông nhau (như hiện hành nhãn thức đối
hiện hành nhãn thức) đều chẳng phải là nhân duyên, vì mỗi thứ đều từ chủng tử
riêng sanh. Pháp hiện hành khác loại, triển chuyển trông nhau cũng chẳng phải
nhân duyên, vì không phải thân sanh ra nhau.
- Có thuyết cho đồng loại, dị loại hiện hành, triển chuyển trông nhau đều
làm nhân duyên cho nhau. Nên biết đó chỉ là giả nói; hoặc nói theo môn tùy
chuyển.
- Có thuyết chỉ nói chủng tử là nhân duyên, đó là dựa chỗ mạnh của chủng tử mà
nói (chứ hiện hành chủng tử cũng là nhân duyên) chưa phải hết lý.
- Thánh giáo nói chuyển thức và A lại da thức triển chuyển làm nhân duyên cho
nhau.
2. Ðẳng vô gián duyên – Nghĩa là tám hiện thức (tám thức hiện hành) của nó,
nhóm trước đối với nhóm sau tự loại bình đẳng không gián đoạn mà mở đường để
cho nhóm sau được sanh ra.
Nhiều chủng tử Tâm, Tâm sở đồng loại cùng khởi một lần, nếu như không tương
ưng, là không phải Ðẳng vô gián duyên. Do đó tám thức không phải làm Ðẳng vô
gián duyên cho nhau. Chỉ Tâm, Tâm sở tuy thường cùng khởi, nhưng tương ưng nhau
hòa hợp như một, không thể thi thiết cách lìa sai khác, cho nên được làm Ðẳng
vô gián duyên cho nhau.
Tâm tối hậu nhập Vô dư y Niết bàn, hết sức yếu kém, không có công dụng mở
đường, lại không còn có pháp Ðẳng vô gián sẽ khởi lên, cho nên không phải thuộc
duyên Ðẳng vô gián này.
Làm sao biết như vậy? Vì Luận có nói: "Nếu thức trước bình đẳng không gián
đoạn, thì thức sau bình đẳng quyết định được sanh ra", tức nói thức trước
làm Ðẳng vô gián duyên cho thức sau. Chính do nghĩa này nên nói thức A đà na ở
trong ba cõi, chín địa đều có thể đắp đổi làm duyên Ðẳng vô gián cho nhau, vì
cõi dưới, cõi trên chết sống, mở đường cho nhau; Tâm hữu lậu vô gián có tâm vô
lậu sanh; còn tâm vô lậu nhất định không sanh tâm hữu lậu; vì trí Ðại viên cảnh
khi đã sanh khởi rồi thì chắc chắn không đoạn mất. Thiện và vô ký đối với nhau
cũng thế (vô ký Dị thục thức sanh thiện vô cấu thức, chứ thiện vô cấu thức
không sanh vô ký Dị thục thức).
Hỏi: - Thức thứ tám này, ở cõi nào mà sau đó từ tâm hữu lậu dẫn sanh tâm vô
lậu?
Ðáp: - Hoặc từ cõi Sắc, hoặc thân cuối cùng ở cõi Dục, nghĩa là kẻ dị sanh phát
tâm cầu Phật quả, nhất định sau khi sanh cõi Sắc thì tâm hữu lậu dẫn sanh tâm
vô lậu, sau đó chắc chắn sanh lên cung Ðại Tự Tại ở cõi trời Tịnh Cư, chứng
được Bồ đề. Nếu hàng Nhị thừa vô học hồi tâm hướng về đại Bồ đề, thì nhất định
khi thân cuối cùng ở cõi Dục dẫn sanh tâm vô lậu, vì sau khi hồi tâm, còn lưu
lại sanh thân chỉ ở cõi Dục. Vị ấy tuy chắc chắn sanh lên cung trời Ðại Tự Tại
mới được thành Phật, nhưng do sức bản nguyện mà lưu lại sanh thân thì là ở cõi
Dục.
- Có ý kiến cho rằng ở cõi Sắc cũng có hàng Thanh Văn hồi tâm hướng về Ðại thừa
nguyện lưu lại sanh thân, điều này đã không trái với giáo lý. Thế nên thức đệ
bát vô lậu nơi hàng Thanh Văn cũng được hiện tiền cuối cùng của cõi Sắc.
