Làm sao biết được thật không có ngoại
cảnh, chỉ có nội thức sanh ra tợ như ngoại cảnh, nên không thể có thật ngã,
thật pháp?
Thế nào là không thể có thật ngã?
Chấp thật ngã lược có ba thứ:
1. Chấp ngã thể thường hằng châu biến, lượng
đồng với hư không, tùy nơi tạo nghiệp mà thọ khổ, thọ vui.
2. Chấp ngã thể tùy thường mà lượng thì bất
định, tùy theo thân lớn nhỏ mà nó có dãn ra hoặc rút lại.
3. Chấp ngã thể thường nhưng rất vi tế như
một cực vi, nó thầm chuyển dịch trong thân, tạo tác sự nghiệp.
- Lối chấp ngã thứ nhất ấy không đúng lý. Vì
sao? Chấp ngã là thường hằng châu biến, lượng đồng với hư không, thì lý đáng
ngã ấy không theo chân để chịu sự khổ vui. Lại ngã là thường, là biến thì lý
đáng ngã ấy không động chuyển, như thế làm sao ngã ấy có thể theo thân tạo tác
các nghiệp?
Lại cái ngã bị chấp đó là đồng hay là khác
giữa các loài hữu tình? Nếu nói đồng, thì khi một ngã của hữu tình này làm, lý
đáng tất cả ngã của các hữu tình khác đều làm, khi một ngã thọ quả thì lý đáng
tất cả ngã khác đều thọ, khi ngã của hữu tình này được giải thoát, thì lý đáng
tất cả của ngã của các hữu tình khác đều được giải thoát? Nếu vậy, thì mắc lỗi
lớn. Còn nếu nói khác thể, mà các ngã của các hữu tình lại cùng biến khắp, thế
thì thể của các ngã đó cũng lẫn lộn nhau. Lại khi một ngã tác nghiệp, một ngã
thọ quả, mà ngã đó vì cùng với các ngã khác ở một chỗ không riêng biệt, thì lý
đáng phải gọi là tất cả ngã tác nghiệp, tất cả ngã thọ quả. Nếu cho rằng tác
nghiệp, thọ quả đều có sở thuộc riêng, nên không mắc lỗi ấy thì lý cũng không
đúng. Bởi vì ngã thể của các hữu tình đã biến khắp, thời nghiệp, quả và thân đã
cùng với ngã thể của các hữu tình hợp làm một, mà nếu tác nghiệp thọ quả chỉ
thuộc ngã này, chẳng phải thuộc ngã kia, thì cũng không đúng lý.
Khi một ngã của hữu tình này giải thoát, tất
cả ngã của các hữu tình khác lý đáng đều được giải thoát, vì pháp tu chứng hợp
một với tất cả ngã vậy.
- Lối chấp ngã thứ hai cũng phi lý. Vì sao?
Vì chấp ngã thể là thường trú. Ðã thường trú thì không có thể theo chân mà có
sự dãn ra và rút lại. Nếu nó đã có sự dãn ra và rút lại thì nó không khác gió
trong ống bể, không thể thường trú được. Lại ngã đã theo thân thì ngã ấy có thể
chia chẻ như thân, như vậy làm sao có thể chấp ngã thể là một được?
- Lối chấp ngã thứ ba cũng phi lý. Vì sao?
Vì lượng của ngã rất nhỏ như một mảy vi trần, như thế thì làm sao ngã có thể
khiến cả thân to lớn chuyển động? Nếu nói ngã tuy nhỏ nhưng tuần chuyển rất
nhanh trong thân, giống như vòng lửa quay, nên như tuồng nó chuyển động trong
thân, thế thời cái ngã đó chẳng phải một, chẳng phải thường, vì cái gì có qua lại
chyển động thì đều chẳng phải thường nhất vậy.
- Lại có ba thứ chấp ngã:
1. Chấp ngã tức uẩn.
2. Chấp ngã lìa uẩn.
3. Chấp ngã chẳng phải tức chẳng phải lìa
uẩn.
