1.
Do
giả nói ngã pháp,
Có
tướng ngã pháp chuyển.
Chúng
nương thức biến hiện.
Thức
biến hiện có ba.
2. Là
Dị thục, Tư lương,
Và
thức Liễu biệt cảnh.
Ðầu,
Thức A lại da
Dị
thục, Nhất thiết chủng.
3. Không
thể biết chấp thọ,
Xứ,
liễu, tương ưng, xúc,
Tác
ý, thọ, tưởng, tư.
Và
chỉ có xả thọ.
4. Tánh
vô phú vô ký,
Xúc,
thảy cũng như thế,
Hằng
chuyển như dòng nước.
A
la hán, bỏ hết.
5. Thức
biến hiện thứ hai,
Gọi
là thức Mạt na.
Nương
kia chuyển, duyên kia,
Tư
lương làm tánh tướng.
6. Tương
ưng bốn phiền não,
Là
ngã si, ngã kiến,
Và
ngã mạn, ngã ái,
Cùng
tâm sở Biến hành.
7. Tánh
hữu phú vô ký,
Sanh
theo A lại da.
Chứng
La hán, Diệt định,
Xuất
thế đạo, không còn.
8. Thức
biến hiện thứ ba,
Sai
biệt có sáu thứ,
Tánh
tướng là biết cảnh,
Thiện,
bất thiện, vô ký.
9. Cùng
tâm sở Biến hành,
Biệt
cảnh, Thiện, Phiền não,
Tùy
phiền não, Bất định.
Ðều
tương ưng ba Thọ.
10. Trước
là Biến hành: xúc
Tiếp,
là Biệt cảnh: dục,
Thắng
giải, niệm, định, tuệ.
Cảnh
sở duyên không đồng.
11. Thiện
là tín, tàm, quý,
Không
tham, không sân si,
Siêng,
an, không phóng dật,
Hành
xả và không hại.
12. Phiền
não là tham, sân,
Si,
mạn, nghi, ác kiến.
Tùy
phiền não là phần,
Hận,
phú, não, tật, xan,
13. Dối,
nịnh và hại, kiêu,
Không
hổ và không thẹn,
Trạo
cử với hôn trầm,
Không
tin cùng giải đãi,
14. Phóng
dật và thất niệm,
Tán
loạn, không chánh tri.
Bất
định là hối, miên.
Tầm,
tứ hai đều hai.
15. Nương
dựa căn bản thức,
Năm
thức theo duyên hiện,
Ðồng
thời khởi, hoặc không,
Như
sóng mòi nương nước.
16. Ý
thức thường hiện khởi,
Trừ
sanh trời Vô tưởng
Và
hai định vô tâm,
Khi
ngủ say, chết ngất.
17. Các
thức ấy chuyển biến,
Phân
biệt, bị phân biệt,
Do
kia, đây đều không,
Nên
hết thảy Duy thức.
18. Do
thức Nhất thiết chủng,
Biến
như vậy như vậy,
Vì
năng lực triển chuyển,
Kia
kia, phân biệt sanh.
19. Do
tập khí các nghiệp,
Cùng
tập khí hai thủ,
Thân
Dị thục trước hết.
Lại
sanh Dị thục khác.
20. Do
biến kế nọ kia,
Biến
kế chủng chủng vật,
Biến
kế sở chấp này,
Tự
tánh toàn không có.
21. Nên
nó cùng Y tha,
Chẳng
khác chẳng không khác.
Như
tánh vô thường thảy,
Thấy
đây, mới thấy kia.
23. Chính
nương ba tánh này,
Lập
ba vô tánh kia.
Nên
Phật "mật ý" nói:
"Hết
thảy pháp không tánh".
24. Trước
là "Tướng không tánh",
Kế,
"Không tự nhiên tánh".
Sau,
do lìa tánh trước,
Là
tánh chấp ngã pháp.
25. Ðây,
thắng nghĩa các pháp,
Cũng
tức là chơn như;
Vì
thường như tánh nó,
Tức
thực tánh Duy thức.
26. Cho
đến chưa khởi thức.
Cầu
trụ tánh Duy thức.
Ðối
hai thủ tùy miên,
Còn
chưa thể phục diệt.
27. Hiện
tiền lập chút vật,
Cho
là tánh Duy thức.
Vì
còn có sở đắc,
Chưa
thực trụ Duy thức.
28. Khi
đối cảnh sở duyên,
Trí
không sở đắc gì,
Bấy
giờ trụ Duy thức,
Do
lìa tướng hai thủ.
29. Không
đắc, chẳng nghĩ nghì
Là
trí xuất thế gian.
Vì
bỏ hai thô trọng,
Chứng
đắc hai chuyển y.
30. Ðây,
tức giới vô lậu,
Chẳng
nghĩ nghì, thiện, thường.
An
lạc, thân giải thoát,
Ðại
Mâu ni pháp thân.
Trong 30 bài tụng này, 24
bài đầu là nói rõ Tướng Duy thức. Bài thứ 25, nói rõ Tánh Duy thức. Năm bài sau
chót nói năm hạnh vị tu chứng. Trong 24 bài đầu, một bài rưỡi đầu lược biện
Tướng Duy thức; hai mươi hai bài rưỡi tiếp theo rộng biện Tướng Duy thức.