Nhưng Thánh giả ở trời Ngũ Tịnh Cư thì không có hồi tâm Ðại thừa, vì không thấy
kinh nào nói Thánh giả Ngũ Tịnh Cư phát tâm Ðại thừa.
- Chuyển thức thứ bảy ở trong ba cõi, chín địa cũng được đắp đổi làm duyên Ðẳng
vô gián cho nhau, vì nó hệ thuộc theo thức thứ tám sanh ở chỗ nào, thì tâm hữu
lậu (có ngã pháp), vô lậu (có Bình đẳng tánh trí) cũng được đắp đổi cho nhau,
vì ở trong mười địa được dẫn sanh cho nhau.
Thiện và vô ký, trông qua nhau cũng thế. Ở trong vô ký, nhiễm và không nhiễm,
cũng mở đường cho nhau, vì trí quả về sanh không, ở trong địa vị trước và địa
vị sau được dẫn ra nhau.
Ðây là ở cõi Dục, cõi Sắc, tâm hữu lậu cũng sanh tâm vô lậu, chứ không phải ở
cõi Vô sắc, vì hàng Bồ tát địa thượng không sanh đến ở cõi Vô sắc.
- Chuyển thức thứ sáu ở trong ba cõi, chín địa, tâm hữu lậu, vô lậu, thiện, bất
thiện v.v... mỗi mỗi đắp đổi làm duyên Ðẳng vô gián cho nhau, vì vì ở địa vị
nhuận sanh vào cõi này và địa kia, lại dẫn sanh nhau.
Bắt đầu khởi tâm vô lậu, chỉ sau khi sanh cõi Sắc, vì thiện pháp thuộc Quyết
trạch phần (chỉ cho bốn gia hạnh vị là Noãn, Nhẫn, Ðẳng, Thô đệ nhất) chỉ có ở
cõi Sắc.
Ba thức Nhãn, Nhĩ, Thân chỉ có ở hai cõi Dục, Sắc, với hai địa là Ngũ thú tạp
cư và Sơ Thiền. Còn hai thức tỉ, thiệt chỉ có ở một cõi Dục và Ngũ thú tạp cư
địa, thì tự loại mỗi thức đắp đổi làm duyên Ðẳng vô gián cho nhau. Thiện v.v...
trông qua nhau nên biết cũng có duyên Ðẳng vô gián.
- Có ý kiến cho rằng ngũ thức hữu lậu và vô lậu, tự loại đắp đổi làm
duyên Ðẳng vô gián cho nhau, vì khi chưa thành Phật nó được đắp đổi khởi lên.
- Có ý kiến cho rằng sau ngũ thức hữu lậu khởi lên ngũ thức vô lậu, chứ không
phải sau ngũ thức vô lậu khởi lên ngũ thức hữu lậu; vì ngũ thức vô lậu, trừ
Phật, người khác không thể có; vì năm sắc căn của người đang ở nhân vị nhất
định là hữu lậu, nó nhiếp thuộc về Tướng phần của Dị thục thức. Năm căn hữu lậu
là chỗ dựa riêng của năm thức, chắc chắn cùng đồng cảnh, vậy năm căn hữu lậu mà
phát ra năm thức vô lậu, là không hợp lý; vì năm căn vô lậu phát ra năm thức vô
lậu đối với cảnh thì sáng, cón năm căn hữu lậu phát ra năm thức hữu lậu đối với
cảnh thì mở, hai bên khác nhau.
3. Sở duyên – Nghĩa là nếu có thật pháp và là có tướng được mang theo, Tâm và
Tâm sở lấy đó làm chỗ dựa để phát sanh và làm đối tượng tư lự, thì gọi là Sở
duyên duyên. Thể nó có hai: 1. Thân. 2. Sơ. Nếu Tướng phần cùng với Kiến phần
đồng một thể nương tựa không rời nhau, đó là đối tượng tư lự và chỗ dựa bên
trong của Kiến phần, thì nên biết đó là Thân sở duyên duyên. Nếu bản chất cùng
với Kiến phần năng duyên tuy rời nhau nhưng mượn làm thật chất mà phát khởi
thành đối tượng cho tư lự và làm chỗ dựa cho Kiến phần bên trong, thì đó là Sơ
sở duyên duyên.
