- Bốn duyên vừa nói, dựa theo đâu mà thành
lập, lại làm sao nhiếp trọn mười nhân và hai nhân?
- Luận nói: "Nhân duyên dựa nơi chủng tử mà lập. Dựa nơi tính vô gián diệt
mà lập Ðẳng vô gián duyên. Dựa nơi cảnh giới mà lập Sở duyên duyên. Dựa nơi các
điều còn lại ngoài ba duyên kia mà lập Tăng thượng duyên".
Trong đây chủng tử chính là chỉ cho chủng tử
nhân duyên thuộc vào sáu y xứ là tập khí, nhuận sanh chủng, tùy thuận, công
năng sai biệt, hòa hợp, và chướng ngại trong mười lăm xứ nêu trên. Tuy hiện
hành của bốn y xứ là tùy thuận, công năng sai biệt, hòa hợp, bất chướng ngại,
cũng có phần nhân duyên, song vì nó hay gián đọan, cho nên lược đi mà không nói
đến. Hoặc hiện hành cũng có thể thân sanh ra tự quả như giống lúa nếp bên
ngoài, cũng gọi là chủng tử.
Hoặc nói chủng tử chỉ thuộc y xứ thứ tư là
nhuận sanh y xứ, tùy tính cách thân, sở, ẩn, hiển của nó mà lấy hoặc bỏ, như
trước đã nói.
Nói vô gián diệt y xứ và cảnh giới y xứ là,
nên biết để hiển thị chung y xứ của hai duyên, là Ðẳng vô gián duyên và Sở
duyên duyên. Không phải chỉ có hai y xứ vô gián diệt và cảnh giới có hai duyên
Ðẳng vô gián và Sở duyên duyên, mà trong mười ba y xứ còn lại kia cũng có nghĩa
của hai duyên đó. Hoặc vô gián diệt và cảnh giới là chỉ y xứ thứ năm, sáu, các
y xứ khác tuy có mà vì ẩn kín cho nên lược mà không nói.
- Luận nói: "Nhân duyên nhiếp về
năng sanh nhân. Tăng thượng duyên nhiếp về phương tiện nhân. Ðẳng vô gián duyên
và Sở duyên duyên thì nhiếp về nhiếp thọ nhân". Tuy trong phương tiên nhân
có đủ cả ba duyên Ðẳng vô gián, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên, nhưng Tăng
thượng duyên nhiều hơn nên nói nhấn mạnh.
Chín nhân khác cũng có hai
duyên Ðẳng vô gián và Sở duyên duyên, nhưng nó nhiếp vào nhiếp thọ nhân rõ rệt
hơn nên nói nhấn mạnh. Còn các thứ nhiếp vào năng sanh nhân tới lui, như trước
đã nói.