Kiên nhẫn
Có những thái độ và đức tánh đặc biệt có khả năng hỗ trợ cho sự tu tập
của ta, và tạo nên một mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống chính niệm đơm bông kết
trái. Khi ta khai phát những phẩm tính này, là ta đang thực sự canh tác mảnh
đất tâm để nó có thể trở thành một nguồn mạch của từ bi, trí tuệ và những hành
động chân chính trong cuộc sống.
Những đức tính nội tâm có khả năng bảo trợ sự thiền tập của ta, không
thể nào bị áp đặt, ép buộc hoặc tuân theo như một đạo luật. Chúng chỉ có thể
được nuôi dưỡng và phát triển mà thôi. Và việc ấy chỉ xảy ra khi nào ta đạt đến
một giai đoạn mà ta thôi không còn muốn đóng góp vào khổ đau, cũng như sự bối
rối của chính mình, và có lẽ là của kẻ khác nữa. Chung quy nó có nghĩa là hành
động sao cho có luân lý, đạo đức - và đối với nhiều người, đây có thể là một ý
niệm rất nguy hại.
Có một lần tôi nghe trên máy phát thanh, một người nào đó định nghĩa
luân lý như là "sự phục tùng theo những điều không ai bắt buộc được".
Cũng hay đó chứ! Bạn làm vì một lý do nội tại, chứ không phải vì ai đó kiểm
soát bạn, hoặc vì bạn sẽ bị trừng phạt nếu không tuân theo, hay bị bắt gặp. Bạn
hành động theo lương tri của chính mình.
Nó là một tiếng nói sâu xa phát xuất từ trong ta, cũng tương tự như một
mảnh đất tâm đang được vun xới cho sự trồng trọt chính niệm. Bạn sẽ không thể
nào có được sự hòa hợp nếu bạn không tuân theo những hành động đạo đức. Chúng
cũng như là những hàng rào ngăn chận không cho các con dê vào ăn hết những mầm
non trong vườn của bạn.
Tôi thấy một trong những đức tính đạo đức căn bản này là sự kiên nhẫn.
Nếu bạn nuôi dưỡng đức kiên nhẫn, thì nhất định bạn sẽ nuôi dưỡng chính niệm,
và sự thiền tập của bạn cũng sẽ từ đó dần dà trở nên thâm sâu hơn và già dặn
hơn. Dù sao đi nữa, trong giây phút hiện tại này, nếu bạn thật sự không cố gắng
đi về đâu hết, kiên nhẫn sẽ tự lo liệu lấy chính nó. Ðức kiên nhẫn nhắc nhở với
ta rằng sự việc sẽ khai triển theo đúng thời điểm của nó. Ta không bao giờ có
thể hối thúc bốn mùa được. Xuân đến thì cỏ xanh lại mọc. Sự vội vã thường không
ích lợi gì cho ai, mà nhiều khi lại còn gây nên nhiều khổ đau - cho chính ta,
đôi khi là cho những người sống quanh ta.
Kiên nhẫn lúc nào cũng là một liều thuốc chữa cho căn bệnh bất an, bồn
chồn và nóng nảy. Nếu bạn nhìn xuyên qua mặt ngoài của sự bất an, bạn sẽ thấy
được nằm bên dưới, dù có tinh tế hay không, là một sự nóng giận. Ðó là một loại
năng lượng mạnh phát xuất từ việc không muốn thực tại như nó là, và ta đổ lỗi
ấy cho một người nào đó (thường là tự trách mình), hoặc một vật nào đó. Nhưng
kiên nhẫn cũng không có nghĩa là ta sẽ không còn có thể vội vã được nữa, những
lúc cần thiết. Thật ra ta vẫn có thể vội vã một cách kiên trì, trong chính niệm
và hành động mau mắn, vì ta chọn như thế.
Dưới cái nhìn của kiên nhẫn, thì cái này xảy ra vì cái kia xảy ra.
