- Thế nào ở ngoài thức không có pháp
thật?
- Vì pháp ở bên ngoài thức như của ngoại đạo
và các thừa giáo khác chấp, đúng lý thì nó chẳng phải có.
- Pháp của ngoại đạo chấp tại sao không có?
Phái số luận chấp: "Ngã là tư", nó
thọ dụng 24 pháp như Giác đại v.v... Ba đức Tát đỏa, Lạt xà, Ðáp ma (dũng,
trần, ám, hay tham, sân, si) hợp lại tạo thành v.v... Nhưng pháp Giác đại
v.v... đó do ba sự gốc là Tát đỏa, Lạt xà, Ðáp ma hợp thành, là thật chẳng phải
giả, hiện lượng nắm bắt được.
Lối chấp kia phi lý. Vì sao? Vì các pháp
Giác đại v.v... do ba sự gốc như vậy hợp thành, thì nó giống như đạo quân hay
đám rừng, là giả chứ chẳng phải thật, làm sao có thể nói pháp đó là hiện lượng
nắm bắt được?
Lại các pháp Giác đại v.v... nếu là thật có
thì nó như ba sự gốc ( là Tát đỏa, Lạt xà, Ðáp ma), chẳng phải do ba sự gốc hợp
thành. Lại Tát đỏa v.v... cũng chính là Giác đại v.v... thì đáng lý nó cũng như
Giác đại v.v... phải do ba sự gốc hợp thành và cũng chuyển biến vô thường như
Giác đại.
Lại ba sự gốc là Tát đỏa, Lạt xà, Ðáp ma,
mỗi cái có nhiều công năng, vậy thể nó cũng phải nhiều, vì công năng và thể là
một vậy. Lại ba thể đều đã biến khắp, thì khi ở một chỗ chuyển biến thời các
chỗ khác lẽ phải cũng chuyển biến, vì thể không khác nhau vậy. Còn như ba sự
ấy, thể và tướng đều khác nhau, thế thì làm sao hòa hợp chung thành một tướng?
Vì không lẽ khi hòa hợp biến làm một tướng, cùng với khi chưa hòa hợp, thể
không khác nhau. Nếu cho rằng ba sự đó, thể tuy khác mà tướng đồng, thì bèn
trái với tôn chỉ của ông chủ trương thể và tướng là một. Thể nên như tướng, âm
thầm là một; tướng nên như thể, rõ rệt là ba. Cho nên không thể nói ba thể hợp
thành một tướng.
Lại ba sự sai biệt, Giác đại v.v.. là tổng.
Tổng và biệt chung một, nên chẳng phải một, chẳng phải ba. Khi ba sự đó biến
chuyển nếu không hòa hợp thành một tướng, thì nên như khi chưa biến chuyển, làm
sao ta lại hiện thấy là một sắc tướng v.v... ? Nếu ba sự hòa hợp thành một
tướng, thì là mất biệt tướng gốc và thể cũng phải theo đó mất luôn.
Không thể nói ba sự đều có hai tướng, là một
tổng một biệt, vì tổng tức là biệt, tổng cũng phải là ba, như thế làm sao lại
thấy một? Nếu cho rằng ba thể đều có ba tướng hòa lẫn khó biết, nên thấy là một
thì cũng không được; vì đã có ba tướng thì đâu còn có thể thấy là một, lại làm
sao biết ba sự có khác?
Nếu kia mỗi mỗi thể đều đủ ba tướng, thì nên
mỗi mỗi sự đều có thể thành được sắc, thanh v.v... chứ có thiếu gì mà phải đợi
ba sự hòa hợp. Và mỗi thể cũng nên có ba tướng, vì thể tức là tướng vậy.
Lại các pháp Giác đại v.v... đều do ba sự
hợp thành, lần lượt đối với nhau không có sai biệt, thế thời nhân quả, ngũ duy
lượng, ngũ đại, các căn mỗi mỗi đều không sai biệt. Nếu không sai biệt thì một
căn có thể nhận biết được tất cả cảnh, hoặc một cảnh mà tất cả căn đều nhận
biết được, thể thời hiện thấy bằng hiện lượng, tỷ lượng các vật tình phi tình,
tịnh, uế trong thế gian, đều không sai khác nhau. Như thế là có lỗi lớn.
