- Trên đã nói tướng năng biến thứ nhất, còn
tướng năng biến thứ hai thế nào?
Tụng rằng:
Thức năng biến thứ hai,
Gọi là thức Mạt na,
Nương kia chuyển, duyên kia,
Tư lương làm tánh tướng.
Tương ưng bốn phiền não,
Là ngã si, ngã kiến,
Và ngã mạn, ngã ái
Và tâm sở xúc thảy.
Tánh hữu phú vô ký
Sanh theo A lại da,
Chứng La hán, Diệt định.
Xuất thế đạo, không còn.
Luận rằng: "Tiếp sau thức Dị thục năng
biến thứ nhất, nên biện giải tướng thức tư lương năng biến thứ hai".
(23)
- Thức này trong Thánh giáo gọi riêng tên
Mạt na, vì nó có tánh thường thẩm xét nghĩ lường mạnh hơn các thức khác.
- Tên này có gì khác với ý thức thứ sáu? Ðây
gọi tên ý là giải thích theo lối trì nghiệp, như danh từ "Tạng thức",
vì thức tức là ý, còn chữ ý thức là giải thích theo lối y chủ, ví như
"nhãn thức", vì thức khác với ý căn. (Trì nghiệp thích là căn cứ
nghiệp dụng của nó mà đặt tên, y chủ thích là căn cứ chỗ dựa của nó mà đặt
tên).
- Nhưng trong các Thánh giáo sợ lầm thức này
thành thức kia, cho nên ở thức thú bảy chỉ gọi là ý (chứ không gọi ý
thức).
Lại nêu tên ý, vì để giản biệt với "tâm
đệ bát" với sáu thức, vì Mạt na thua kém thức đệ bát về nghĩa chứ nhóm,
thua sáu thức về nghĩa liễu biệt. Hơạc muốn chỉ rõ Mạt na làm chỗ nương gần
nhất cho ý thức kia, nên chỉ gọi nó là ý. (24)
Câu "nương kia chuyển" là chỉ rõ
chỗ nương của thức Mạt na. Kia là chỉ cho Tàng thức năng biến thứ nhất nói
trước kia. Thánh nói thức này nương nơi Tàng thức.
- Có ý kiến cho ý Mạt na này đều lấy
cả chủng tử đệ bát thức làm chỗ nương, chứ không phải lấy hiện hành thức đệ bát
làm chỗ nương, vì thức Mạt na này không gián đoạn, không cần mượn thức hiện
hành đệ bát làm câu hữu y mới sanh khởi được.
- Có ý kiến cho thức Mạt na này đều lấy cả
chủng tử và hiện hành thức đệ bát làm chỗ nương. Thức Mạt na tuy không gián
đoạn mà có chuyển dịch (chuyển nhiễm thành tịnh, tịnh thành nhiễm), gọi là
chuyển thức, tất phải mượn cả hiện hành thức đệ bát làm câu hữu y mới phát sanh
được.
Chuyển nghĩa là lưu chuyển (tức tương tục
sanh khởi). Hiển thị thức Mạt na này hằng nương hiện hành đệ bát thức và chủng
tử trong đệ bát thức mà sanh khởi, lại lấy đệ bát thức làm sở duyên. (Mạt na
lấy chủng tử trong đệ bát mà khởi, đó là nhân duyên; còn dựa đệ bát thức khởi,
đó là câu hữu y, Tăng thượng duyên).
Các Tâm,Tâm sở đều có chỗ nương, nhưng chỗ
nương của nó gồm có ba thứ:
1. Nhân duyên y (cũng gọi Chủng tử y) tức là
chủng tử của chính mỗi pháp. Các pháp hữu vi đều gá đó làm chỗ nương, vì rời
nhân duyên chủng tử của chính mình, thì chắc chắn không sanh khởi được.
2. Tăng thượng duyên y (cũng gọi Câu hữu y)
- tức sáu xứ bên trong (sáu căn). Các Tâm, Tâm sở đều gá chỗ nương này, vì rời
căn câu hữu thì chắc chắn không sanh khởi được.
3. Ðẳng vô gián duyên y (cũng gọi Khai đạo
y) - Tức ý trước diệt (mở lối cho ý sau sanh). Các Tâm, Tâm sở, đều gá chỗ
nương này, vì rời gốc khai đạo (mở lối dẫn đẳng vô gián) thì chắc chắn không
sanh khởi được.
Chỉ Tâm Tâm sở là phải có đủ ba chỗ nương
ấy, cho nên gọi là có chỗ nương, chứ không phải pháp khác.
- Trước hết là chủng tử y (Nhân duyên y) có
hai thuyết:
a. Có người nói rằng cần phải có chủng tử
diệt rồi thì hiện quả mới sanh, vì cần phải không có chủng tử, vậy sau quả mới
sanh, như Tập luận đã nói thế. Lại như hạt giống và mầm không phải cùng có một
lúc (câu hữu).
b. Có người cho lời dẫn Tập luận kia để
chứng minh không thành. Vì Tập luận chỉ dựa vào sự dẫn sanh tự loại chủng tử về
sau mà nói thế. Nói hạt giống sanh ra mầm, đó không phải là đúng nhất. Vì cho
hạt giống diệt mà mầm sanh là điều không được công nhận. Như tim đèn và lủa
phải đồng thời mới làm nhân lẫn nhau được.
Nhưng trong mỗi chủng tử tự loại, thì nhân
quả không đồng thời, còn chủng tử sanh hiện hành, hiện hành sanh chủng tử, thì
quyết định đồng thời có. Cho nên luận Du già nói pháp hữu vi vô thường làm nhân
cho tha tánh và cũng làm nhân cho tự tánh ở niệm sau. Ðó chính là nghĩa của chữ
"Nhân duyên". Nói "tự tánh" là chỉ rõ tự loại chủng tử niệm
trước làm nhân cho niệm sau. Nói "tha tánh" là chỉ rõ chủng tử cùng
hiện hành làm nhân cho nhau.
Luận Nhiếp Ðại thừa cũng nói rằng Tạng thức
và nhiễm pháp làm nhân duyên cho nhau, giống như bó cây lau đồng thời nương
nhau đứng vững; lại nói chủng tử và hiện quả phải đồng thời, cho nên
"Chủng tử y" không thể trước sau được. Dầu có chỗ nói: "Chủng tử
và hiện quả có trước sau". nên biết đây đều nói theo lối tùy chuyển (tức
chuyển Ðại thừa để nói lý Tiểu thừa, chuyển lý chính nói theo lý phụ).
Như vậy tám thức và các Tâm sở nhất định có
mỗi chủng tử làm chỗ nương riêng.
- Thứ hai là Câu hữu y (Tăng thượng duyên y)
có bốn thuyết:
a. Có thuyết cho rằng năm thức nhãn, nhĩ
v.v... lấy ý thức làm Câu hữu y, vì khi năm thức khởi lên phải có ý thức, chứ
không có nhãn căn riêng v.v... làm Câu hữu y, vì năm căn chính là chủng tử của
năm thức. Như bài tụng trong Nhị thập Duy thức nói:
Thức từ tự chủng sanh,
Chuyển theo tướng tợ cảnh,
Vì thành nội ngoại xứ,
Phật dạy: Ðó là mười.
Bài tụng này ý nói đức Thế Tôn vì thành lập
mười hai xứ, nên nói chủng tử của năm thức là năm căn v.v... còn tướng phần của
năm thức là năm trần v.v... cho nên biết nhãn căn v.v... chính là chủng tử của
năm thức.
Luận Quán Sở Duyên cũng nói:
Sắc công năng trên thức,
Gọi năm căn, hợp lý.
Công năng với cảnh sắc,
Vô thỉ làm nhân nhau.
Bài tụng này ý nói chủng tử sanh sắc thức
như nhãn v.v... ở trên Dị thục thức đó gọi là sắc công năng, nói sắc công năng
đó là năm căn, chứ không phải có năm căn riêng biệt. Căn chủng tử và sắc thức
thường làm nhân cho nhau, vì hiện thức hiện sắc năng huân thường cùng căn chủng
tử làm nhân cho nhau.
Thức thứ bảy và thức thứ tám không có câu
hữu y riêng, vì tự lực nó mạnh, hằng thời tương tục sanh khởi, còn thức thứ sáu
có câu hữu y, vì phải nương thức Mạt na mới sanh khởi được.
b. Có người cho lời nói trên trái với cả lý
và giáo. Vì nếu năm sắc căn chính là chủng tử của năm thức, thì chủng tử của
mười tám giới phải thành lộn xộn. Nhưng mười tám giới đều có chủng tử riêng,
nên trong Thánh giáo nơi nào cũng nói như vậy.
Lại chủng tử năm thức mỗi mỗi có khả năng
sanh tướng phần, kiến phần khác nhau, như vậy thì tại sao chấp tướng phần hay
kiến phần làm nhãn căn v.v...? Nếu chấp chủng tử kiến phần thì kiến phần nó
nhiếp vào thức uẩn; nếu chấp chủng tử tướng phần thì tướng phần nó nhiếp vào
ngoại xứ. Cả hai lối chấp đều trái với Thánh giáo nói: "Năm căn nhãn, nhĩ
v.v... đều nhiếp vào sắc uẩn nội xứ bên trong".
Lại nếu năm căn chính là chủng tử của năm
thức, thì năm căn phải là nhân duyên của năm thức, không nên nói năm căn nhiếp
vào tăng thượng duyên.
Lại nếu tỷ căn, thiệt căn chính là chủng tử
của hai thức đó, vậy thì hai căn tỷ, thiệt giống như hai thức tỷ, thiệt, chỉ
nên ràng buộc ở cõi Dục, hoặc cả hai thức tỷ, thiệt, giống như hai căn tỷ,
thiệt cũng nên ràng buộc luôn ở cõi Sắc. Nếu chấp nhận như thế thì trái với
Thánh giáo. (Nói chỉ có ba thức nhãn, nhĩ, thân ở nhị địa, chứ tỷ và thiệt thức
chỉ có ở cõi Dục). Còn nói ba căn nhãn, nhĩ, thân chính là chủng tử ba thức thì
nên chỉ có ở hai địa vị là Ngũ thú Tạp cư và Sơ thiền. Hoặc nói không có ở cả
Năm địa là Ngũ thú Tạp cư và Bốn cõi Thiền thì cũng bị cật nạn như thế.
Lại chủng tử năm thức đã thông cả hai tánh
thiện, ác, thì năm sắc căn không phải chỉ có tánh vô ký.
Lại chủng tử năm thức nhiếp vào loại không
chấp thọ, thì năm căn cũng phải nên không chấp thọ.
Lại năm sắc căn nếu là chủng tử của năm thức, thì chủng tử ý thức phải là Mạt
na, vì năm thức kia đã lấy năm căn làm đồng pháp vậy (đồng làm căn cho chuyển
thức nương).
Lại luận Du già nói sáu thức nhãn nhĩ v.v...
đều đủ ba chỗ nương (là nương chủng tử hoặc gọi Nhân duyên y; nương căn, hoặc
gọi Câu hữu y; nương diệt ý hoặc gọi Ðẳng vô gián y). Nay nếu nói năm sắc căn
chính là chủng tử của năm thức thì chỗ nương chỉ có hai.
Lại trong Thánh giáo nói năm căn nhãn, nhĩ
v.v... là nói chung cả căn hiện hành và căn chủng tử. Nay chấp chủng tử năm
thức là năm căn thì trái với tất cả Thánh giáo.
