- Nhưng tất cả ngã chấp lược có hai thứ:
1. Câu sanh.
2. Phân biệt.
- Ngã chấp câu sanh là ngã chấp từ vô thỉ
đến nay do sức hư vọng huân tập bên trong tâm, nó cùng một lần sinh ra với
thân, chứ không đợi có tà giáo và tà phân biệt mới sinh, mà là nhậm vận chuyển
biến hiện khởi, nên gọi là Câu sanh. Loại Câu sanh này có hai:
1. Thường tương tục, tức thức thứ bảy duyên
kiến phần của thức thứ tám, khởi lên tướng kiến phần của thức thứ tám ấy trên
tự thức thứ bảy và chấp lấy tướng đó làm thật ngã.
2. Có gián đoạn, tức thức thứ sáu duyên vào
tướng năm thủ uẩn được biến hiện trên tự thức nó, hoặc duyên chung cả năm thủ
uẩn hoặc duyên riêng từng thủ uẩn, khởi lên tướng dạng ấy trên tự thức, rồi
chấp lấy tướng đó làm thật ngã. hai thứ câu sanh ngã chấp này vi tế nên khó
đoạn trừ. Về sau trong giai đoạn tu đạo, thường thường tu tập phép quán sanh
không thù thắng (nhân vô ngã, ở tu đạo vị quán lý sanh không sâu hơn ở kiến đạo
vị, nên gọi là thắng sanh không quán) một cách triệt để mới có thể đoạn trừ
được.
- Ngã chấp phân biệt cũng do sức của duyên
hiện tại bên ngoài, nó chẳng cùng một lần sanh ra với thân, mà phải đợi có tà
giáo và tà phân biệt mới sanh khởi được, nên gọi là phân biệt. Thứ ngã chấp
phân biệt này chỉ có ở ý thức. Ðây cũng có hai:
Một là duyên tà giáo nói về tướng năm uẩn,
rồi khởi lên tướng ấy trên tự tâm và phân biệt so đo chấp lấy tướng đó làm thật
ngã. Hai là duyên tà giáo nói về tướng ngã, rồi khởi tướng ấy trên tự tâm, và
phân biệt so đo chấp lấy tướng đó làm thật ngã.
Hai thứ ngã chấp phân biệt này thô phù nên
dễ đoạn trừ. Trong lúc tu tướng kiến đạo, quán tất cả pháp là sanh không chân
như (nhân vô ngã), tức có thể đoạn trừ.
Tất cả ngã chấp về năm thủ uẩn đã nêu trên,
đối với thủ uẩn bên ngoài tự tâm thì hoặc có, hoặc không, còn đối với năm thủ
uẩn khởi lên bên trong tự tâm thì đều có (thủ uẩn bên ngoài tự tâm hoặc có,
hoặc không, là như chấp có thật ngã ngoài tâm, thì ngã thể đó hoàn toàn không
có, giống như lông rùa; còn chấp các thủ uẩn do nhân duyên, y tha khởi làm ngã,
thủ uẩn đó là thật có, song tâm duyên không tới, vì nó là sơ sở duyên, nên cũng
gọi là ngoài tâm. Nghĩa thứ hai là như thức thứ bảy duyên thức thứ tám, chấp
làm ngã, thức thứ tám ở ngoài thức thứ bảy, nó có thật, còn thức thứ sáu đối
thức thứ tám thì không duyên tới, tức là không. Nhưng bản chất thủ uẩn sơ sở
duyên thì hoặc có, hoặc không có thật; còn ảnh tượng tướng phần thủ uẩn được
biến ra trên tự thức để mà duyên thì ảnh tượng ấy luôn luôn là có).
Thế nên biết ngã chấp đều duyên theo tướng
năm thủ uẩn vô thường mà vọng chấp đó là ngã. Nhưng các tướng uẩn ấy đều từ
duyên sanh, chúng chỉ có một cách như huyễn, vì so đo sai quấy chấp năm thủ uẩn
đó là ngã, thì ngã đó quyết định chẳng phải có thật. Cho nên Khế kinh nói:
"Bí sô nên biết, các thứ ngã kiến của hàng Sa môn, Bà la môn trong thế
gian, tất cả đều duyên theo tướng năm thủ uẩn mà khởi ra". (5)