Cho nên biết thật pháp của phái Số luận kia
chấp không thành, nó chỉ do vọng tình so đo chấp cho là có thôi. (7)
Pháo thắng luận chấp: "Các cú nghĩa như
Thật, Ðức v.v... phần nhiều là có thật và có tự tánh, hiện lượng nắm bắt
được".
- Lối chấp này không đúng lý. Vì sao? Vì
trong các cú nghĩa, những cái có tính thưòng trú, nếu nó có thể sanh ra quả thì
là vô thường (tôn), vì nó có tác dụng (nhân) như qủa được sanh (dụ). Nếu nó
không sanh ra quả thì nó không thể lìa thức có tự tánh thật, ví như sừng thỏ.
Lại các cái vô thường, nếu có thể chất ngăn
ngại thì là có phương hướng và phần vị, nếu có phương hướng và phần vị thì có
thể phân tích, như đội quân, đám rừng, chẳng phải có thật tánh. Nếu không chất
ngại như Tâm, Tâm sở thì nó không thể lìa Tâm, Tâm sở mà có thật tánh.
Lại đất, nước, lửa, gió của phái Thắng luận kia chấp, chẳng phải có chất ngại,
nhiếp vào cú nghĩa thật (tôn), vì do thân căn xúc chạm (nhân) ví như cứng, ướt,
nóng, động (dụ). Và chính cứng, ướt, nóng, động của phái Thắng luận chấp, chẳng
phải không chất ngại, nhiếp vào cú nghĩa "Ðức" (tôn), vì do thân căn
xúc chạm (nhân) ví như đất, nước, lửa, gió (dụ). Ðất nước, lửa ba thứ như đối
với màu xanh v.v... đêu do mắt thấy, thì chuẩn theo lý lẽ đây mà khiển trách.
Thế nên biết không thật có tính, đất, nước, lửa, gió cùng cứng, ướt v.v...
riêng biệt, cũng không phải mắt thấy đất, nước, lửa, gió thật.
Lại phái Thắng luận kia chấp: "Trong
thật cú nghĩa, những cái có chất ngại và thường, đúng ra là vô thường (tôn), vì
đều có chất ngại (nhân), ví như đất thô (dụ) v.v... Trong các cú nghĩa, những
pháp không chất ngại, được sắc căn nhận biết, đáng ra đều có chất ngại (tôn),
vì họ cho pháp đó do sắc căn nhận biết (nhân) ví như đất, nước, lửa, gió (dụ).
Lại phái Thắng luận kia chấp: năm cú nghĩa
như Ðức, Nghiệp v.v... không nhiếp vào thật cú, đúng lý nó chẳng phải lìa ngoài
thức mà có tánh riêng (tôn), vì nó không nhiếp vào thật cú (nhân), ví như đứa
con của người con gái đá (dụ). Thật, Ðức cú v.v... chẳng nhiếp vào đại hữu
tánh, thì đúng lý nó chẳng phải lìa ngoài thức riêng có tự tánh (tôn), vì nó
chẳng nhiếp vào đại hữu tánh (nhân), ví như hoa đốm giữa không (dụ).
Lại đại hữu tánh của phái Thắng luận chấp:
"Lìa ngoài Thật, Ðức v.v... không riêng có tự tánh (tôn), vì họ cho rằng
đại hữu tánh chẳng phải không (nhân), ví như Thật, Ðức (dụ). Nếu lìa Thật, Ðức
v.v... thì chẳng phải là đại hữu tánh (tôn), vì họ cho rằng đại hữu tánh khác
với Thật, Ðức, (nhân) v.v... ví như cái hoàn toàn không (dụ). Như đại hữu tánh
chẳng phải không, (tức có) không cần riêng có hữu tánh để làm cho nó có, thế
thì tại sao Thật, Ðức v.v... lại cần riêng có hữu tánh để làm cho nó có? Nếu
lìa ngoài pháp không lại còn riêng có vô tánh. Nhưng kia đã không thế thì sao
đây lại thế? Cho nên biết đại hữu tánh của phái Thắng luận kia chấp chỉ là do
so đo hư vọng.