- Có người muốn tránh lỗi nói trên, dựa vào
lối chấp ấy để cứu chữa rằng: "Nghiệp chủng tăng thượng chiêu cảm năm thức
ở trong Dị thục thức, đó gọi là năm sắc căn, chứ không phải làm nhân duyên
chủng tử sanh ra năm thức". Lẽ này khéo phù hợp với hai bài tụng và khéo
thuận với luận Du già.
- Người kia nói thế chỉ là nói suông, không
có thật nghĩa, vì nếu thế thì lẽ đáng năm sắc căn chẳng phải là vô ký. Lại
nghiệp chủng là năm căn thì không phải chỉ có chấp thọ, chỉ nhiếp vào sắc uẩn,
chỉ nhiếp vào nội xứ, hai căn tỷ thiệt chỉ nên ràng buộc ở Dục giới, ba căn
không nên ràng buộc ở năm địa (Ngũ thú Tạp cư và Bốn cõi Thiền), vì nghiệp
chủng chiêu cảm ý thức lý ưng là Mạt na, nhãn, nhĩ v.v... không thể không hiện
hành và chủng tử lại có thể là nhãn, nhĩ v.v... mà không phải là sắc căn. Lại
nếu năm thức đều do nghiệp chiêu cảm, thời có thể một mực nhiếp vào vô ký tánh,
thời năm thức thiện ác v.v... đã không phải nghiệp chiêu cảm, thì không có nhãn
căn v.v... làm Câu hữu y. Cho nên lời nói của ông, không phải là lời cứu chữa
khôn khéo.
Lại trong các Thánh giáo đều nói: "A
lại da thức biến hiện tợ sắc căn và chỗ căn nương (thân) cùng khí thế
gian)". Tại sao ông lại bác không có sắc căn, chỉ chấp nhận nhãn thức
v.v... biến hiện ra tợ sắc, tợ thanh, mà không chấp nhận nhãn thức v.v... được
Tạng thức biến hiện? Mê và lầm như thế thật rất trái với giáo lý.
Nhưng Tụng nói:" Công năng chủng tử gọi
là năm căn" là cốt để phá người chấp lìa ngoài thức thật có năm căn.
Nên hiểu chính do bản thức biến hiện ra tợ
nhãn căn ... căn này có tác dụng phát sanh năm thức nên giả gọi đó là chủng tử
và sắc công năng, chứ không phải nói sắc căn chính là chủng tử của thức và của
nghiệp.
Lại minh liễu ý thức duyên năm cảnh, nên lấy
năm thức làm Câu hữu y, vì minh liễu ý thức này phải cùng khởi một lần với năm
thức. Nếu minh liễu ý thức không nương năm thức nhãn, nhĩ v.v... thì minh liễu
ý thức không thể làm chỗ nương cho năm thức, vì chúng dựa lẫn nhau, có thế lực
ngang nhau.
Lại thức thứ bảy, tuy không gián đoạn nhưng
đến bậc kiến đạo, tu đạo nó đã có chuyển đổi, thì nó phải như sáu thức có Câu
hữu y. Nếu không như vậy, thì nó phải không nhiếp vào chuyển thức, do đó trái
với Thánh giáo nói chuyển thức có bảy thứ. Cho nên chấp nhận thức thứ bảy có
Câu hữu y, và Câu hữu y đó chính là thức thứ tám hiện hành. Như luận Du già
nói: "Có Tạng thức nên có thức Mạt na, có thức Mạt na làm chỗ nương, mà Ý
thức được phát sanh".
Luận kia ý nói: "Hiện hành Tạng
thức" làm chỗ nương mói có thức Mạt na, chứ không phải do chủng tử của nó
trong Tạng thức. Không vậy thì nên nói có Tạng thức cho nên Ý thức được phát
sanh. Do đó, lời nói kia lấy chủng tử làm căn và Mạt na không có Câu hữu y , là
trái với lý giáo.
Thế nên nói: "Năm chuyển thức trước mỗi mỗi phải có hai Câu hữu y, đó là
năm sắc căn và đồng thời Ý thức".
Chuyển thức thứ sáu quyết định thường có một
Câu hữu y, đó là thức thứ bảy. Nếu Ý thức cùng khởi lên một lần với năm thức
trước thì cũng lấy năm thức trước làm Câu hữu y. Chuyển thức thứ bảy quyết định
chỉ có một Câu hữu y, đó là thức thứ tám. Chỉ riêng thức thứ tám hằng thường
không chuyển biến, tự mình đúng vững, không cần có có Câu hữu y".
c. Có người cho rằng câu nói trên chưa hết
lý. Thức thứ tám so với các thức khác đã đồng là thức, thì tại sao không chấp
nhận thức thứ tám có Câu hữu y? Thức thứ bảy, thức thứ tám đã hằng cùng nhau
sinh khởi lại cùng nhau nương nhau, như thế có gì lỗi?
Ðã chấp nhận thức hiện khởi (hiện hành) lấy
chủng tử của chính nó làm chỗ nương, thì cũng nên chấp nhận chủng tử đó cũng
nương nơi thức hiện khởi (hiện hành). Ý nói thức hiện hành nương chủng tử,
chủng tử nương thức hiện hành). Bảy chuyển thức hiện hành có thể huân thành
chủng tử nơi thứcDị thục. Chủng tử ấy lấy bảy chuyển thức năng huân làm chỗ
nương, lấy thức Dị thục sở huân làm chỗ nương mà tồn tại. Nếu lìa bảy chuyển
thức năng huân và thức Dị thục sở huân thì chủng tử không thể sanh, lớn và trụ.
Lại thức Dị thục, ở trong cõi có sắc nó chấp
trì thân và nương sắc căn mà phát khởi. Như Khế kinh nói: "Thức A lại da
nhân gió nghiệp thổi động, khắp nương các căn, mà hằng tương tục sanh
khởi". Luận Du già nói: "Sáu thức nhãn, nhĩ v.v... đều có chỗ nương
riêng, nên không có khả năng chấp thọ toàn thân có sắc căn". Nếu thức Dị
thục không chấp y chỉ nơi các sắc căn, thì nó cũng như sáu thức không có khả
năng chấp thọ. hoặc cái nhân được lập đó, mắc phải lỗi bất định (theo Nhân
minh).
Cho nên Tạng thức nếu hiện khởi thì nhất
định có một chỗ nương, đó là thức thứ bảy. Khi ở trong cõi có sắc, nó cũng
nương sắc căn, nếu là thức chủng tử thì nhất định có một chỗ nương, đó là thức
Dị thục, khi ở địa vị mới huân tập cũng nương nơi thức năng huân. Các lẽ khác
như trước đã nói.
d. Có người cho rằng các lời nói trên đều
không đúng lý, vì họ chưa rõ chỗ nương và nương khác nhau. Nương là chỉ cho tất
cả pháp sanh diệt phải nương nhân cậy duyên mà sanh khởi và tồn tại. Các chỗ
nương cậy cũng gọi là nương. Như vua và tôi đều nương lẫn nhau. Nếu pháp gì có
ý nghĩa là quyết định đồng thời, có cảnh duyên, làm chủ và có khả năng khiến
Tâm, Tâm sở tiếp nhận cảnh sở duyên của chính nó, thì pháp đó mới là chỗ nương.
Nói rõ, chính sáu xứ bên trong (sáu căn) mới là chỗ nương. Ngoài ra pháp gì
không phải có cảnh sở duyên, không có tánh quyết định và không làm chủ thì
không phải chỗ nương, như vua chứ không phải như tôi. Cho nên trong Thánh giáo
nói chỉ có Tâm, Tâm sở là có chỗ nương (là các căn), chứ không phải sắc pháp,
vì sắc pháp không có cảnh sở duyên. Chỉ nói Tâm sở lấy Tâm vương làm chỗ nương,
chứ không nói Tâm sở làm chỗ nương cho Tâm, vì Tâm sở không phải là chủ, không
tự tại (như bề tôi).
Nhưng có chỗ nói nương là chỗ nương, hoặc
chỗ nương là nương, đều tùy nghi giả nói.
Do đó năm thức đều có chỗ nương, và nhất
định có bốn chỗ, đó là năm sắc căn, thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám.
Nếu thiếu một thì năm thức không sanh được, vì bốn chỗ nương này nói cách khác
tức là đồng cảnh y, phân biệt y, nhiễm tịnh y và căn bổn y khác nhau.
Nhưng Thánh giáo thường chỉ nói năm thức
nương năm căn, vì năm căn là chỗ nương riêng của mỗi thức. Lại đồng cảnh y (tức
năm căn, thức đồng duyên một cảnh với căn v.v...) là cái tương thuận gần nhất
với năm thức.
Ðệ lục Ý thức chỉ có hai Câu hữu y đó là
thức thứ bảy và thức thứ tám. Thiếu một trong hai thứ thì thức thứ sáu không
sanh ra được. Ý thức thứ sáu tuy cùng năm thức tiếp nhận tiền cảnh rõ ràng,
nhưng không nhất định lúc nào Ý thức cũng nương năm thức, cho nên năm thức
không phải là chỗ nương riêng của Ý thức.
Thánh giáo chỉ nói Ý thức nương thức thứ
bảy, đó là nhiễm tịnh y, vì hai thức này đồng nhiếp thuộc vào chuyển thức,
tương thuận gần nhau.
Câu hữu y của thức thứ bảy chỉ có một, đó là
thức thứ tám. Vì nếu không có Tạng thức thứ tám thì thức thứ bảy không sanh
được, như bài tụng nói:
Nhờ nương A lại da,
Nên có Mạt na sanh,
Y chỉ Tâm và Ý,
Các chuyển thức khác sanh.
Câu hữu y của thức A lại da cũng chỉ có một
thứ, đó là thức thứ bảy. Nếu không có thức thứ bảy thì A lại da quyết không
sanh được. Do đó, trong Luận nói: "Tạng thức thường cùng thức Mạt na đồng
thời sanh khởi".
Lại nói Tạng thức thường nương thức nhiễm ô,
chính là nương thức Mạt na này, nhưng có chỗ nói ở ba địa vị (A la hán, Diệt
tận định, Xuất thế đạo) không có Mạt na, đó là dựa vào tánh hữu phú của thức
Mạt na mà nói, cũng như nói ở bốn địa vì (Ba thừa Vô học vị và Phật) không có A
lại da, chứ không phải ở nơi bốn vị đó không có thức thứ tám (ở bốn địa vị đã
dứt ngã ái chấp tàng mà nói là không có A lại da, chứ thể của thức thứ tám luôn
vẫn có). Nghĩa đây cũng thế.
Tuy ở cõi có Sắc, thức A lại da cũng nương năm căn mà phát sanh, nhưng không
nhất định khi nào cũng có, nên năm căn này không nhiếp vào loại Câu hữu y của
thức thứ tám A lại da. Chủng tử củă thức không thể hiện tiền tiếp nhận cảnh của
chính mình, nên nó có thể có nghĩa nương mà không có nghĩa là chỗ nương như
căn. Còn chỗ nương của Tâm sở thì tùy theo thức Tâm vương nó tương ưng mà nói,
mỗi Tâm sở lại gia thêm Tâm vương mà nó tương ưng để làm chỗ nương. Nếu nói như
thế là khéo phù hợp với lý và giáo.
- Cuối cùng là Khai đạo y – (Ðẳng vô gián
duyên y). Có ba thuyết:
1. Có người cho rằng năm thức trước tự mình
và thông qua thức khác trước sau không tương tục, không thể làm Khai đạo y, nên
chắc chắn phải có thức thứ sáu dắt dẫn phát sanh, và chỉ có thức thứ sáu làm
Khai đạo y. Còn Ý thức thứ sáu, tự mình tương tục và cũng do năm thức trước dắt
dẫn phát sanh, nên lấy năm thức trước làm Khai đạo y.