Thân Sở duyên duyên là tướng của tâm năng duyên, quyết định khi nào cũng có, vì
nếu lìa chỗ dựa và đồng thời làm đối tượng tư lự đó, thì tâm năng duyên không
thể phát sanh. Còn Sơ sở duyên duyên thì đối với tâm năng duyên hoặc có, hoặc
không không nhất định. Vì lìa cảnh làm chỗ dựa và sở duyên bên ngoài, thì tâm
năng duyên cũng vẫn phát sanh.
- Về Tâm phần thứ tám – Có ý kiến cho rằng nó chỉ có Thân sở duyên duyên, vì nó
tùy theo năng lực của nghiệp nhân câu sanh nhậm vận biến ra Tướng phần mà
duyên, chứ không cần phải dựa vào bản chất bên ngoài rồi mới biến duyên.
- Có ý kiến cho rằng thức thứ tám cũng có Sơ sở duyên duyên, vì cần phải nhờ
cái khác biến ra bản chất, rồi nó mới vin theo đó mà biến ra Tướng phần để
duyên.
- Có ý kiến cho rằng hai thuyết trên đều không đúng lý, vì tự thân, tha
thân, tự độ, tha độ, đều có thể thọ dụng lẫn nhau; vì thân hoặc độ do thức thứ
tám của người khác biến ra lại làm bản chất cho người này duyên, còn chủng tử
của người này đối với người khác thì không có ích dụng gì, người này cũng biến
ra chủng tử của người khác, là không có lý; vì không phải các hữu tình đều có
chủng tử ngang nhau.
- Nên nói Tâm phẩm thứ tám (gồm Tâm vương, Tâm sở) có Sơ sở duyên duyên
hay không, trong tất cả trường hợp không nhất định.
Tâm phẩm thứ bảy (gồm Tâm vương, Tâm sở Mạt na) ở địa vị chưa chuyển y, vì nó
là câu sanh ngã pháp, nên chắc chắn phải dựa vào Kiến phần đệ bát làm bản chất
bên ngoài mới khởi được, cho nên định có Sơ sở duyên duyên, còn ở địa vị chuyển
y thì không có Sơ sở duyên duyên, vì bấy giờ duyên chơn như thì không có bản
chất bên ngoài.
- Tâm phẩm thứ sáu (gồm Tâm vương, Tâm sở ý thức) hành tướng mãnh lợi, tự
tại chuyển khởi trong mọi trường hợp, bản chất bên ngoài để dựa hoặc có hoặc
không, cho nên không nhất định có hay không Sơ sở duyên duyên.
- Tâm phẩm năm thức trước, khi ở địa vị chưa chuyển y, vì nó thô thiển, đần
độn, yếu kém, phải dựa bản chất bên ngoài mà duyên, nên nhất định có Sơ sở
duyên duyên; còn khi ở địa vị đã chuyển y, thì không nhất định có Sơ sở duyên
duyên, vì khi này duyên được pháp quá khứ, vị lai không có bản chất bên ngoài.
4. Tăng thượng duyên - Nghĩa là nếu có pháp gì mà thế lực công dụng thù thắng
có thể hoặc thuận, hoặc nghịch đối với pháp khác, đó gọi là Tăng thượng duyên.
Ba duyên trước kia cũng là Tăng thương duyên, nhưng ở duyên thứ tư này là chỉ
chung cho tất cả những duyên gì còn sót lại ngoài ba thứ duyên trên. Ðó là
tướng khác nhau giữa bốn duyên.
Thế lực công dụng của Tăng thượng duyên có thuận, hoặc nghịch đối với bốn
trường sanh, trụ, thành, và đắc khác nhau.