Lại phái Thắng luận kia chấp: "Tánh
đồng dị của Thật, Ðức, Nghiệp có riêng khác với thể Thật, Ðức, Nghiệp", lẽ
đó chắc chắn không đúng. Chớ nói tánh đồng dị đó cũng chẳng phải là tánh đồng
dị của Thật, Ðức, Nghiệp (tôn), vì nó có thể riêng khác với thể của Thật
(nhân), ví như Ðức, Nghiệp (dụ).
Lại lý đáng Thật, Ðức v.v... chẳng phải nhiếp
vào Thật, Ðức (tôn) v.v..., vì khác với tánh đồng dị của Thật, Ðức (nhân)
v.v..., ví như Ðức, Nghiệp và Thật (dụ).
Các tánh đồng dị của đất, nước, lửa, gió đối
với các thể đất, nước, lửa, gió, qua lại cật nạn, chuẩn theo đây nên biết. Như
tánh đồng dị của Thật v.v... không riêng có tánh đồng dị ngoài Thật v.v... để
làm cho nó thành tánh đồng dị, thì ngoài "Thật" v.v... cũng không nên
riêng có tánh đồng dị của Thật để làm cho Thật, Ðức, Nghiệp thành đồng dị. Nếu
lìa Thật riêng có tánh đồng dị của Thật, thời lẽ ra lìa phi Thật nên riêng có
tánh phi đồng dị của phi Thật. Nhưng kia đã không thế, thì sao đây lại thế? Cho
nên biết "đồng dị tánh", chỉ là giả bịa đặt.
Lại cú nghĩa "hoà hợp" của phái
Thắng luận kia chấp chắc chắn không phải thật có (tôn), vì nó nhiếp vào các
pháp phi thật v.v... (nhân), ví như cái hoàn toàn không (dụ).
Phái Thắng luận kia cho rằng: "Thật
v.v... do hiện lượng nhận biết", lấy lý suy xét nó còn chẳng phải thật có,
huống chi cú nghĩa "hòa hợp" mà theo họ không phải hiện lượng nhận biết,
thì đâu lại có thể thật có? Giả sử cho cú nghĩa hòa hợp là cảnh hiện lượng nhận
biết, thì bởi lý lẽ vừa nói, nó cũng chẳng phải thật có.
Nhưng các cú nghĩa Thật v.v... kia chẳng
phải là tự thể thật có ở ngoài thức do hiện lượng nhận biết (tôn), vì họ cho nó
là cái bị biết (nhân), ví như lông rùa (dụ).
Lại trí duyên "Thật cú" chẳng phải
nhiếp vào trí hiện lượng duyên tự thể thật cú ở ngoài thức (tôn), vì nó giả hòa
hợp sanh (nhân), ví như trí duyên "Ðức cú" (dụ) v.v... nói rộng cho
đến trí duyên "hòa hợp cú" cũng chẳng phải nhiếp vào trí hiện lượng
duyên tự thể "hòa hợp cú" ở ngoài thức (tôn), vì nó giả hòa hợp sanh
(nhân), ví như trí duyên "Thật cú" (dụ).
Do đó nên biết "Thật cú nghĩa
v.v..." của phái Thắng luận chấp cũng chỉ là theo vọng tình bịa đặt ra.