Thức thứ bảy, thức thứ tám tự mình tương tục
không cần thức khác dắt dẫn phát sanh, nên chỉ lấy tự loại chính mình làm Khai
đạo y.
2. Có người cho rằng thuyết trên chưa hết
lý, vì năm thức trước khi ở địa vị chưa tự tại và gặp cảnh xấu, thì có thể nói
như trên, chứ nếu năm thức ở địa vị tự tại như chư Phật đối với cảnh được tự
tại, các căn sử dụng chung, nhậm vận quyết định không cần tầm cầu thì năm thức
thân của chư Phật đâu phải không tương tục. - Lại năm thức đẳng lưu đã do thế
lực của tâm quyết định, tâm nhiễm tịnh, và tác ý của ý thức dắt dẫn mà khởi
lên, ngay khi tiếp tục chuyên chú duyên cảnh sở duyên chưa rời bỏ, thì làm sao
không chấp nhận năm thức đó có nhiều niệm tương tục (đẳng lưu)?
Cho nên luận Du già nói: "Tiếp sau tâm
quyết định mới có tâm nhiễm tịnh, rồi tiếp sau đó mới có nhãn thức thiện, bất
thiện sanh khởi, nhưng chúng không do sức phân biệt của chính mình mà do ý
thức, cho đến khi ý thức chưa chạy theo duyên cảnh khác. Trong thời gian đó
nhãn và ý hoặc thiện, hoặc nhiễm, cứ tương tục sanh khởi.
Giống như nhãn thức sanh, cho đến thân thức
sanh nên biết cũng thế. Ý luận trên đây định nói rõ trong thời gian hai thức và
ý cùng đồng thời tương tục sanh khởi, khi đã có nhãn thức thì cũng có ý thức,
cho nên không phải hai thức tương tục sanh lẫn nhau. Nếu khi gặp cảnh cường
thịnh tiếp tục hiện tiền bức đoạt thân tâm không thể thời rời bỏ, bấy giờ năm
thức thân chắc chắn phải tương tục, như ở cảnh địa ngục nóng rất khổ hoặc cõi
trời hý vong rất vui (trời Dục giới).
Cho nên luận Du già nói: "Nếu sáu thức niệm trước làm Ðẳng vô gián duyên
cho sáu thức niêm sau, tức lấy đó thi thiết gọi là ý căn; còn nếu năm thức
trước sau quyết định chỉ có ý thức làm Khai đạo y", thời luận kia nên nói:
"Một ý thức này làm Ðẳng vô gián duyên (Khai đạo y) cho sáu thức
kia", hoặc nên nói sáu thức này làm Ðẳng vô gián duyên cho một thức kia.
Nhưng luận kia đã không nói như vậy, cho nên biết năm thức có sự tương tục. Khi
năm thức khởi lên chắc chắn có ý thức niệm trước dẫn dắt ý thức niệm sau làm
cho phát khởi, cần gì phải có năm thức làm Khai đạo y?
Khi ở địa vị vô tâm và ngủ mê, Ý thức đã
dứt, lúc sau nó khởi lại, trong khoảng thời gian đó Tạng thức va Mạt na đã hằng
tương tục, thì cũng nên làm Khai đạo y cho Ý thức ấy, còn nếu Ý thức dùng tự
loại niệm trước làm Khai đạo cho niêm sau, thì tại sao lại không chấp nhận tự
loại năm thức cũng làm Khai đạo y cho mình? Ðây đã không như vậy, thì sao kia
lại như vậy?
Khi thức Mạt na khởi đầu tương ưng với Bình
đẳng tánh trí, cũng phải do Ý thức thứ sáu (quán hai không) dắt dẫn, vậy cũng
nên lấy thức thứ sáu làm Khai đạo y (cho Mạt na).
Khi đệ bát tịnh thức khởi đầu tương ưng với
Ðại viên cảnh trí cũng phải do thức thứ sáu (tương ưng với Diệu quan sát trí)
và thứ bảy (tương ưng với Bình đẳng tánh trí), làm phương tiện dẫn tới phát
sanh. Lại tâm Dị thục khi ở địa vị nhiễm ô thì nương nhiễm ô ý, hoặc khi ở vị
chuyển y thì nương nơi thiện tâm tương ưng với nguyện từ bi. Như vậy quyết phải
chấp nhận đệ bát thức cũng lấy thức thứ sáu, thức thứ bảy làm Khai đạo y. Do đó
các lời nói trên kia đều chưa rốt ráo.
Ðúng ra nên nói năm thức trước tùy nghi mà
dùng thức nào trong sáu thức niệm trước làm Khai đạo y. Ý thức thứ sáu dùng tự
loại niệm trước hoặc dùng thức thứ bảy, thức thứ tám làm Khai đạo y. Thức Mạt
na thứ bảy dùng tự loại niệm trước hoặc dùng thức thứ sáu làm Khai đạo y. Thức
A đa na (thức thứ tám) dùng tự loại niệm trước và thức thứ sáu, thứ bảy làm
Khai đạo y, đều không trái lý. Do đã nói trước rồi vậy.
3. Có người cho ý kiến vừa nói cũng không
đúng lý, vì Khai đạo y có nghĩa là pháp gì mà có đủ bốn nghĩa là thật có (Bất
tương ưng hành không thật có) có khả năng duyên (sắc không có khả năng nhận
biết), làm chủ (Tâm sở không phải chủ) và có thể làm Ðẳng vô gián duyên (thức
khác loại và thức niệm sau không thể làm Ðẳng vô gián duyên), thì gọi là Khai
đạo y. Ðậy chỉ thuộc tâm chứ không phải thuộc Tâm sở, hay sắc, Bất tương ưng
hành, Vô vi pháp.
Nếu thức niệm trước này và thức niệm sau khi
không có nghĩa đồng khởi, mới nói thức này có năng lực khai đạo cho thức kia,
còn tám thức trong một thân đã có thể đồng khởi, tức thức này đối thức kia là
khác loại, khác loại thì chỉ làm Câu hữu y chứ làm sao mà làm Khai đạo y cho
nhau được.
Nếu chấp nhận thức khác loại làm Khai đạo y,
thì tám thức không đồng thời khởi (vì đồng thời khởi thì không phải Khai đạo y)
tức là đồng nghĩa với nghĩa của Tiểu thừa dị bộ chấp tâm không đồng sanh.
Lại trong một thân, các thức đồng khởi nhiều
ít (khi một thức, khi hai, ba thức) không nhất định. Nếu cho nó làm Ðẳng vô
gián duyên cho nhau, thời sắc căn (và Bất tương ưng hành pháp v.v...) khác loại
với tâm cũng đều là Ðẳng vô gián duyên như vậy, do đó trái lời Thánh nói:
"Ðẳng vô gián duyên chỉ có Tâm Tâm sở".
Nhưng luận Nhiếp Ðại thừa nói: "Sắc
cũng có Ðẳng vô gián duyên", đây lời nói buông ra để đoạt lại. Nghĩa là
giả sử như Tiểu thừa cho sắc tâm trước sau có Ðẳng vô gián duyên, nói thế là
đoạt mất nghĩa nhân duyên. Không như vậy mà nói "Ðẳng", thì chữ
"Ðẳng" này thành vô dụng. Vì nếu bảo "Ðẳng" không phải là
ngăn nhiều ít tâm, mà chỉ biểu thị đồng loại, thì nói đồng loại làm Ðẳng vô
gián duyên là trái điều ông (Tiểu thừa) chấp thức khác loại làm Ðẳng vô gián
duyên.
Thế nên biết tám thức đều chỉ lấy tự loại
làm Khai đạo y, rất là phù hợp với giáo và lý. Vì tự loại tức không có nghĩa
đồng khởi. Khai đạo y của Tâm sở, do tùy theo nơi mỗi thức Tâm vương mà nó
tương ưng để nói.
Tuy Tâm, Tâm sở khác loại đồng sanh, nhưng
tương ưng lẫn nhau, hòa hợp tuồng như một, quyết định đồng sanh đồng diệt và sự
thể, nghiệp dụng cũng đồng. Một thức khai đạo thì các thức khác cũng khai đạo
(như Xúc tâm sở cùng sanh với nhãn thức thì các Tâm sở Thọ, Tưởng, Tư cùng tiếp
sanh theo), cho nên lần lượt làm Ðẳng vô gián duyên cho nhau. Còn các thức Tâm
vương thông với nhau thì không có nghĩa khai đạo như vậy, không nên đem Tâm sở
ra làm định lệ. Nhưng các Tâm sở chẳng phải là Khai đạo y, (mà chỉ là Ðẳng vô
gián duyên), vì nó không có tự chủ với việc dẫn sanh ra cái khác.
- Nếu Ðẳng vô gián duyên của Tâm, Tâm sở chỉ
đều do tâm tự loại, thì khi thức thứ bảy, thức thứ tám mới bắt đầu chuyển y,
các Tâm sở tín v.v... tương ưng với nó sẽ thiếu mất cái duyên tự loại Ðẳng vô
gián đó. Thức thứ bảy, tám khi chưa chuyển y thì không có mười một thiện Tâm sở
tương ưng. Khi chuyển y thì có mười một thiện tương ưng, nếu phải tâm tự loại
làm Ðẳng vô gián duyên, thì mười một thiện này khi đó thiếu cái duyên Ðẳng vô
gián (vì khi chưa chuyển y nó chưa có) và sẽ trái lời Thánh nói: "Các Tâm
Tâm sở đều đủ bốn duyên mới sanh khởi".
Khi ở địa vị vô tâm, ngủ mê và chết ngất v.v... Ý thức tuy đoạn mà lúc sau lại
khởi thì Khai đạo y của nó chính là tự loại ở thời gian trước đó. Tự loại năm
thức nên cũng biết thế. Không có tâm khác loại xen vào làm cách đoạn ở giữa nên
gọi là vô gián. Khi thức niệm trước vừa diệt là đã làm Khai đạo y cho thức niệm
sau, cần gì phải do thức khác loại mới làm khai đạo?
Nhưng trong Thánh giáo hoặc nói sáu thức
trước dẫn khởi lẫn nhau, hoặc thức thứ bảy, thức thứ tám nương nơi thức thứ
sáu, thức thứ bảy mà sanh khởi, nói thế là y theo Tăng thượng duyên thù thắng
mà nói, chứ không phải nói Ðẳng vô gián duyên cho nên không trái nhau.
Luận Du già nói: "Nếu thức niệm trước
không gián đoạn thì các thức niệm sau nhất định sanh khởi, nên thức niệm trước
là Ðẳng vô gián duyên cho thức niệm sau".
Lại sáu thức niêm trước làm Ðẳng vô gián
duyên cho sáu thức niệm sau, thiết định gọi là ý căn. Câu này lời tổng mà ý
biệt, cũng không trái nhau. Thế nên biết thức tự loại nương nhau làm Khai đạo
y, là điều rất hợp giáo lý.
- Luận các nghĩa bên lề như vậy đã xong, bây
giờ nên biết luận về nghĩa chính của thức Mạt na này. Thức Mạt na năng biến thứ
hai này tuy đủ ba chỗ nương, nhưng chữ "nương kia chuyển" trong bài
tụng là chỉ để hiển thị hai thứ nương đầu, là nhân duyên Chủng tử y và căn Câu
hữu y. Nghĩa là hiển thị sở y và sở duyên của thức Mạt na này đều là thức thứ
tám. Lại hai thứ nương đầu đối với thức Mạt na có tác dụng thù thắng.
Hoặc Khai đạo y là thứ dễ hiểu rõ. (25)
- Như vậy đã nói sở y của thức thứ bảy, còn
sở duyên của nó như thế nào?
Tức như tụng nói chữ "duyên kia".