Không có bất cứ một sự việc nào có thể tồn tại riêng rẽ hay biệt lập. Không có
một nguyên nhân gốc rễ nào là tuyệt đối, cuối cùng, hoặc chịu trách nhiệm hoàn
toàn hết. Giả sử có một người nào đó dùng cây đánh bạn một cái, bạn sẽ không
nổi giận với cây gậy hoặc cánh tay ấy, mà là bạn tức giận với người có cánh tay
đó. Nhưng nếu bạn nhìn sâu hơn một chút, bạn sẽ không thể nào tìm thấy một
nguyên nhân thỏa đáng cho cơn giận của mình, cho dù ở nơi người kia, vì sự thật
anh ta không hề có ý thức về hành động của mình, cho nên chỉ mù quáng trong lúc
đó mà thôi.
Vậy thì chúng ta nên đổ lỗi và trừng phạt ai đây?
Có lẽ ta nên trút cơn giận của mình lên cha mẹ của người ấy chăng, vì
có thể anh ta đã phải chịu sự hành hạ của họ lúc còn bé thơ? Hay là ta nên
trách cứ thế giới này vì đã không có tình thương? Nhưng thế giới này là gì đây?
Có phải chăng trong đó có cả bạn và tôi? Bạn có bao giờ nhận thấy rằng mình
cũng có những cơn giận như thế không, và trong một vài trường hợp nó có những
khuynh hướng rất bạo động, đôi khi có thể là giết người được?
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma không hề biểu lộ sự tức giận đối với người Trung
Hoa, mặc dù trong nhiều năm qua chính sách của chính quyền Trung Hoa là muốn
diệt chủng dân tộc Tây Tạng của ông. Họ cố gắng đồng hóa những tín ngưỡng, văn
hóa, tục lệ, tất cả những gì mà người Tây Tạng yêu quý nhất, và muốn thâu gồm
luôn mảnh đất thân yêu mà họ đang sinh sống. Khi lên lãnh giải thưởng thế giới
Nobel về hòa bình, trả lời cho một ký giả hỏi rằng vì sao ngài không thù ghét
người Trung Hoa, đức Ðạt Lai Lạt Ma đáp: "Họ đã cướp hết tất cả những
gì chúng tôi có, không lẽ tôi lại để cho họ lấy luôn sự an lạc của mình hay sao?"
Thái độ ấy tự nó là một biểu lộ rất đặc thù của hòa bình - niềm an lạc
trong nội tâm, ý thức được những gì thật sự là chính yếu - và sự an lạc bên
ngoài, hiện thân của tuệ giác ấy trong sự sống và hành động. An lạc và thái độ
sẵn lòng kiên nhẫn trước một sự khiêu khích và khổ đau to tát như thế, chỉ có
thể phát xuất ở một tâm từ bao la, một tình thương không chỉ giới hạn cho những
người thân, mà cho luôn cả những ai, vì si mê, đã gây cho ta và những người ta
yêu nhiều khổ đau.
Mức độ vô ngã của tâm từ dựa trên những gì mà đức Phật gọi là chính
niệm và chính kiến. Nhưng việc ấy không phải tự nhiên mà có. Nó cần phải được
tu tập và khai triển. Bạn nên nhớ rằng, không phải tánh giận sẽ không bao giờ
khởi lên nữa, nhưng ta có thể xử dụng nó, kiểm soát nó, và dùng năng lượng ấy
để nuôi dưỡng cho tính kiên nhẫn, từ bi, hòa hài và tuệ giác trong ta, và còn
có lẽ trong kẻ khác nữa.
Trong thiền tập, chúng ta phát triển tánh kiên nhẫn mỗi khi ta dừng lại
và ngồi xuống theo dõi hơi thở của mình. Và hành động ấy sẽ mời gọi ta biết cởi
mở hơn, biết tiếp xúc hơn, kiên nhẫn hơn với giây phút hiện tại, và giây phút
này tự nhiên sẽ kéo dài sang những thời gian khác trong cuộc sống.
Chúng ta ý thức được rằng, mọi việc sẽ khai mở theo đúng tự tánh của
nó. Vì vậy ta cũng phải biết cho phép sự sống của mình khai mở theo cùng một
lối ấy. Ta không cần phải để cho những lo âu và tham muốn về một tương lai nào
đó thống trị phẩm chất của giây phút hiện tại này, cho dù thực tại có là khổ
đau chăng nữa. Khi nào ta cần phải xô đẩy, hãy cứ xô đẩy. Khi nào ta cần phải
lôi kéo, hãy cứ lôi kéo. Nhưng chúng ta cũng biết khi nào mình không cần phải
xô đẩy, và khi nào không cần phải lôi kéo.