(8)
- Lại có người chấp có một "Ðại Tự Tại
thiên có thật thể biến khắp thường hằng, sanh ra vạn vật". Lối chấp kia
cũng phi lý. Vì sao? Vì nếu là cái gì năng sinh thì chắc chắn cái đó là vô
thường, các cái vô thường thì chắc chắn không thể biến khắp, các cái không biến
khắp thì không phải thật hữu. Và cái gì thể đã là thường, biến khắp, lại có đủ
các công năng, thì đáng lý cái đó ở khắp tất cả chỗ, tất cả lúc, và đồng loạt
sanh ra tất cả pháp. Còn nếu đợi có ý muốn và có duyên khác nó mới có thể sanh,
thì bị trái với Nhất nhân luận. Hoặc ý muốn và duyên khác cũng nên đồng loạt
khởi lên, vì thường có vậy.
- Ngoài ra, có người chấp có một "Phạm
thiên", "thời gian", "phương hướng", "bản
tế", "tự nhiên", "hư không", "ngã" v.v... là
thường trú, là thật có, đủ các công năng, sanh ra tất cả pháp. Những lối chấp
ấy đều được phá bác giống như đây.
- Có người chấp "riêng thứ âm
thanh" trong Ngũ minh luận (Vệ đà luận") là thường, nó có thể làm
định lượng để diễn tả các pháp. Lại có người chấp "tất cả âm thanh đều là
thường", chỉ chờ gặp duyên mà phát hiện, mới có khả năng diễn tả.
Hai lối chấp âm thanh trên đều phi lý. Vì
sao? Vì âm thanh trong Ngũ minh luận có khả năng diễn tả, thì nó không phải
thường trú (tôn), vì cho nó có khả năng diễn tả (nhân), ví như các âm thanh
khác (dụ). Các âm thanh khác cũng chẳng phải là thanh thể thường còn (tôn), vì
phải chờ duyên mới có (nhân), ví như cái bình, áo (dụ).
- Có ngoại đạo chấp "cực ví của đất,
nước, gió, lửa là thật có, thường còn, có khả năng sanh ra thô sắc, các thô sắc
được sanh ra không vượt quá phạm vi của nhân, nên các thô sắc ấy tuy là vô
thường, mà có thể nó thật có".
Lối chấp này cũng phi lý. Vì sao? Vì cực vi
ấy nếu có phương hướng, phần vị, ví như đàn kiến, thì thể nó chẳng phải thật.
Nếu không có phương hướng, phần vị, ví như Tâm, Tâm sở, thì nó không thể tụ tập
chung quanh sanh ra quả sắc thô. Nếu nó đã sanh quả (nhân), thì nó cũng giống
như quả được sanh (dụ), làm sao có thể bảo cực vi là thường trú (tôn)?
Lại quả sắc được sanh, không vượt khỏi phạm
vi của nhân cực vi, thì nó cũng như cực vi, không gọi đó là sắc thô, thời quả
sắc này không phải các sắc căn như nhẫn v.v... nhận biết, và thế là trái với
chủ trương của mình. Nếu bảo "quả sắc là do lượng và đức hợp lại, nên
không phải thô mà như là thô, sắc căn có thể nhận biết", song quả sắc được
chấp đó đã đồng với lượng của nhân cực vi, thì nó như cực vi, không cùng với
thô hợp được. Hoặc bảo cực vi cùng với tính thô hợp, thì nó như quả sắc thô,
cùng ở chung một chỗ. Nếu bảo "quả sắc biến khắp ở tự thể của nhân cực vi,
vì nhân chẳng phải một, nên có thể gọi là thô", nếu thế thời thể của quả
sắc chẳng phải là một. Như chỗ ở của nhân cực vi có riêng khác vậy. Ðã vậy thì
quả sắc này lại không thành thô sắc, do đó cũng không phải sắc căn nhận biết
được. Nếu quả sắc có nhiều phần hợp lại nên thành thô, nhiều cực vi nhân hợp
lại thì chẳng phải là nhỏ, đủ trở thành căn và cảnh, thì còn dùng quả sắc làm
gì? Ðã lo nhiều phần hợp thành, thì không phải thật có. Thế thời biết lối chấp
của ông trước sau trái nhau.