"Kia" chính là thức thứ tám của Mạt na nương như vừa nói. Thánh giáo
nói: "Thúc Mạt na duyên Tạng thức kia" (Có bốn thuyết):
1. Có người cho rằng thức Mạt na này duyên
thức thể thứ tám và năm Tâm sở tương ưng với nó. Còn Luận nói Mạt na hằng tương
ưng ngã và ngã sở. Nghĩa là Mạt na duyên thứ tự thể thức thứ tám và Tâm sở
tương ưng với nó, rồi tuần tự chấp làm "ngã" và "ngã sở".
Nhưng các Tâm sở không rời thức, như nói chữ "Duy thức" là trong đó
đã gồm cả Tâm sở, không trái với Thánh giáo.
2. Có người cho lời nói trên không đúng lý,
vì trong Thánh giáo không có chỗ nào nói Mạt na duyên xúc Tâm sở v.v... của đệ
bát thức cả. Nên nói Mạt na chỉ duyên Kiến phần và Tướng phần của thức thứ tám
rồi lần lượt chấp làm "ngã" và "ngã sở". Vì Kiến và Tướng
đều lấy thức làm thể. Nói thế không trái với Thánh giáo.
3. Có người cho nói như vừa rồi không đúng
lý, vì Tướng phần năm căn, năm cảnh không phải thức uẩn, nếu Mạt na duyên nó
thì cũng giống như năm thức, cũng duyên cảnh bên ngoài, và có thể như ý thức
duyên cảnh chung, thì có thể khi sanh cõi Vô sắc không có sắc để duyên là không
chấp ngã sở. Và do nhàm chán sắc mà sanh cõi Vô sắc, nên không còn biến ra sắc.
Vậy nên nói Mạt na chỉ duyên Tạng thức và chủng tử của nó, rồi lần lượt chấp
làm "ngã" và "ngã sở". Vì chủng tử chính là công năng của
Tạng thức, không có vật thật, nên không trái với Thánh giáo.
4. Có người lại nói các thuyết trên đều
không đúng lý. Vì chủng tử sắc v.v... không phải thức uẩn. Vì luận nói chủng tử
là thật có, nếu như chủng tử là giả thì như không có, không có thì nó không
phải là nhân duyên sanh ra pháp. Lại Tát ca gia kiến tương ưng với Mạt na, nhậm
vận một loại, hằng tương tục sanh khởi, đâu được chấp ngã và ngã sở riêng biệt
nhau, vì không có nghĩa cùng trong một tâm mà khởi lên chấp có hai cảnh đoạn và
thường khác nhau, cùng chấp một lần. Cũng không thể nói hai chấp đoạn và thường
đó có trước sau, vì thức thứ bảy từ vô thỉ lại, nhất vị hằng thường sanh khởi
(không phân trước sau).
- Nên biết Mạt na chỉ duyên hiện hành Kiến
phần của Tạng thức chứ không duyên gì khác, vì tạng thức từ vô thỉ lại một loại
tương tục tợ thường tợ một và thường làm chỗ nương cho các pháp. Mạt na chỉ
chấp hiện hành Kiến phần kia làm tự nội ngã, nhưng thừa ngữ thế mà nói luôn chữ
"ngã sở"; hoặc Mạt na chấp thức thứ tám là cái "ta của ta"
(tức lấy năng chấp làm ta, bị chấp làm của ta – ngã sở). Cho nên cùng trong một
chấp kiến mà nghĩa có hai. Nói như thế là khéo thuận với giáo lý, vì nhiều nơi
chỉ nói có: "Ngã kiến", vì ngã và ngã sở chấp không cùng khởi lên một
lần.
Khi ở địa vị chưa chuyển y thì Mạt na chỉ
duyên Kiến phần của Tạng thức, nhưng khi đã chuyển y, nó cũng duyên chân như và
các pháp khác.
Còn như bình đẳng tánh trí là vì chứng được
mười thứ tánh bình đẳng cho nên biết được thắng kiến giải sai biệt của các hữu
tình mà thị hiện các ảnh tượng Phật. Nhưng trong Tụng đây cốt chỉ nói khi chưa
chuyển y, cho nên chỉ nói Mạt na duyên Tạng thức; vì khi ngộ khi mê có thông và
cuộc, lý lẽ như vậy; vì cảnh giới của ngộ là vô ngã, cảnh giới của mê là ngã
chấp, bên cùng khắp, bên không cùng khắp khác nhau.
- Tại sao Mạt na lại duyên chỗ của chính nó
nương,nói cách khác tại sao sở duyên của Mạt na cũng chính là sở y của Mạt na?
Như đã nói thức niệm sau duyên thức niệm
trước, là điều đã đưọc công nhận, thì đây có lỗi gì?
- Tụng nói "Tư lường làm tánh
tướng" là hiển thị cả tự tánh và hành tướng của thức Mạt na. Mạt na lấy tư
lường làm tự tánh, cũng lấy tư lường làm hành tướng. Do hai nghĩa đó mà lập
riêng tên Mạt na hay Ý. Vì thẩm lự tư lường nên gọi là Mạt na. Khi ở địa vị
chưa chuyển y, nó cứ thường thẩm tư lường tướng ngã chấp; còn khi ở địa vị
chuyển y, nó cũng hằng thẩm tư lường tướng vô ngã. (Tư lường ngã là phi lượng,
tư lường vô ngã là hiện lượng, tỷ lượng đúng). (26)
- Thức Mạt na này có mấy Tâm sở tương
ưng?
Mạt na thường tương ưng với bốn thứ phiền
não. Trong bài tụng nói chữ "câu" là hiển thị nghĩa tương ưng. Nghĩa
là từ vô thỉ lại cho đến lúc chưa được chuyển y thì Mạt na này nhậm vận hằng
duyên Tạng thức và tương ưng với bốn Căn bản phiền não là ngã si, ngã kiến, ngã
mạn, ngã ái.
Ngã si là vô minh, ngu tướng ngã, mê lý vô
ngã, cho nên gọi là ngã si.
Ngã kiến là chấp ngã. Ðối với cái không phải
ngã và pháp, vọng chấp là ngã, cho nên gọi là ngã kiến.
Ngã mạn là kiêu ngạo ỷ thị cái ngã của mình
chấp, làm cho tâm cất cao lên, cho nên gọi là ngã mạn.
Ngã ái là ngã tham, tức đối với cái ngã đã
chấp, sanh tâm đắm trước nó, cho nên gọi là ngã ái.
Trong bài tụng có chữ "Tinh" (và).
là biểu thị hễ có ngã mạn, ngã ái thì có ngã kiến cùng khởi; có ngã kiến, ngã
mạn là có ngã ái cùng khởi. Ðó là nhằm ngăn các bộ phái chấp bốn thứ này không
tương ưng nhau.
Bốn thức phiền não này thường khởi lên làm
nhiễu trược nội tâm, khiến cho sáu chuyển thức ngoài trở nên tạp nhiễm. Loài
hữu tình do đó mà phải sanh tử luân hồi, không thể thoát khỏi, cho nên gọi là
phiền não.
Hỏi: -
Căn bản phiền não có mười thứ (năm độn sử, năm lợi sử), vậy thức này tại sao
chỉ tương ưng với bốn thứ?
Ðáp: - Vì có ngã kiến, thì các kiến khác như
biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ không sanh; vì không khi nào trong
nội tâm mà có hai Tuệ tâm sở, (Kiến thuộc tuệ Tâm sở).
Hỏi: -
Tại sao thức này phải có ngã kiến?
Ðáp: - Vì tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ
chỉ do phân biệt sanh, chỉ bị đoạn trừ khi kiến đạo, còn bốn phiền não tương
ưng với Mạt na chỉ là câu sanh và chỉ có thể bị đoạn trừ khi tu đạo. (Thế nên
Mạt na không có hai thủ kiến và tà kiến). Còn ngã sở và biên kiến đoạn thường
đều nương nơi ngã kiến sanh, mà ngã kiến tương ưng với Mạt na thì không nương
nơi ngã sở và biên kiến sanh, không có ngã sở và biên kiến thường ngấm ngầm bên
trong chấp đệ bát làm ngã, cho nên Mạt na phải có ngã kiến. Do ngã kiến có tính
thẩm xét quyết định nên "Tâm sở nghi" không thể khởi lên. Vì ái trước
ngã nên "Tâm sở sân" không sanh. Do đó Mạt na tương ưng với phiền não
chỉ có bốn.
Hỏi: -
Ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ba thứ làm sao cùng khởi được?
Ðáp: - Hành tướng ba thứ ấy không trái nhau,
thì cùng khởi có lỗi gì đâu?
Hỏi: -
Luận Du già nói: "Tham kiến tâm khiêm hạ. Mạn khiến tâm cao cử", đâu
phải không trái nhau?
Ðáp: Phân biệt và câu sanh, ngoại cảnh và
nội cảnh, bị lăng mạ và ỷ thị, bèn thô tế khác nhau. Cho nên văn kia và văn đây
không trái nghĩa nhau.
Tâm sở tương ưng Mạt na chỉ có bốn thứ ư?
Không vậy, sao Tụng nói và Tâm sở xúc thảy? (Có năm thuyết)
1. Có người cho câu tụng trên có ý nói Tâm
sở tương ưng vơi Mạt na chỉ có chín, tức bốn thứ trước kia cộng thêm năm Biến
hành là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Vì Mạt na quyết phải tương ưng Biến hành
tâm sở. Nhưng vì trước đã nói xúc v.v... tương ưng với Dị thục thức, (mà Dị
thục thức thuộc vô phú vô ký, nay nói nếu nói rõ Mạt na tương ưng với xúc v.v
...) thì sợ lầm cho Mạt na cùng thuộc vô phú vô ký như thức Dị thục. Vì muốn
chỉ rõ Mạt na này và Dị thục kia khác, cho nên trong bài Tụng đề chữ
"Dư" (khác) và chữ "cập" (và). Nghĩa là bốn phiền não trước
và năm Biến hành này hợp lại thành chín hằng tương ưng với Mạt na.
- Mạt na này tại sao không tương ưng với các
Tâm sở khác?
Không tương ưng, vì "Dục" là hy
vọng cảnh chưa toại hợp, còn Mạt na này thì nhậm vận duyên cảnh đã toại hợp,
không có hy vọng gì, cho nên không có Dục tâm sở.
Thắng giải tâm sở là ấn tín chấp trì cảnh
chưa tằng quyết định, còn Mạt na này từ vô thỉ thì thường duyên cảnh đã định,
đã trải qua sự ấn tín chấp trì, cho nên nó không có "thắng giải".
Niệm tâm sở là ghi nhớ việc đã từng tập qua,
còn Mạt na này thường duyên cảnh thọ dụng hiện tại không ghi nhớ gì, cho nên nó
không có niệm.
Ðịnh tâm sở là buộc tâm chuyên chú vào một
cảnh, còn Mạt na này nhậm vận từng sát na duyên riêng, đã không chuyên nhất,
cho nên nó không có định.
Tuệ tâm sở là ngã kiến, cho nên không nói
tách riêng.
Thiện tâm sở là thanh tịnh, không nương với
Mạt na hữu phú ô nhiễm.
Còn các tùy phiền não là y nơi phận vị sai
biệt trước sau của phiền não mà kiến tập, Mạt na này thì thường cùng bốn phiền
não tương ưng, trước sau một loại, phận vị không sai khác, cho nên Mạt na không
tương ưng với tùy phiền não.
Ố tác tâm sở là truy hối những việc đã làm,
còn Mạt na này thì nhậm vận thường duyên hiện cảnh, không truy hối việc trước,
cho nên nó không có ố tác.