Chung quy là chúng ta cố gắng đem lại sự quân bình cho giây phút hiện
tại, biết rằng tuệ giác nằm trong sự kiên nhẫn, biết rằng những gì sắp đến sẽ
được định doạt bởi con người của ta trong giờ phút hiện tại này. Nhớ được những
điều ấy sẽ giúp ích cho ta rất nhiều, nhất là những khi ta cảm thấy bất an
trong sự tu tập của mình, hoặc khi ta trở nên nản lòng, buồn chán và tức giận
trong cuộc sống.
Thục năng trọc dĩ chỉ,
Tĩnh chi từ thanh.
Thục dĩ an dĩ cửu,
Ðộng chi từ sanh.
Ai hay nhờ tịnh mà đục hóa trong,
Ai hay nhờ động mà đứng lại đi.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh.
Tôi hiện hữu như vậy đủ rồi,
Dù không một ai khác biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Và dù mọi người ai cũng biết.
Tôi vẫn ngồi đây mãn nguyện,
Có một thế giới đang biết, và đối với tôi.
Nó vĩ đại vô cùng, vì đó là Tôi,
Và dù tôi có trở về với chính mình.
Ngày hôm nay,
Hay trong ngàn, triệu năm đi qua,
Tôi sẽ hân hoan nhận lãnh nó bây giờ.
Và với cùng một niềm vui,
Vì tôi có thể đợi chờ. -- Walt Whitman,
Leaves of Grass.
Thực tập: Hãy quan sát sự bất an và giận dữ mỗi khi chúng khởi lên. Bạn
hãy thử tập một cái nhìn mới, thấy được rằng sự việc sẽ khai mở theo đúng thời
điểm của nó. Việc này rất hữu ích, nhất là những khi bạn cảm thấy căng thẳng,
kẹt lối hoặc bối rối trong công việc bạn cần làm hay muốn làm. Biết rằng khó,
nhưng bạn cố gắng đừng thúc dục dòng sông trong lúc ấy, mà nên lắng nghe nó cho
thật cẩn trọng. Nó muốn nói gì với bạn? Nó khuyên bạn phải làm gì? Nếu không
cảm thấy gì hết, bạn hãy tiếp tục thở trong chính niệm, để cho sự việc như
chúng là, buông hết cho sự kiên nhẫn và tiếp tục lắng nghe. Nếu dòng sông
khuyên bạn làm gì, bạn hãy thi hành, nhưng phải nhớ là làm trong chính niệm.
Rồi sau đó, dừng lại, kiên nhẫn chờ đợi và lại lắng nghe.
BUÔNG BỎ
"Buông bỏ" là một thành ngữ vô cùng sáo rỗng, đã được xử dụng
nhiều nhất trong kỷ nguyên thời đại mới (new age). Nó bị lợi dụng và lạm dụng
mỗi ngày. Nhưng tuy vậy, danh từ ấy diễn tả một thái độ nội tâm rất dũng mãnh,
đáng cho ta tìm hiểu dù có là sáo rỗng hay không!
Buông bỏ có nghĩa y như vậy, là bảo ta thôi bám víu vào bất cứ một sự
việc gì - cho dù đó là một ý tưởng, một vật, một sự kiện, một thời điểm, một
quan niệm, hoặc một tham muốn nào đó. Buông bỏ là một quyết định có ý thức, với
sự chấp nhận hoàn toàn hòa nhập vào dòng sông hiện tại trong khi hiện hữu đang
khai mở. Buông bỏ có nghĩa là thôi ép buộc, thôi chống cự hoặc tranh đấu, để
đổi lấy một cái gì cường mạnh hơn và trọn vẹn hơn. Nó phát sinh từ một sự cho
phép mọi việc có mặt như chúng là, mà không bị mắc kẹt vào bản chất dính như
keo của lòng tham muốn, của thương và ghét. Hành động ấy cũng tương tự như là
ta mở rộng bàn tay ra, buông bỏ một vật gì mà mình hằng mãi mê nắm giữ.