Lại quả và nhân đều có chất ngại, thì không
cùng ở trên một vị trí nưu hai cực vi. Nếu bảo "quả "và nhân thể nhập
vào nhau như nước nhập vào cát, thuốc nhập vào nước đồng"; ai chấp nhận
thể của cát và nước đồng thu nhận nước và thuốc đâu! Hoặc nước thu nhận cát,
thì thể của hạt cát, đã biến đổi rời nhau, chẳng phải một, thường; nước đồng
thu nhận thuốc, thì thể nước đồng biến thành vàng, chẳng phải còn là một, là
thường.
Lại quả sắc thô, thể nó nếu là một, thì khi
thức biết được một phần này là phải thấy được tất cả các phần khác; vì kia, đây
là một, thì kia hẳn phải như đây. Nếu ông không chấp nhận như thế thì trái sự.
Thế là điều người kia chấp, tới lui đều bất thành. Ðó chỉ theo vọng tình so đo
chấp trước. (9)
Nhưng các ngoại đạo chấp tuy có nhiều phẩm
loại, song pháp thể (hữu pháp) bị chấp không ngoài bốn thứ:
- Một là chấp hữu pháp (chỉ Giác đại v.v...
của Số luận) cùng với tánh có (chỉ Minh tánh của Số luận) thể chỉ là một, như
phái Số luận chấp. Lói chấp này phi lý. Vì sao? Vì đừng bảo hết thảy pháp chính
là tánh có. Nếu hết thảy pháp chính là tánh có, thì nó đều như tánh có, thể
không sai khác, bèn trái với ba đức (Tát đoả, Lạt xà, Ðáp ma) và ngã, mỗi cái
thể khác nhau (theo Số luận chấp) và trái với thế gian hiện thấy các pháp có
sai khác nhau. Lại nếu sắc v.v... chính là tánh của sắc v.v... thì sắc không
nên có xanh, vàng khác nhau.
- Hai là chấp hữu pháp (chỉ Thật, Ðức,
Nghiệp của Thắng luận) cùng với tánh có (chỉ Ðại hữu tánh của Thắng luận), thể
khác nhau, như phái Thắng luận chấp, Lối chấp này cũng phi lý. Vì sao? Vì đừng
bảo hết thảy pháp phải là phi tánh có. Giống như vật đã diệt không còn gì để
biết được, là trái với "Thật cú" v.v... tự thể nó không phải không,
và cũng trái với thế gian hiện thấy có các vật. Lại nếu sắc không phải tánh
sắc, thì sắc nên như là tiếng, không phải là cảnh của mắt thấy.
- Ba là chấp hữu pháp cùng với tánh nó cũng
một cũng khác, như phái ngoại đạo Vô tâm chấp. Lối châp này cũng phi lý. Vì
sao? Vì nói một và khác đều bị lỗi như một và khác đã nói trên kia. Hai tướng
khác nhau, thì thể phải sai khác nhau. Còn nếu một và khác đồng thể, đều không
thành được. Chớ có bảo hết thảy pháp cùng đồng một thể. Hoặc một và khác chỉ là
giả không phải thật mà chấp là thật, thì lý không thành.
- Bốn là hữu pháp cùng với tánh có chẳng một
chẳng khác, như phái ngoại đạo Tà mạng chấp. Lối chấp này cũng phi lý. Vì sao?
Vì chẳng một chẳng khác khác thì là đồng với một và khác.
Lời nói chẳng một chẳng khác là lời nói già
hay biểu (phủ định hay khẳng định). Nếu là biểu thì không nên nói phi cả hai,
còn nếu là già thì là không chấp chi hết. Còn cũng già cũng biểu thì là bị trái
lẫn nhau. Còn phi già phi biểu thì thành hý luận. Lại nói chẳng một chẳng khác
là trái với sự hiểu biết chung của thế gian về các vật có một có khác. Và cũng
trái với chủ trương của mình (các pháp sắc v.v... quyết định thật có".
Thế nên biết lời nói của
kia chỉ là lối quanh co chạy lỗi, những người có trí, chớ lầm chấp nhận. (10)