Thùy miên tâm sở là phải nương nơi thân tâm
nặng nề, hôn muội và sức của các duyên bên ngoài mà tạm thời khởi lên, còn Mạt
na này từ vô thỉ thì chỉ một loại chấp ngã bên trong, không cần duyên bên
ngoài, cho nên Mạt na này không có thùy miên.
Tầm tứ tâm sở đều dựa bên ngoài mà sanh
khởi, truy cứu cạn sâu, phát ngôn thô tế, còn Mạt na này chỉ dựa bên trong mà
khởi, một mực chấp ngã cho nên nó không tương ưng với Tầm tứ.
2. Có người cho lối giải thích trên về nghĩa chữ "Dư" (khác) trong
câu "Cập dư xúc đẳng" (và Tâm sở xúc thảy) trong bài Tụng không đúng.
Vì bài Tụng đã có nói riêng Mạt na này nhiếp thuộc hữu phú chứ không phải vô
phú như A lại da, nhưng lại còn thiếu ý nói Mạt na tương ưng với tùy phiền não,
nên Tụng nói chữ "Dư". Vì phiền não tất phải tương ưng vói Tùy phiền
não, cho nên bài Tụng nói chữ "Dư" (khác) đó là chỉ rõ cho Tùy phiền
não.
Trong đây có người cho rằng Tùy phiền não
biến khắp tương ưng vói tất cả nhiễm tâm. Như trong Tập Luận nói: Hôn trầm,
trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật thường tương ưng với tất cả phẩm loại ô
nhiễm. Nếu rời tánh không kham nhậm của hôn trầm v.v... mà thành tánh ô nhiễm,
thì không thể có lẽ đó. Khi phiền não khởi, là tâm đã ô nhiễm, phải có năm Tùy
phiền não kia. Vì nếu phiền não khi khởi lên tất phải do tánh không kham nhậm
của hôn trầm, huyên động của trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật mà có. Trạo
cử tâm sở tuy biến khắp tất cả nhiễm tâm nhưng khi ở địa vị có tham thì nó mạnh
hơn, nên chỉ nói trạo cử thuộc phần tham (ngã ái). Cũng như thùy miên và hối,
tuy biến khắp ba tánh, nhưng ở địa vị "Si" thì nó mạnh hơn, nên chỉ
nói hối, miên thuôc vào si phần (ngã si).
Tuy các chỗ khác nói có Tùy phiền não hoặc
sáu, hoặc mười thứ, biến khắp các nhiễm tâm, nhưng ở đó đều nương theo nghĩa
riêng mà nói "biến khắp", chú không phải thật biến khắp tất cả nhiễm
tâm. Nghĩa là y cứ trong hai mươi Tùy phiền não thấy có sáu Tùy phiền não có
hành tướng rõ rệt thông cả địa vị thô và tế, thông cả hai tánh vô ký và bất
thiện, chướng ngại cả định và tuệ cho nên nói sáu. Và y cứ trong hai mươi hai
Tùy phiền não thấy có mười thứ có hành tướng rõ rệt thông cả hai tánh thô và tế
nên nói mười. Cho nên đây và trên kia nói không trái nhau.
- Nhưng Tâm sở tương ưng với Mạt na có mười
lăm là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, năm Biến hành, tuệ trong Biệt cảnh và
năm Tùy phiền não là hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật. Ngã kiến
tuy là tuệ trong Biệt cảnh nhưng ở trong năm mươi mốt Tâm sở nghĩa nó có sai
khác, nên tách làm hai.
- Vì sao Mạt na này không có các Tâm sở
khác? Vì mười Tiểu phiền não như phần v.v... hành tướng thô động, còn thức Mạt
na thẩm xét vi tế, nên không tương ưng. Vô tâm, vô qúy chỉ là bất thiện, Mạt na
chỉ là vô ký, nên không tương ưng ... tán loạn khiến tâm dong ruỗi ngoại cảnh,
Mạt na thường chấp một loại cảnh bên trong, không dong ruỗi bên ngoài, nên
không tương ưng. Bất chính tri thì khởi thân, ngữ, ý, hành tướng ra bên ngoài,
trái vượt quy tắc, Mạt na chỉ chấp bên trong, nên không tương ưng. Không có các
Tâm sở khác, nghĩa như trước đã nói.
3. Có người cho rằng: "Nên nói sáu Tùy phiền não tương ưng khắp tất cả
nhiễm tâm", vì Luận Du già nói: "Sáu Tùy phiền não là bất tín, giải
đãi, phóng dật, vong niệm, tán loạn, ác tuệ tương ưng với tất cả nhiễm
tâm". Vong niệm, tán loạn, ác tuệ nếu không có, thì tâm không khởi lên các
phiền não; vì phải nương theo các chủng loại cảnh giới từng tiếp thọ rồi mới
phát khởi vong niệm (không nhớ) và chọn lựa sai quấy (ác tuệ) rồi mới khởi lên
các phiền não tham, sân, v.v... thông cả hai tánh là bất thiện và hữu phú. Văn
Du già còn nói: "Mười Tùy phiền não biến khắp", nghĩa như trước đã
nói.
- Nhưng Mạt na này tương ưng với mười chín
Tâm sở, đó là bốn Phiền não căn bản, năm Biến hành, sáu Tùy phiền não, thêm
niệm, định, tuệ và hôn trầm. Ở đây riêng niệm, được giải thích như tuệ trước
kia. Ở đây thêm định vì Mạt na chuyên chú nơi một loại cảnh chấp ngã chưa bao
giờ bỏ. Thêm hôn trầm, vì Mạt na tương ưng với vô minh rất nặng, nên tâm hôn
trầm. Không có "trạo cử" vì trái với Mạt na, không tương ưng các Tâm
sở khác, nên biết như trên đã giải.
4. Có người lại cho rằng: "Mười Tùy
phiền não tương ưng khắp tất cả nhiễm tâm", như luận Du già nói:
"Phóng dật, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, tà dục, tà thắng giải,
tà niệm, tán loạn, bất chánh tri", mười thứ này khởi lên ở tất cả nhiễm tâm,
khắp tất cả chỗ, ràng buộc ở ba cõi; vì nếu khi không có tà dục, tà thắng giải,
thì tâm chắc không khởi các phiền não. Vì phải đối với cảnh tiếp xúc muốn thọ
vui khi hợp với cảnh hoặc khi lìa cảnh, có sự tướng ấn tín chấp trì, mới khởi
lên các phiền não tham v.v...
Các người nghi ngờ về lý thì đối với sự
tướng như sắc ắt không do dự, cho nên Tâm tương ưng với nghi cũng có thắng
giải. Còn người đối cảnh sở duyên mà do dự như nghi hình người ra ác thú, cái
nghi này không phải phiền não. Các nơi khác không nói hai thứ tà dục, tà thắng
giải này biến khắp nhiễm tâm, vì tà dục khi duyên theo cảnh không ưa và tà
thắng giải khi có nghi tương ưng với tâm thì tà dục, tà thắng giải đó không
phải phiền não thô thiền.
Các tâm sở khác có hoặc không tương ưng với
Mạt na, nghĩa như trước đã nói.
Vậy Tâm sở của Mạt na này có hai mươi bốn
thứ: Ðó là chín pháp, mười tùy phiền não, thêm năm Biệt cảnh. Chuẩn theo lý
trước đây đã giải thích, không có các Tâm sở khác, nói như trên nên biết.
5. Có người cho rằng: "Những thuyết
trên đều chưa rốt ráo". Vả, như nghi đời sau có hay không có, thì đối với
sự này đâu có tướng dục, tướng thắng giải gì. Khi phiền não khởi lên, nếu không
có "hôn trầm" thì không chắc có tánh không kham nhậm. Nếu không
"trạo cử" thì không chắc có tánh huyên động, bèn như thiện tâm, chứ
không phải ở địa vị ô nhiễm. Nếu trong nhiễm tâm không có "tán loạn"
thì không dong ruỗi, không phải nhiễm tâm. Nếu không có "thất niệm"
và "bấtchánh tri" thì làm sao có phiền não khởi lên ở trước mắt. Cho
nên biết tâm nhiễm ô quyết định phải có tám tùy phiền não tương ưng, là: Hôn
trầm, trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh
tri. Thất niệm và bất chánh tri nếu lấy niệm và tuệ làm tánh thì nó không biến
khắp nhiễm tâm, vì không phải nhiễm tâm nào cũng duyên theo việc tiếp xúc và
lựa chọn. Nếu lấy vô minh làm tánh thì mới biến khắp các nhiễm tâm. Do trước đã
nói như vậy.
- Vậy Mạt na này thật sự tương ưng với mười
tám Tâm sở, đó là như trước đã nêu chín pháp, tám Tùy phiền não, cộng thêm tuệ
trong Biệt cảnh. Mạt na không có các Tâm sở khác và bài văn trong Luận, chuẩn
theo trước đây mà giải thích.
Nói như thế không trái với giáo và lý. (27)
Nhiễm ô ý (thức Mạt na) này tương ưng
với thọ nào?
Có ba thuyết:
1. Có người cho rằng nó chỉ tương ưng với hỷ
thọ; vì nó hằng âm thầm chấp ngã bên trong sanh ưa thích.
2. Có người bảo không phải vậy; vì nếu phải
chấp nhận hỷ thọ cho đến cõi trời Hữu Ðảnh vẫn có tương ưng với Mạt na, là trái
ý với lời Thánh (Thánh giáo nói thức Mạt na có ở ba cõi mà hỷ thọ thì chỉ có ỏ
ngang Nhị Thiền). Nên nói Mạt na này tương ưng với bốn thọ. Nghĩa là khi sanh
cõi ác thì nó tương ưng với ưu thọ, vì duyên quả báo khổ do nghiệp bất thiện
dẫn sanh. Khi sanh ở cõi người, cõi trời Dục giới, Sơ Thiền, Nhị Thiền thì
tương ưng vói hỷ thọ, vì duyên với cõi có hỷ là quả báo của thiện nghiệp. Khi
sanh ở Tam Thiền thì tương ưng với lạc thọ, vì duyên với cõi có lạc, là quả báo
của thiện nghiệp. Khi sanh ở Tứ Thiền cho đến cõi Hữu Ðảnh thì tương ưng với xả
thọ, vì duyên với cõi chỉ có xả là quả báo của thiện nghiệp.
3. Có người cho thuyết trên không đúng; vì
Mạt na từ vô thỉ lại, nhậm vận một loại duyên Tạng thức bên trong mà chấp ngã,
hằng không chuyển dịch, nên không tương ưng với các thọ biến dị kia. (Khổ, lạc
thọ cứ thay đổi gọi là thọ biến dị). Lại Mạt na này nếu với Tạng thức có nghĩa
gì khác thì luận đều đã có nói riêng, vậy nếu nó tương ưng với bốn thọ thì luận
cũng nên nói riêng. Nay luận đã không nói riêng, thì quyết định Mạt na đồng với
Tạng thức chỉ tương ưng với xả thọ. Cho nên biết tương ưng với Mạt na chỉ có xả
thọ.
- Khi ở địa vị chưa chuyển y thì nó tương
ưng với Tâm sở như trên kia đã nói, còn khi ở địa vị đã chuyển y thì nó chỉ có
21 Tâm sở cùng với nó khởi lên, đó là năm Biến hành, năm Biệt cảnh và 11 thiện,
và giống như đệ bát thức khi ở địa vị chuyển y thì chỉ có xả thọ cùng khởi, vì
Mạt na nhậm vận sanh khởi và thường khởi tánh bình đẳng đối với cảnh sở duyên.
- Mạt na và Tâm sở của nó nhiếp thuộc về
tánh gì?