Nhưng thật ra không phải sự dính mắc của lòng tham vào ngoại vật đã
giam giữ ta. Cũng không phải chúng ta chỉ nắm giữ bằng đôi tay, chúng ta còn
nắm bắt bằng tâm ý của mình nữa. Chúng ta tự bắt giữ mình, tự giam hãm mình
bằng những quan điểm nhỏ hẹp, bằng những hy vọng và mơ ước nhỏ nhen. Thật ra buông
bỏ có nghĩa là ta được trở nên trong sáng, không để bị ảnh hưởng bởi sự lôi
cuốn của lòng ưa thích và ghét bỏ. Muốn đạt được sự trong sáng đó, ta cần phải
biết cho phép sự sợ hãi và bất an của tự chúng biểu lộ ra dưới ánh sáng quán
chiếu của chính niệm.
Chúng ta chỉ có thể thực sự buông bỏ khi nào ta biết đem chính niệm và
sự chấp nhận, nhìn thẳng vào thực chất vô cùng dính mắc của mình. Và nếu ta
biết ý thức được những lúc ta vô tình mang lên một cặp mắt kính màu, đi phân
chia chủ thể và đối tượng, làm cong quẹo và uốn éo cái thấy của ta. Trong những
lúc ấy, ta vẫn có một khả năng cởi mở, nhất là nếu ta có chính niệm thấy được
mình đang mãi mê theo đuổi, bám víu, buộc tội hoặc chối bỏ sự việc vì một lợi
lộc riêng tư nào đó.
Sự tĩnh lặng, minh triết, tuệ giác chỉ có thể phát sinh khi ta thật sự
an trú trong giờ phút hiện tại, mà không bám víu hoặc xua đuổi bất cứ một việc
gì. Ðiều tôi nói đó bạn có thể thí nghiệm được. Hãy cứ thử đi cho biết! Bạn hãy
thử chứng nghiệm đi, xem mỗi khi ta buông bỏ một cái gì mà mình rất ưa thích,
nó có đem lại cho ta một sự mãn nguyện sâu xa hơn là sự bám víu vào nó hay
không!
KHÔNG PHÊ PHÁN
Bạn không cần phải hành thiền lâu dài mới nhận ra rằng, một phần của
tâm ta lúc nào cũng đánh giá những kinh nghiệm của mình, so sánh chúng với kinh
nghiệm của kẻ khác, hoặc so đọ với những kỳ vọng và tiêu chuẩn mà ta đã tự đặt
ra. Nguyên nhân thường là vì những nỗi sợ của mình. Sợ rằng mình không xứng
đáng, rằng sẽ có việc không may xảy ra, rằng những gì tốt đẹp không tồn tại lâu,
rằng người khác sẽ làm mình khổ đau, rằng ta không đạt được những gì mình muốn,
rằng chỉ có ta mới là người biết, rằng chỉ có mình ta là không biết gì hết.
Chúng ta có khuynh hướng nhìn sự vật qua một cặp kính màu: sự việc tốt
hoặc xấu, hoặc chúng có phù hợp với niềm tin và triết lý của mình không. Nếu
tốt thì ta ưa thích, nếu xấu thì ta ghét bỏ. Và nếu không tốt cũng không xấu,
thì ta không có một cảm xúc nào đặc biệt hết, và có lẽ cũng chẳng thèm để ý
đến.
Khi ta an trú trong tĩnh lặng, những tư tưởng phê phán trong ta sẽ phát
hiện ra rõ rệt như là những tiếng còi báo hiệu sương mù ở ven biển. Tôi không
ưa cái đau ở chân... Cái này chán quá... Tôi thích cảm giác tĩnh lặng này...
Hôm qua tôi ngồi thiền thật tốt, nhưng hôm nay thì tệ quá... Cái này không hợp
với tôi... Tôi không giỏi ngồi thiền cho lắm... Thật ra tôi không giỏi chút nào
hết...