- Thứ nhất, chấp ngã tức uẩn, không đúng lý.
Vì ngã ấy nên giống như uẩn, chẳng phải thường, nhất. Lại các sắc trong thân
chẳng phải là thật ngã, vì nó giống như các sắc ngoài thân, có sự chất ngại.
Còn Tâm, Tâm sở pháp cũng chẳng phải thật
ngã, vì đợi có các duyên, Tâm, Tâm sở mới phát sinh, nó không hằng thường tương
tục được.
Các pháp Bất tương ưng hành, các sắc thuộc
pháp xứ nhiếp khác, cũng chảng phải thật ngã, vì nó giống như hư không, không
có tính giác tri (không giác tri thì đâu phải ngã).
- Thứ hai, chấp ngã lìa uẩn, cũng không đúng
lý. Vì ngã lìa uẩn thì nó cũng như hư không, không có tác nghiệp và thọ quả.
- Thứ ba, chấp ngã chẳng phải tức uẩn, chẳng
phải lìa uẩn, cũng không đúng lý. Vì cho rằng ngã nương uẩn mới lập, chẳng phải
tức uẩn lìa uẩn thì ngã đó giống như cái bình (bình do dất làm ra, bình không
là đất, cũng không lìa đất mà có), chẳng phải là thật ngã. Lại đã không thể nói
ngã thuộc hữu vi hay vô vi (ngã tức là uẩn thì thuộc hữu vi, ngã lìa uẩn thì
thuộc vô vi. Ở đây ngã chẳng tức năm uẩn chẳng phải lìa năm uẩn, tức không thể
nói là hữu vi hay vô vi), thì cũng không thể nói là ngã hay phi ngã.
Thế nên, các lối chấp ngã trên không thành.
- Lại các ngã thể được chấp cho là thật có
đó, là nó có tư lự hay không tư lự? Nếu ngã có tư lự thì vô thường, vì không
phải lúc nào cũng có tư lự. Nếu ngã không tư lự thì giống như hư không, không
thể tác nghiệp và thọ quả. Cho nên lối chấp ngã đó không thành.
- Lại các ngã thể được chấp cho là thật có
đó, nó có tác dụng hay không tác dụng? Nếu có tác dụng thì ngã giống như tay
chân, lẽ phải vô thường. Nếu không tác dụng thì ngã giống như sừng thỏ, không
phải là thật ngã. Thế nên chấp ngã chẳng tức uẩn, chẳng lìa uẩn cũng không
thành.
- Lại các ngã thể được chấp cho có thật đó, nó có phải là cảnh sở duyên của ngã
kiến chăng? Nếu nó không là cảnh sở duyên của ngã kiến thì các ông làn sao biết
đó là thật ngã? Nếu ngã là cảnh sở duyên của ngã kiến thì lẽ ra ai có ngã kiến
là người chẳng thuộc vào hạng người điên đảo, vì họ biết đúng như thật (nếu có
thật ngã, thì người nào chấp có ngã, có ngã kiến, là người đó biết đúng như
thật, chứ không phải điên đảo). Nếu thế, thì tại sao người chấp có ngã lại bị
kẻ tin vào chỉ giáo vô ngã chê bai và chỉ xưng tán người không chấp ngã rằng:
"Không chấp ngã thì có thể chứng Niết bàn, người chấp ngã thì bị trầm luân
sanh tử", chứ đâu có thể người có tà kiến chấp ngã lại chứng Niết bàn, còn
người chánh kiến không chấp ngã lại bị trầm luân sanh tử!
- Lại các ngã kiến không
thể duyên thật ngã, vì nó đã có sở duyên, giống như tâm duyên các pháp khác.
Lại sở duyên của ngã khiến nhất định không phải là thật ngã, vì nó là sở duyên,
như các pháp sắc, hương v.v... Thế nên ngã kiến không duyên thật ngã, chỉ duyên
các uẩn do nội thức biến hiện, rồi tùy theo vọng tình so đo chấp trước này nọ.
(4)