- nhiếp vào tánh hữu phú vô ký. Vì Mạt na
tương ưng với bốn phiền não là pháp ô nhiễm, hay làm chướng ngại Thánh đạo, che
lấp tự tâm, nên gọi là hữu phú; và vì nó không phải thiện hay bất thiện, nên
gọi là vô ký. Giống như các phiền não ở hai cõi Sắc và Vô sắc bị định lực nhiếp
phục ẩn tàng (không khởi hiện hành) nên nhiếp thuộc vào tánh vô ký, và những
nhiễm pháp hiện hành tương ưng với thức Mạt na do Mạt na là chỗ nương của nó
rất vi tế, nhậm vận sanh khởi (câu sanh) nên nó cũng thuộc vô ký như Mạt na.
Nếu khi nó đã chuyển y, thì chỉ có thiện tánh.
- Mạt na và Tâm sở của nó hệ thuộc vào địa
nào trong chín địa?
- Tùy đệ bát thức sanh ở địa nào thì nó hệ
thuộc ở địa ấy, như đệ bát thức sanh cõi Dục (Sơ địa) thì hiện hành Mạt na và
Tâm sở tương ưng với nó hệ thuộc vào cõi Dục, cho đến khi đệ bát thức sanh cõi
Hữu Ðảnh, nên biết cũng thế. Vì Mạt na nhậm vận hằng duyên Tạng thức ở tự địa
(chính nơi hiện sanh đến) mà chấp Tạng thức đó làm nội ngã, chứ không duyên
Tạng thức ở tha địa (nơi địa khác) mà chấp làm nội ngã, nếu khởi Dị thục Tạng
thức sanh vào tha địa, khi Dị thục Tạng thức đó hiện tiền ở địa kia, thì gọi là
sanh ở địa kia. Nhiễm ô Mạt na cũng duyên Tạng thức ở địa kia mà chấp ngã, tức
hệ thuộc ở địa kia, đó gọi là "Bỉ sở hệ"; hoặc bị hệ thuộc theo các
phiền não ở địa kia, nên cũng gọi là "Bỉ sở hệ". Nếu đã chuyển y, tức
không còn hệ thuộc.(28)
- Mạt na nhiễm ô này tương tục từ vô thỉ,
đến địa vị nào thì dứt hẳn? hoặc tạm dứt?
- Ở địa vị A la hán , Diệt tận định và Xuất
thế đạo thì nó không có.
A la hán đây chỉ cho quả vị Vô học trong Tam
thừa. Ở địa vị này cả chủng tử lẫn hiện hành nhiễm ô ý đều dứt hẳn, cho nên nói
'không có". Hoặc ở trong địa vị Hữu học, khi nhập Diệt định và xuất thế
đạo (khi quán vô ngã) đều có thể tạm thời đè bẹp và đoạn diệt nhiễm ô ý, cho
nên cũng nói "không có". Nghĩa là nhiễm ô ý từ vô thỉ lại, vi tế, một
loại nhậm vận sanh khởi (câu sanh) dùng các hữu lậu đạo (không quán sát vô ngã)
không thể đè bẹp và đoạn dứt, phải nhờ Thánh đạo (quán hai không) của Ba thừa
mới có khả năng đè bẹp và đoạn dứt.
Trí căn bản liễu giải về chơn vô ngã (xuất
thế vô lậu đạo) là trái nghịch với ngã chấp. Tiếp đó trí đẳng lưu của trí chơn
vô ngã kia là hậu đắc trí vô lậu, khi nó hiện tiền, cũng làm trái nghịch Mạt na
nhiễm ô ý. - Cả trí chơn vô ngã và trí hậu đắc đều là vô lậu,nên gọi là xuất
thế đạo.
Lại, Diệt định đã là đẳng lưu của Thánh đạo
(do vô lậu hậu đắc trí mà nhập Ðịnh diệt tận), nó rất tịch tịnh nên ở Diệt định
cũng tạm không có nhiễm ô ý, song vì chưa dứt hẳn chủng tử cho nên khi ra khỏi
Diệt định và xuất thế đạo thì nó lại hiện hành, cho đến khi chưa thể dứt sạch.
Nhưng loại phiền não tương ưng vơi nhiễm ô ý
này là loại phiền não câu sanh, chẳng phải do kiến đạo đoạn trừ. Vì nó là nhiễm
ô, nên cũng chẳng phải thuộc về phi sở đoạn. Phiền não này rất vi tế nên bao
nhiêu chủng tử của nó cùng với phiền não hạ hạ phẩm (chỉ phẩm 81 Tư hoặc) của
cõi Hữu Ðảnh), khi đoạn thì đồng lúc chóng đoạn. Vì thế lực nó ngang nhau, phải
khi Kim Cang dụ định hiện tiền thì mới chóng đoạn chủng tử này mà thành A la
hán; cho nên ở địa vị Vô học, vĩnh viễn không còn khởi nhiễm Vô ý.
Nếu hàng Vô học Nhị thừa hồi hướng theo Ðại
thừa, từ khi sơ phát tâm Bồ đề cho đến lúc chưa thành Phật, tuy họ thật là Bồ
tát đó nhưng cũng gọi là A la hán. Vì ba nghĩa: Ứng cúng, Vô sanh, Sát tặc bằng
nhau như A la hán, nên không nói riêng.
- Trong đây có người cho rằng Mạt na chỉ có
phiền não chướng, vì Thánh giáo đều nói ở ba địa vị là A la hán, Diệt định và
Xuất thế đạo không còn có Mạt na (vì không còn phiền não chướng); lại vì nói
bốn hoặc thường tương ưng và vì Mạt na là chỗ nương tạp nhiễm cho thức thứ sáu.
- Có người cho thuyết trên trái với giáo lý,
vì kinh nói nơi địa vị xuất thế có Mạt na (có tịnh Mạt na hằng tư lương lý vô
ngã). Vì ý thức không khi không ô nhiễm cũng giống như khi có ô nhiễm, đều phải
có chỗ nương câu sanh riêng (là Mạt na) mới được.
Luận nói: "Tạng thức quyết định hằng
cùng một thức cùng khởi", đó là thức Mạt na; còn khi ý thức khởi lên có
Tạng thức với hai thức cùng khởi, đó là Ý thức và Mạt na. Nếu khi một thức
trong năm thức khởi lên, thời có Tạng thức với ba thức cùng khởi, đó là một
trong năm thức, cùng với Ý thức và Mạt na. Cho đến cả năm thức đồng khởi lên
thời có Tạng thức với bảy thức cùng khởi, đó là năm thức cùng Ý thức và Mạt na.
Nếu ở trong Diệt định không có thức thứ bảy, thì bấy giờ Tạng thức chỉ khởi một
mình, không có thức khác cùng khởi, liền không phải luôn luôn quyết định Tạng
thức có một thức cùng khởi như luận vừa nói. Khi ở địa vị Thánh đạo (Ý thức
quán vô lậu) nếu không có Mạt na thì bấy giờ Tạng thức chỉ cùng khởi với một
thức thứ sáu. Thế làm sao luận có thể nói nếu khi Ý thức khởi lên thì bấy giờ
Tạng thức quyết định có hai thức cùng khởi là Ý thức và Mạt na thức.
Luận Hiển Dương nói: "Mạt na hằng cùng
tương ưng với bốn phiền não (là ở địa vị ô nhiễm) hoặc lật ngược hạnh ỷ thị cao
cử tương ưng với Mạt na thì thành hạnh bình đẳng (ở địa vị thanh tịnh)".
Cho nên biết Mạt na có mặt xuyên suốt cả nhiễm và không nhiễm. Nếu do luận này
nói: "Ở địa vị A la hán không có nhiễm ô ý" mà bảo không có luôn cả
thức thứ bảy, thì cũng nên do Luận này nói: " Ở địa vị A la hán xả bỏ A
lại da là xả bỏ luôn cả thức thứ tám". Nhưng đây đã không thể có việc A
lại da là bỏ luôn thức thứ tám, như vậy kia làm sao lại có việc bỏ nhiễm ô ý là
bỏ luôn thức thứ bảy?
Lại các luận nói: "Chuyển thức thứ bảy
được trí bình đẳng". Trí này cũng như các trí: "Thành sở tác, Diệu
quan sát, Ðại viên cảnh, chắc chắn phải có tịnh thức tương ưng để làm chỗ nương
cho nó (thức thứ bảy) nếu thức thứ bảy không có thì trí bình đẳng kia cũng
không. Vì không thể lìa thức thứ bảy sở y mà có trí bình đẳng năng y vậy. Không
thể nói rằng trí bình đẳng y chỉ nơi sáu chuyển thức, vì luận chấp nhận trí
bình đẳng tánh hằng hành của chư Phật cũng như trí viên cảnh không gián đoạn.
Lại ở địa vị Vô học, nếu không có thức thứ
bảy, thì thức thứ tám kia không có Câu hữu y. Nhưng thức thứ tám có Câu hữu y
này như các thức khác.
Lại như khi chưa chứng Bố đặc già la vô ngã
thì ngã chấp kia vẫn thường hằng hiện hành, vậy cũng nên khi chưa chứng pháp vô
ngã thì pháp ngã chấp kia vẫn hằng hành. Mạt na này nếu ở trong ba vị Vô học,
chưa chứng nhân vô ngã, chưa chứng pháp vô ngã thì không có, vậy ngã chấp và
pháp chấp kia nương nơi thức nào mà có? Nó không thể nương đệ bát thức, vì ở đệ
bát thức không có Tuệ tâm sở (mà ngã, pháp chấp đã thuộc tuệ Tâm sở).
- Do đó hãy nên tin ở ba địa vị là Nhị thừa
thánh đạo, Diệt định và Vô học, thức thứ bảy này vẫn hằng hành, vì ở đó chưa
chứng đắc pháp vô ngã.
Lại trong các luận, lấy năm đồng pháp (là
năm thức đồng có năm căn làm chỗ nương thì thức thứ sáu cũng đồng như năm thức
phải có chỗ nương) mới sanh khởi được để chứng minh có thức thứ bảy làm chỗ
nương cho thức thứ sáu. Lúc Thánh đạo khởi lên và ở địa vị Vô học, nếu không có
thức thứ bảy thanh tịnh làm chỗ nương cho thức thứ sáu thanh tịnh, thì lập
tôn lập nhân đều bị lỗi. Hoặc có thể năm thức cũng không có chỗ nương,
nhưng năm thức đã hằng có chỗ nương, thì thức thứ sáu cũng phải thế.
Thế cho nên quyết định có Mạt na ý không
nhiễm ô hằng khởi hiện tiền ở ba địa vị nói trên. Còn bài tụng nói: Mạt na kia
ở ba địa vị không có" là chỉ dựa nơi Mạt na nhiễm ô mà nói, vì ở ba địa vị
trên kia không còn Mạt na chấp ngã nữa. Cũng giống như nói ở bốn địa vị (ba Vô
học vị của Ba thừa và Phật vị) không có thức A lại da, chứ không phải nói không
có thức thứ tám.
- Mạt na này sai biệt có ba thứ:
1. Tương ưng với Ngã kiến Bố đặc già la.
2. Tương ưng với Pháp ngã kiến.
3. Tương ưng với Bình đẳng tánh trí.
Thứ nhứt: Mạt na tương ưng Ngã kiến, nó
tương tục ở trong tất cả loại Dị sanh, ở địa vị Nhị thừa Hữu học, ở một hạng Bồ
tát đang còn ở địa vị Tâm hữu lậu từ Thất địa trở lại, ở các địa vị đó thức Mạt
na thường duyên thức A lại da khởi lên ngã kiến Bố đặc già la (tức nhân ngã
chấp).