Những loại tư tưởng này đã từng chế ngự và trì kéo tâm ta xuống. Nó
cũng tương tự như ta đang đội một thúng đá trên đầu vậy. Bạn nghĩ xem, nếu ta
có thể bỏ nó xuống thì sung sướng biết chừng nào! Và bạn hãy tưởng tượng, nếu
chúng ta biết dừng sự phê phán của mình lại, và để cho mỗi giây phút được như
nó là, không cần phán đoán nó là "tốt" hoặc "xấu", ta sẽ cảm
thấy như thế nào! Ðó mới thật sự là tĩnh lặng, là chân giải thoát.
Thiền tập có nghĩa là nuôi dưỡng và phát triển một thái độ không phê
phán những gì đang khởi lên trong tâm, bất cứ là một sự việc gì. Thiếu thái độ
ấy không có nghĩa là sự phê phán không còn nữa. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ vẫn còn đó,
vì bản tánh của tâm ý là hay so sánh, phê phán và đánh giá. Nhưng khi nó có
mặt, ta sẽ không cố gắng ngăn chận hoặc làm lơ nó, hơn bất cứ một tư tưởng nào
khác có mặt trong tâm mình.
Con đường của thiền tập là chỉ đơn giản chứng kiến bất cứ một sự việc
gì khởi lên trong tâm và thân, nhận diện nó bằng một tâm bình thản, không theo
đuổi cũng không ghét bỏ. Ta cũng ý thức được rằng, sự phán đoán của ta không
thể nào tránh được, và ý tưởng về kinh nghiệm thì rất giới hạn. Ðiều ta muốn có
được trong thiền tập là tiếp xúc trực tiếp với kinh nghiệm của mình.
Cho dù đó là một hơi thở vào, hơi thở ra, một cảm giác hoặc cảm thọ,
một âm thanh, một sự thôi thúc, một tư tưởng, một ý niệm, hoặc một ý nghĩ phê
phán. Và ta luôn luôn tỉnh thức, biết rằng mình rất có thể bị kẹt vào việc đi
phê phán chính sự phê phán ấy, hoặc dán cho chúng nhản hiệu là tốt hay
xấu.
Trong khi ý nghĩ của ta hay tô màu lên mọi kinh nghiệm, những ý nghĩ ấy
lại thường không được mấy chính xác. Lắm khi chúng chỉ là ý kiến cá nhân, là
những phản ứng và thiên kiến dựa trên một kiến thức giới hạn và chịu nhiều ảnh
hưởng bởi những điều kiện trong quá khứ. Bao giờ cũng vậy, khi không nhận thức
được chúng, những tư tưởng ấy có thể ngăn trở không cho ta thấy rõ được thực
tại chung quanh.
Chúng ta bị mắc kẹt trong sự suy nghĩ, tưởng rằng ta thật sự biết những
gì mình đang nhìn, đang cảm nhận, và đem tâm phán đoán khéo léo áp đặt lên mọi
việc ta tiếp xúc. Chỉ cần ta ý thức được tập quán cố hữu này và theo dõi nó mỗi
khi nó có mặt, có thể giúp ta phát triển một thái độ chấp thuận và tiếp nhận mà
không phê phán, vô cùng rộng lớn.
Nhưng bạn nên nhớ rằng, một thái độ không phê phán không có nghĩa là ta
sẽ không còn biết xử sự hoặc hành động có trách nhiệm trong xã hội nữa, hoặc là
để mặc ai làm gì cũng được. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là chúng ta biết hành xử
sáng suốt hơn trong cuộc sống, ta trở nên quân bình hơn, hữu hiệu hơn và có đạo
đức hơn trong mọi sinh hoạt. Vì ta ý thức được rằng, mình đang đắm chìm trong
dòng sông thất niệm, của sự ưa thích và ghét bỏ, chúng ngăn che ta với thế giới
và bản chất thanh tịnh của mình.