Công dụng Tăng thương duyên đối với sự vật tuy nhiều, nhưng rõ rệt hơn cảnh chỉ
hai mươi hai, đó tức là 22 căn (gồm năm sắc căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; nam
căn, nữ căn, mạng căn; năm thọ căn là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả; năm thiện căn là
tín, tấn, niệm, định, tuệ; ba vô lậu căn là vị tri đương tri, dĩ tri, cụ tri)
trong đó năm sắc căn lấy tịnh sắc căn nhãn, nhĩ v.v... được biến hiện từ bản
thức làm tự tánh. Nam căn, nữ căn lấy một phần thân căn làm tự tánh. Mạng căn
không có tự tánh riêng, chỉ dựa vào phận vị của chủng tử thân sanh nơi bản thức
mà giả lập. Ý căn lấy chung cả tám thức làm tự tánh. Năm thức căn lấy mỗi sự
lãnh thọ riêng làm tánh. Năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ thì lấy tín v.v...
và các thiện niệm làm tánh.
Thế của "Vị trí đương căn" có ba bậc:
a. Bậc căn bản, ở địa vị kiến đạo, trong 15 tâm đầu có Vị tri đưong tri, trừ
sát na tâm thứ mười sáu không có Vị tri đương tri (vì ở tâm thứ mười sáu là
thuộc Dĩ tri căn) không còn có điều chưa biết sẽ biết.
b. Bậc Gia hạnh, ở địa vị bốn gia hạnh là Noãn, Ðãnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp,
gần nhất có thể dẫn sanh đến bậc căn bản trên.
c. Bậc tư lương, là từ khi vì cầu đạt được thấy Tứ đế mà tu hiện quán, phát
khởi thiện pháp tối thắng cho đến khi chưa được thuận Quyết trạch phần thuộc
gia hạnh vị, trong giai đoạn đó có được thiện căn, gọi là bậc Tư lương (Tư
lương vị) vì thiện căn này có thể xa xôi giúp làm phát sanh bậc Căn bản (Căn
bản vị).
Lấy chín căn là tín, tấn, niệm, định, tuệ, ý, hỷ, lạc, và xả trong ba bậc đó
hợp lại làm tự tánh của Vị tri đương tri căn. Riêng ở bậc Gia hạnh, Tư lương vì
cầu chứng đưọc pháp thiện thù thắng lúc sau cao hơn mà sầu lo, thì nó cũng lấy
thêm ưu căn làm tự tánh. Nhưng vì ưu căn không phải là thiện căn chính, cho nên
phần nhiều không kể đến.
Những vị ở ba địa Vô sắc trước (tức là Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu)
mà có Vị tri đương tri căn này là vì trong khi ở đệ Tứ Thiền được thắng kiến
đạo họ có tu thêm ba định Vô sắc nên có được. Hoặc các vị Nhị thừa hồi tâm
hướng Ðại thừa, vì muốn chứng pháp không, nên trước khi vào Thập địa họ cũng
khởi lên trí Vô lậu sanh không, nhiếp thuộc chín địa trong ba cõi. Các vi Bồ tát
này đều nhiếp thuộc căn Vị tri đương tri căn này. Bồ tát kiến đạo cũng có căn
này, nhưng nói ở địa tiền, vì thời gian kiến rất ngắn.
Bắt đầu từ sát na tối hậu của kiến đạo cho đến Kim cang dụ định (tâm tối hậu
của A na hàm, tâm tối hậu của Ðẳng Giác, đều gọi là Kim cang dụ định), có được
chín Vô lậu như tín, tấn v.v... thì đều là tánh của Dĩ tri căn. Ông chưa lìa
dục vì cầu chứng giải thoát cao hơn mà tâm sầu lo, thì lại có thêm ưu căn.
Nhưng ưu căn này không phải thiện căn chính, nên phần nhiều không kể đến.
Các bậc Vô học có đủ chín Vô lậu căn, thì đó đều là tự tánh của Cụ tri căn. (Cụ
tri căn cũng lầy chín Vô lậu căn làm tự tánh).
Ở cõi Hữu Ðảnh tuy có duyên quán pháp vô lậu nhưng không được minh lợi, nên
không phải là ba Vô lậu căn này.
Hai mươi hai căn có tự tánh như vậy; còn các
nghĩa môn khác của hai mươi hai căn, nên biết như Luận đã nói.