Thứ hai: Mạt na tương ưng Pháp ngã kiến, nó tương tục trong tất cả loài Dị
sanh, Thanh văn, Duyên giác, và một hạng Bồ tát còn ở địa vị mà trí của pháp
không không hiện tiền (trí thành tựu được do quán pháp không. Khi trí này chưa
hiện ra được, gọi là không hiện tiền). Ở các các địa vị này thức Mạt na thường
duyên thức Dị thục mà khởi lên pháp chấp.
Thứ ba: Mạt na tương ưng Bình đẳng tánh trí,
nó tương tục trong tất cả Như Lai và Bồ tát ở địa vị Kiến đạo và Tu đạo có trí
quả pháp không hiện tiền. Ở các địa vị này thức Mạt na thường duyên với thức Dị
thục hoặc Vô cấu tịnh thức mà khởi lên trí Bình đẳng tánh.
- Khi ở địa vị có Bố đặc già la Ngã kiến
khởi lên thì cũng có Pháp ngã kiến hiện tiền. Vì ngã chấp chắc chắn nương pháp
chấp mà khởi. Như đang đêm vì có lầm tưởng ác thú mới tưởng ra đó là người. Ngã
kiến, Pháp kiến tuy tác dụng khác nhau nhưng không trái nhau, đồng nương môt
Tuệ tâm sở. Ví như nhãn thức, thể tuy là một (dụ Tuệ tâm sở) nhưng có nhiều tác
dụng thấy sắc xanh, vàng v.v... mà không trái nhau.
Nhị thừa Hữu học và khi có Thánh đạo hoặc
Diệt định hiện tiền, Bồ tát đốn ngộ ở địa vị tu đạo và Bồ tát tiệm ngộ sau khi
từ Nhị thừa Hữu học hồi tâm, nếu có được trí quả hiện tiền, do ngộ lý sanh
không, thì ở các địa vị này, chỉ khởi pháp chấp, vì ở đây ngã chấp đã bị đè
bẹp. Nhị thừa Vô học và hồi tâm tiệm ngộ Bồ tát, khi trí quả pháp không không
hiện tiền, thì cũng chỉ khởi lên pháp chấp, vì ở đây ngã chấp đã dứt sạch.
Các Bồ tát từ Bát địa trở lên dù đốn ngộ hay
tiệm ngộ, ngã chấp vĩnh viễn không còn hiện hành, hoặc vì đã dứt sạch, hoặc vì
đã đè bẹp. Nếu khi trí quả pháp không hiện tiền thì dù đệ Bát địa trở lên, vẫn
còn khởi pháp chấp, vì trí quả sanh không và pháp chấp không trái nhau. Như Khế
kinh nói: Bồ tát từ Bát địa trở lên, tất cả phiền não không còn hiện hành, chỉ
có sở tri chướng là chỗ nương của ngã chấp thì đang còn". Sở tri chướng
đây là hiện hành sở tri chứ không phải chủng tử sở tri. Nếu không vậy, còn
chủng tử sở tri thì cũng có thể đang còn chủng tử phiền não.
Mạt na tương ưng với pháp chấp đối với Nhị
thừa tuy gọi là không ô nhiễm, nhưng đối với Bồ tát nó vẫn gọi là ô nhiễm, vì
nó làm chướng ngại trí pháp không của Bồ tát. Do đó cũng gọi Mạt na ở Bồ tát
địa là hữu phú vô ký. Còn đối với Nhị thừa thì gọi nó là vô phú vô ký, vì pháp
chấp đó không chướng ngại trí sanh không của Nhị thừa.
Mạt na này nhiếp vào Dị thục sanh, vì từ
thức Dị thục hằng thời sanh khởi, cho nên gọi là Dị thục sanh, mà không phải Dị
thục quả. Tên Dị thục sanh này được dùng chỉ chung tất cả những Tâm tâm sở
không phải là chơn Dị thục, cũng như danh từ tăng thượng duyên, là chỉ cho
những gì không nhiếp vào Nhân duyên, Ðẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên thì thu
nhiếp cả vào Tăng thượng duyên. (29)
Làm sao biết thức thứ bảy này có tự thể
riêng ngoài nhãn thức v.v...?
Do Thánh giáo và Chánh lý làm định lượng mà
biết. Nghĩa là đức Bạt già phạm (Phật) ở trong các kinh nói về tâm, ý và thức
với ba nghĩa khác nhau. Tập nhóm và khởi lên gọi là tâm, tư lường gọi là ý,
liễu biệt gọi là thức. Ba nghĩa đó tuy chung cả tám thức đều có, nhưng tùy mặt
trỗi hơn mà hiển thị khác nhau. Thức thứ tám gọi là tâm, vì nó nhóm tập chủng
tử các pháp và khởi lên các pháp. Thức thứ bảy gọi là ý, vì nó duyên Tạng thức
hằng thầm tư lường Tạng thức mà chấp làm ngã. Còn sáu thức kia gọi là thức, vì
nó liễu biệt riêng theo sáu cảnh thô động gián đoạn khác nhau. Như bài tụng
trong kinh Nhập Lăng già nói:
Tạng thức gọi là tâm,
Tánh tư lường gọi là ý,
Liễu biệt tướng các cảnh,
Chung gọi đó là thức.
Lại nhiều nơi trong kinh Ðại thừa nói có
thức thứ bảy riêng, cho nên ở đây nói có riêng (không phải như Tiểu thừa nói ý
thức thứ sáu khi trôi về quá khứ thi gọi là ý, chứ không có thức thứ bảy
riêng). Các kinh Ðại thừa là chí giáo lượng. Trước đã nói rộng cho nên đây
không chứng minh.
Trong kinh Giải Thoát cũng nói riêng thức thứ bảy. Như bài Tụng nói:
Nhiễm ô ý thường có,
Các hoặc cùng sanh diệt,
Nếu giải thoát các hoặc,
Chẳng phải đã, sẽ có.
Kinh kia tự giải thích bài Tụng rằng: Có
nhiễm ô ý từ vô thỉ lại, cùng với bốn phiền não hằng cùng sanh, cùng diệt, đó
là ngã kiến, ngã ái, ngã mạn và ngã si. Khi có đạo đối trị, dứt sạch phiền não
thì ý này từ đó được giải thoát. Bấy giờ phiền não tương ưng với ý này, không
phải chỉ trong hiện tại không có, mà cũng không có luôn trong quá khứ và vị
lai. Vì quá khứ, vị lai là vô tự tánh.
Các Thánh giáo như thế, ở các bộ đều có, sợ
nhàm chán dông đài, cho nên ở đây không thuật hết. (30)
- Trên đây dẫn Thánh giáo, bây giờ sẽ hiển
bày Chánh lý. (Có sáu lý là: Hằng hành vô minh, làm duyên sanh thức, tư lương
gọi ý, định vô tâm sai khác, trời Vô tưởng ô nhiễm, ba tánh ô nhiễm):
1. Như Khế kinh nói: "Bất cộng vô minh vi tế hằng thường hiện hành, che
lấp nghĩa chân thật" (nghĩa chân thật tức là chơn như do hai không hiển
lộ). Nếu không có thức thứ bảy này thì Bất cộng vô minh kia không có (vì không
có chỗ nương). Nghĩa là hàng Dị sanh ở trong tất cả phần vị thiện ác, vô ký
hằng khởi lên Bất cộng vô minh mê lý, làm che lấp nghĩa chơn thật, che mắt tuệ
của bậc Thánh, như bài Tụng nói:
Tâm chơn nghĩa sắp sanh,
Nó thường làm chướng ngại,
Cùng đi trong mọi phần
(trong mọi tâm thiện ác vô lý),
Gọi Bất cộng vô minh
Cho nên Khế kinh nói: "Loài Dị sanh
thường ở trong đêm dài bị vô minh che mờ, say mê buộc tâm chưa từng tỉnh
giác". Nếu nói ở địa vị Dị sanh có khi tạm không khởi vô minh bất cộng tức
là trái với nghĩa kinh vừa nói. Vì nếu cùng ở địa vị loài Dị sanh mà vô minh mê
lý có hiện hành không hiện hành, là không đúng lý.
Nếu nói vô minh bất cộng này dựa nơi thức
thứ sáu thì không được. Vì vô minh này nếu dựa thức thứ sáu thì nó như thức thứ
sáu có gián đoạn, và thức thứ sáu như vô minh này hằng ô nhiễm. Nếu chấp nhận
có Mạt na thì không có lỗi này.
Nhiễm ô ý hằng tương ưng với bốn phiền não
trong đó có vô minh cùng khởi, sao riêng vô minh lại gọi là bất cộng? Có ba ý
kiến:
a. Có ý kiến cho rằng Mạt na tương ưng với
ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ba thứ này không phải là căn bản phiền não, chỉ
riêng vô minh là căn bản nên gọi là bất cộng, thì có lỗi gì?
b. Có ý kiến cho rằng kia nói là trái với
giáo lý; vì trong các tùy phiền não thuần túy không hề nói đến kiến, mạn, ái là
tùy phiền não, vì ba thứ kiến, mạn, ái này nhiếp thuộc trong mười căn bản phiền
não. Nơi nơi đều nói nhiễm ô thường tương ưng với bốn phiền não, nên nói trong
bốn thứ đó, vô minh là chủ, nên tuy nó có cùng khởi với ba thứ kia cũng được
gọi vô minh là bất cộng. Từ đời vô thỉ thường hôn mê bên trong, chưa từng tỉnh
giác đều do có si (vô minh) tăng mạnh hơn.
Hỏi: -
Vậy si này cùng khởi với kiến, mạn, ái, thì nên gọi là tương ưng?
Ðáp: - Nếu khi khởi lên mà thứ não làm chủ,
thì cũng gọi nó là bất cộng, như vô minh, cũng không có lỗi gì.
c. Có ý kiến cho rằng si này gọi là bất
cộng, vì chỉ ở thức Mạt na này có, chứ các thức khác không có, như mười tám
pháp bất cộng của Phật.
Hỏi: -
Nếu vậy thì những phiền não chỉ tương ưng với các thức khác, ở trong thức Mạt
na này không có nó, thì cũng gọi phiền não đó là bất cộng hay sao?
Không, chỉ nương theo nghĩa thù thắng mà lập
tên bất cộng, chứ không phải theo nghĩa không, hoặc có ở trong thức này hoặc
trong thức kia mà gọi là bất cộng. Nghĩa là vô minh tương ưng với thức thứ bảy,
từ vô thỉ thường hiện hành làm chướng ngại trí chứng chơn nghĩa (trí chứng chơn
như). Tác dụng ấy rất mạnh mà ở các thức khác không có, cho nên chỉ riêng vô
minh ở thức Mạt na này mới gọi là bất cộng.
Hỏi: -
Ðã vậy thì ba thứ kiến, mạn, ái cùng khởi với nó cũng nên gọi là bất
cộng?
Ðáp: - Không, vì vô minh này là chủ, nên
được riêng gọi là bất cộng. Hoặc chấp nhận ba thứ kia khi làm chủ cũng được gọi
là bất cộng, nay chỉ đối với các thứ si tương ưng với các thức khác mà nói si
tương ưng với Mạt na này là bất cộng vô minh.
- Bất cộng vô minh tóm có hai thứ:
a. Hằng hành bất cộng vô minh - Ở các thức
kia không có, chỉ có ở thức Mạt na.
b. Ðộc hành bất cộng vô minh - Ở thức Mạt na
này không có, chỉ có ở thức thứ sáu.