Tâm thức ưa ghét ấy có thể cư trú thường trực trong ta, và nó cung cấp
nguyện liệu cho những hành động si mê của ta một cách vô ý thức, trong mọi lãnh
vực của sự sống. Khi ta có thể nhận diện và gọi tên những hạt giống tham lam
trong tâm, dù chúng tinh tế đến đâu - lúc nào cũng muốn theo đuổi sự vật và kết
quả mình mong mỏi - và những hạt giống của sân hận, ghét bỏ, trốn tránh những
gì mình không ưa thích - nó sẽ giúp ta dừng lại trong một khoảnh khắc và tự
nhắc nhở rằng, những năng lực nguy hại ấy đang thực sự có mặt nơi ta. Ta có thể
nói rằng chúng là những vi khuẩn, độc tố rất nguy hiểm, ngăn trở không cho ta
nhìn thấy rõ được thực tại cũng như xử dụng hết chân tiềm lực của mình.
NIỀM TIN
Niềm tin là một cảm giác tự tin hoặc tin thực rằng, sự việc có thể khai
triển trong một khuôn khổ đáng tin cậy, cũng như nó là hiện thân của trật tự và
sự trung thực. Có lẽ không phải lúc nào chúng ta cũng sẽ có thể hiểu được những
gì xảy đến với mình, với người khác, hoặc sự kiện trong một trường hợp đặc biết
nào đó. Nhưng nếu ta biết đặt niềm tin nơi mình, hoặc người khác, hoặc vào một
tiến trình, một lý tưởng, chúng ta có thể tìm được một yếu tố rất vững vàng, nó
tàng chứa sự an ổn, quân bình và cởi mở trong một niềm tin dựa vào trực giác mà
có thể dẫn dắt và bảo vệ ta khỏi mọi sự nguy hiểm cũng như tự tổn thương.
Niềm tin rất quan trọng trong sự tu tập chính niệm. Vì nếu ta không tin
vào khả năng quan sát, cởi mở và chú ý của mình, cũng như khả năng suy ngẫm về
những kinh nghiệm đã qua, hoặc học hỏi từ sự quán chiếu sâu xa, chúng ta sẽ
không bao giờ chịu cố gắng phát triển những khả năng ấy, và chúng sẽ ngủ vùi
hoặc héo khô đi.
Một phần của sự tu tập chính niệm là phát huy mọi con tim biết tin
tưởng. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách quay lại nhìn chính mình cho thật sâu.
Bạn có tìm được một điều gì ở mình để cho ta đặt niềm tin không? Nếu bạn còn
chút phân vân thì có lẽ bạn nên quan sát sâu thêm một chút, nên tiếp xúc với
chính mình trong hiện thực và tĩnh lặng lâu hơn một chút. Nếu chúng ta đã quen
sống trong sự thất niệm và không bao giờ cảm thấy bằng lòng với những gì xảy
đến trong cuộc đời mình, thì có lẽ đây là lúc ta nên tập ý thức hơn, biết tiếp
xúc hơn, và chú ý đến những sự chọn lựa của mình, cũng như hậu quả của chúng về
sau.
Có lẽ ta nên thử nghiệm bằng cách đặt niềm tin vào giây phút hiện tại
này, hãy chấp nhận hết những gì mình đang cảm nhận, suy nghĩ hoặc nhìn thấy
trong giây phút này, vì đó là hiện thực. Nếu ta có thể đứng vững vàng nơi đây
và hội nhập được trọn vẹn vào giây phút này, ta sẽ nhận ra rằng thời gian hiện
tại rất đáng được cho ta tín cẩn. Với những thí nghiệm đó, được kinh nghiệm
nhiều lần, ta sẽ khám phá ra rằng sâu kín trong ta là một cốt lõi rất lành mạnh
và đáng tin. Và trực giác của ta là một sự vang động thâm sâu của hiện thực, nó
rất đáng được tín nhiệm.
Hãy mạnh dạn,
Và an trú trong thân mình.
Nơi dưới chân ta bao giờ cũng vững chắc,
Hãy suy nghĩ cho tường tận!
Ðừng bỏ đi đâu nữa mà làm gì!
Kabir nói như vầy: "Hãy quẳng đi hết mọi ý nghĩ và những sự vật
tưởng tượng.
Và đứng cho thật vững vàng trong con người của ta. -- Kabir
(Hết)
Nguyễn Duy Nhiên (dịch) - Trích từ sách "Nơi
ấy cũng là bây giờ và ở đây"