Trưởng giả Tu-đạt tại thành Xá Vệ nước 
Ấn Độ là một vị “đại thí giả”, hễ có người nghèo khổ bần cùng đến cầu 
xin ông cứu giúp, ông liền làm cho người ấy được toại ý. Nhất là đối với
Tam bảo thì ông lại càng cung kính tôn thờ, thường cúng dường đức Phật 
và chư tăng.
Trong nhà ông trưởng giả Tu-đạt có một 
bà lão bộc làm công, rất trung thành với chủ và làm việc rất siêng năng 
nên được trưởng giả một lòng tín nhiệm. Chìa khóa nhà kho, vựa lúa đều 
do một tay bà nắm giữ.
Bà lão bộc này tính nết rất keo kiết, 
mỗi khi thấy chủ nhân lấy từ kho ra bao nhiêu là tiền bạc của cải để bố 
thí cho người là trong lòng bà không khỏi cảm thấy tiếc rẻ.
![1]()
Nhưng điều làm cho bà bất mãn hơn cả là 
lúc bà thấy đức Phật và chư vị đệ tử đến nhà trưởng lão thọ cúng dường. 
Bà thấy lúc đó trưởng giả vô cùng nhiệt thành, hoan hỉ nghênh tiếp và 
cúng dường đức Phật. Tâm ganh tị như thiêu như đốt khiến bà ghét đức 
Phật thậm tệ. Có một hôm bà còn lập ác nguyện rằng:
– Tôi vĩnh viễn không muốn thấy mặt Phật, không muốn nghe ông ta thuyết pháp, cũng không muốn thấy mặt mấy ông tỳ-kheo.
Thật là chuyện tốt không ai hay, mà 
chuyện xấu thì ai cũng biết, nên tin bà lão bộc phát ác nguyện chẳng mấy
chốc lan truyền khắp mọi nơi.
Lúc ấy, hoàng hậu Mạt Lợi nghe kể lại, 
rất lấy làm phật ý. Hoàng hậu biết trưởng giả Tu-đạt là một vị Phật tử 
thuần thành, thì làm sao lại dung dưỡng trong nhà một bà nô bộc bất kính
Tam bảo như thế? Do đó, hoàng hậu hạ lệnh bắt trưởng giả phải cho bà 
mượn bà lão bộc đến hoàng cung giúp việc nhân dịp bà lập đàn trai cúng 
dường đức Phật.
Dĩ nhiên là trưởng giả Tu-đạt không dám 
trái lệnh hoàng hậu, hơn nữa mục đích lại là giúp cho việc cúng dường 
đức Phật thì ông lại càng vui lòng hơn nữa. Trưởng giả lập tức dùng mâm 
vàng đựng đầy trân châu, sai bà lão bộc đem đến hoàng cung để cúng dường
đức Phật.
Hoàng hậu ra ý, chủ nhân truyền lệnh, bà
lão bộc đâu dám không tuân! Khi phu nhân Mạt Lợi thấy bà lão bộc này, 
bà nghĩ phải thỉnh đức Phật dạy dỗ con người tà kiến như thế mới được!
Bà lão bộc đem trân châu đến dâng lên 
hoàng hậu rồi, vừa mới quay người tính lui đi thì đức Phật từ cửa chính 
bước vào, theo sau là các vị đệ tử của Ngài. Thấy đức Phật bước vào bà 
lão đâm ra bối rối, cất bước lên tính trốn bằng cửa sau, thì quái lạ 
thay, đức Phật cũng lại từ cửa sau bước vào. Lần này bà cuống cuồng lên,
tính chạy bằng cửa bên hông nhà, nhưng cũng lại thấy đức Phật đứng ngay
ở ngưỡng cửa bên hông. Bà lão bộc thấy bốn phương tám hướng đâu đâu 
cũng có đức Phật và chư vị đệ tử đứng, bà tiến hay lùi gì cũng không 
được nữa, đành phủ phục xuống đất. Nhưng ngay trên mặt đất bà cũng vẫn 
thấy tôn tượng của Thế Tôn.