Cho nên Luận Du già nói vô minh có hai: Nếu
nó cùng tham, sân v.v... đồng khởi, gọi là độc hành vô minh. Nếu là chủ độc
hành vô minh thì chỉ do kiến đạo đoạn trừ. Như Khế kinh nói: "Bậc Thánh
Hữu học đã dứt hẳn bất cộng (độc hành) vô minh, nên không tạo nghiệp mới. Còn
nếu độc hành vô minh mà không phải chủ thì cũng do tu đạo dứt trừ, vì nó cùng
phẩn, hận v.v... tương ưng thì đều thông do kiến đạo tu đạo đoạn trừ.
Hằng hành bất cộng vô minh (vô minh ở thức
thứ bảy) thì ở các bộ phái Tiểu thừa không có; còn Ðộc hành bất cộng vô minh
(vô minh ở thức thứ sáu) thì ỏ cả Ðại, tiểu thừa đều có nó.
2. Lại Khế kinh nói: "Nhãn và sắc làm
duyên, phát sanh nhãn thức, rộng nói cho đến ý và pháp làm duyên phát sanh ý
thức". Nếu không có Mạt na, thì ý (ý và pháp) kia không có. Nghĩa là như
ngũ thức phải có nhãn, nhĩ căn v.v... làm câu hữu y tăng thượng riêng biệt. Ý
thức đã là nhiếp thuộc trong sáu thức, thì phải nên chấp nhận Ý thức cần có sở
y như vậy, nhưng nếu Mạt na không có thì sở y của Ý thức kia đâu có. Không thể
nói sắc (tâm khối thịt) làm chỗ nương cho Ý thức, vì ý không phải sắc. Ý thức
nếu nương sắc thì như năm thức (chỉ có tự tánh phân biệt) chứ không có hai thứ
phân biệt là tùy niệm và kế đạt. Cũng không thể nói năm thức không có Câu hữu
y. Năm thức cùng năm căn cùng lúc sanh khởi như mầm và bóng (mầm nương hạt giống
mà có, mầm và hạt giống cùng lúc có, ảnh nương hình mà hiện, ảnh và hình cùng
có một lúc).
Lại thức và căn phải cùng duyên một cảnh, ví
như Tâm Tâm sở quyết định cùng khởi.
- Do lý lẽ này, phải công nhận (cực thành) ý
thức cũng như nhãn thức v.v... phải có chỗ nương riêng và theo nương đó mà đặt
tên chỗ nương đó không phải nhiếp thuộc Ðẳng vô gián duyên mà là Câu hữu y Tăng
thượng duyên. Vì công nhận (cực thành) sáu thức, mỗi thức đều thuộc một căn.
3. Lại Khế kinh nói: "Tư lường gọi là
Ý" . Nếu không có thức Mạt na này thì ý tư lường kia không có. Nghĩa là
nếu khi ý thức hiện tiền, đẳng vô gián ý đã diệt không còn nữa, vì quá khứ, vị
lai là không có, thì cái tác dụng tư lường kia chắc không thành được, làm sao
kinh nói tư lường gọi là Ý? Nếu cho đó là giả nói thì cũng không đúng. Không có
sự tư lường chính thức thì giả tư lường nương vào đâu mà có được. Nếu bảo Ý
thức trước khi hiện tại, từng có tư lường nay tuy đã diệt cũng gọi là Ý, nhưng
bấy giờ gọi là Thức chứ đâu gọi là Ý được.
- Cho nên biết riêng có thức Mạt na thứ bảy
hằng thẩm tư lường, chính danh là Ý. Hoặc nương nơi thức thứ bảy mà giả lập ý
đẳng vô gián diệt, tên là Ý.
4. Lại Khế kinh nói: "Vô tưởng và Diệt
định, nếu không có nhiễm ô ý này thì hai định này không khác nhau".
Nghĩa là hai định này đều diệt sáu thức và
các Tâm sở của nó. Số tâm thể được diệt để thành hai định giống nhau. Nếu không
có việc nhiễm ô ý có mặt trong tưởng vô định và không có mặt trong Diệt định
thì hai định có ý gì khác nhau? Nếu bảo khi tu gia hạnh nương ở nơi ba cõi,
chín địa, thân căn hai bên khác nhau, nên hai định khác nhau thì cũng không
đúng; vì chính nguyên nhân làm cho khác nhau này là do có thứ Mạt na. Thức Mạt
na nếu không có thì nguyên nhân làm cho hai định khác nhau kia cũng không có.
Cho nên quyết định phải có riêng Mạt na ý này.
5. Lại Khế kinh nói: "Loài hữu tình ở
cõi trời Vô tưởng suốt trong một đời dứt hết không còn sáu thức Tâm, Tâm sở.
Nếu ở đó không có thức Mạt na này thì loài hữu tình kia có thể là không còn bị
ô nhiễm". Nghĩa là hữu tình kia trong thời gian lâu dài không có sáu
chuyển thức, nếu cũng không có thức Mạt na này thì câu sanh ngã chấp cũng
không. Không thể ở nơi nào lại có loài hữu tình có đủ mọi điều ràng buộc, mà
trong một đời của họ hoàn toàn không có ngã chấp. Nếu cõi trời kia không có ngã
chấp thì giống như Niết bàn, làm sao họ lại bị Thánh hiền chê trách?
- Nếu chấp ngã của trời Vô tưởng sau một nữa
sơ bán kiếp mới diệt, lúc nữa hậu bán kiếp mới có, nên không bị lỗi như trên.
Nếu nói vậy, thì ở giữa khoảng trung gian dài 499 kiếp mà không có ngã chấp thì
như Niết bàn, là có lỗi.
- Nếu nói quá khứ và vị lai có ngã chấp, nên
không bị lỗi đó? Nhưng có quá khứ vị lại kia chẳng phải hiện tại chẳng phải
hằng như Niết bàn, là có lỗi. Thường thì đồng như không có ngã chấp.
Lại, quả Dị thục vô tưởng sở đắc đã không,
thì hữu tình năng đắc vô tưởng báo cũng không. Dị thục vô tưởng là pháp Bất
tương ưng, nó là giả lập, trước kia đã bác rồi.
Tạng thức không có thì việc huân tập cũng
không; còn nói các pháp khác không phải Tạng thức mà thọ huân (để trở thành Dị
thục vô tưởng) điều đó phi lý, đã biện rồi.
Cho nên cần có có riêng thức Mạt na nhiễm ô
hằng khởi ngã chấp trong khi sanh ở cõi trời Vô tưởng. Do đó Thánh Hiền đồng
chê bai trời Vô tưởng đó.
6. Lại Khế kinh nói: "Loại Dị sanh trong
lúc có tâm thiện, nhiễm hoặc vô ký, luôn luôn có mang theo ngã chấp. Nếu không
có thức Mạt na thì ngã chấp ấy không có". Nghĩa là loài Dị sanh trong khi
tâm có đủ ba tánh thiện, ác vô ký khởi lên, tuy bên ngoài khởi tạo các nghiệp mà
bên trong hằng chấp ngã. Do chấp ngã nên dù sáu thức có khởi lên việc bố thí
v.v... cũng không thể vong tướng. Nên luận Du già nói: "Nhiễm ô Mạt na là
chỗ nương cho sáu thức, khi Mạt na nhiễm ô chưa diệt thì sự buộc ràng của Tướng
phần và Kiến phần trong sáu thức không được giải thoát.Khi Mạt na nhiễm ô diệt
rồi thì ràng buộc của cảnh tướng được giải thoát". Nói sự ràng buộc của
cảnh tướng là nói do nhiễm ô Ý mà sáu thức đối với cảnh tướng không thể nhận rõ
nó như sự huyễn, chẳng phải có chẳng phải không, do đó mà Kiến phần và Tướng
phần cứ buộc chặt chặt nhau không được tự tại, cho nên gọi là tướng phược. Y
theo nghĩa này có bài tụng:
Nhiễm ô Ý như vậy,
Là chỗ nương của thức.
Ý này khi chưa diệt,
Thức bị buộc khó thoát.
Lại trong lúc tâm thiện hoặc vô phú vô ký,
nếu không có thức thú bảy chấp ngã thì tâm thiện và vô ký đó không phải là hữu
lậu. Vì các phiền não tương ưng với sáu thức trong tự thân hữu tình không cùng
khởi lên với tâm thiện hoặc vô phú vô ký kia. Nếu bảo do duyên phiền não của
quá khứ, vị lai làm duyên trói buộc mà thành hữu lậu thì lý không thể có được,
vì không thể do phiền não của người khác mà làm cho người này thành hữu lậu,
cũng như không thể do người khác giải thoát mà làm cho người này thành vô lậu.
Lại không thể nói ngoài Tâm, Tâm sở riêng có
tùy miên là pháp Bất tương ưng hành uẩn tương tục khởi lên trong khi có tâm
thiện và vô phú vô ký, để làm cho tâm thiện và vô phú vô ký trở thành hữu lậu,
vì thứ tùy miên đó không thật có, điều đó đã được cực hành.
Lại cũng không thể nói từ chủng tử hữu lậu
sanh ra tâm thiện và vô phú vô ký kia, cho nên tâm thiện và vô phú vô ký kia
trở thành hữu lậu. Vì hữu lậu do Mạt na cho nên, nếu không có Mạt na chấp ngã
thì chủng tử của tâm thiện và vô phú vô ký kia trước không có nhân để khiến nó
thành hữu lậu, nên cũng không phải do chủng tử hữu lậu khiến thiện tâm và vô
phú vô ký hiện hành thành hữu lậu được. Vì không thể bậc Hữu học tâm vô lậu
hiện hành, mà vì do còn chủng tử hữu lậu trước đó mà tâm vô lậu hiện hành cũng
trở thành hữu lậu. Tuy hoặc do phiền não trong sáu thức dẫn khởi ra việc bố
thí, nhưng phiền não này dã qua mất không còn cùng khởi với việc bố thí, cho
nên phiền não đó không phải là nhân chính của hữu lậu. Vì chữ "hữu
lậu" là biểu thị việc bố thí đó với lậu cũng sanh khởi một lần (ý nói chỉ
do Mạt na chấp ngã cùng sanh với việc bố thí v.v... mới gọi là hữu lậu).
Lại nghiệp vô ký không do phiền não dẫn
phát, tại sao nó lại thành hữu lậu? (ý nói vì có Mạt na chấp ngã, cho nên nó
thành hữu lậu).
Nhưng các hữu lậu là do Mạt na chấp ngã cùng
với hiện hành phiền não trong tự thân, cùng sanh cùng diệt, làm tăng ích cho
nhau, mới thành hữu lậu, do đó huân thành chủng tử pháp hữu lậu, để sau đó hiện
khởi lên, đó là nghĩa của hữu lậu. Nơi loài Dị sanh đã vậy, nơi hàng Hữu học
cũng vậy.
Hữu lậu ở hàng Vô học (Vô học còn Dị thục
thức) tuy không phải cùng khởi với thức thứ bảy hữu lậu, nhưng từ chủng tử hữu
lậu trước kia khởi lên, cho nên thành hữu lậu. Như vậy thì đối với lý không
trái.
- Do có Mạt na hằng khởi chấp ngã mới làm
cho pháp thiện và vô phú vô ký thành hữu lậu. Mạt na này nếu không thì hữu lậu
kia quyết không có. Cho nên biết riêng có thức thứ bảy này.
Chứng minh có thức Mạt na, lý lẽ rất nhiều.
Ðây theo các nghĩa nhiếp thuộc lý Ðại thừa lược thuật sáu ý đó, những người có
trí nên theo đó tin học.
- Nhưng có kinh trong đó chỉ nói sáu thức,
nên biết kinh đó nói là theo phương diện lý tùy chuyển. Hoặc theo chỗ nương là
sáu căn mà nói sáu thức. Nhưng thức loại riêng biệt thật có tám thứ. (31)