Bà vội vàng dùng hai bay bịt kín lấy 
mắt, để mắt mình không gặp hình ảnh của đức Phật nữa. Nhưng trong khoảnh
khắc, mười ngón tay của bà đều hiện lên hình Phật. Bà không cần biết 
hậu quả ra sao, ba chân bốn cẳng chạy về, trốn vào một căn nhà nhỏ, 
những tưởng là sẽ không còn thấy đức Phật nữa. Nhưng vẫn như trước, 
trong gian phòng đen tối ấy, đâu đâu cũng có đức Phật nên bà lão bộc rất
lấy làm đau khổ.
Lại nói đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở 
hoàng cung, Ngài không nói gì về thái độ vô lễ của bà lão bộc, chờ thọ 
cúng xong mới nói với La-hầu-la:
– Bây giờ con có thể đi hóa độ cho bà 
lão ban nãy. Bà ấy với con có nhân duyên lớn, bà ấy sẽ tiếp đón con nồng
hậu và sẽ chấp nhận sự giáo hóa của con.
Tôn giả La-hầu-la vâng lời đức Phật đi ngay, đến nhà bà lão bộc nọ rồi đứng trước nhà kêu cửa.
Bà lão đang trốn trong nhà, chợt nghe 
một giọng nói hòa nhã thân thiết bèn vội vàng chạy ra mở cửa nhìn xem là
ai. Có lẽ trong lòng còn hoảng hốt, lại hoa mắt nên thấy ngài La-hầu-la
bà ngỡ là người từ cõi trời xuống.
Bà lễ lạy và đối xử với La-hầu-la như thần thánh. Tôn giả bèn dùng thái độ trang nghiêm thuyết cho bà lão nghe pháp Thập thiện.
Bà lão nghe rồi, hối hận những lỗi lầm đã tạo trong quá khứ, và nói:
– Ngài là chúa tể cõi trời, ngài quả là 
cao cả, vì thế nhân chúng con mà thuyết Thiện pháp vi diệu để lợi lạc 
chúng sinh, ngài thật là phi thường hơn mấy ông tỳ-kheo kia nhiều!
Lúc ấy, ngài La-hầu-la biết bà đã bớt tâm ngã mạn, mới trả lời:
– Pháp của Phật mới là thanh tịnh, mới 
là từ bi quảng đại. Pháp mà tôi mới nói ban nãy là do thầy tôi dạy. Phận
tôi nhỏ nhoi không đáng kể, làm sao so sánh với bậc đại thánh Như Lai 
được?
Lão bà nghe những lời ấy, định thần nhìn
kỹ lại ngài La-hầu-la, lúc đó mới tàm quý hổ thẹn không biết làm sao để
chui xuống đất. Bà hối hận, bà tự trách, rồi bà khẩn cầu ngài La-hầu-la
giúp bà sám hối với đức Phật và can thiệp cho bà được xuất gia.
Phật pháp vốn bình đẳng, giữa người cao sang như vua chúa hay người bần tiện như nô tỳ không hề có sự sai khác.
Bà lão bộc nọ, sau khi đến trước mặt Phật sám hối rồi, bèn xuống tóc xuất gia làm tỳ-kheo ni.
Bà chuyên tâm tu học nên chứng được quả 
vị rất mau lẹ. Có người thấy thế, bèn đến xin đức Phật thuyết giảng về 
nhân duyên quá khứ của bà lão bộc này. Phật dạy:
– Vào thuở xa xưa, thời Phật Bảo Cái 
Đăng Vương có một vị thái tử xuất gia học đạo với Như Lai. Thật ra, vị 
hoàng tử này tu hành trì giới rất tinh chuyên, nhưng lại lầm lạc theo 
đường tà. Về sau hoàng tử gặp một vị tỳ-kheo, vị tỳ-kheo này thuyết pháp
dẫn đạo rất hay, nhưng hoàng tử không những không tán thán còn đem lời 
phỉ báng, bởi vì tuy trì giới nhưng lại rất ngã mạn tà kiến. Do đó chết 
rồi đọa ác đạo, chịu đủ hết mọi sự thống khổ trong địa ngục, nay tuy 
sinh thân người nhưng lại chịu phận nô bộc.
Vị hoàng tử thời nọ chính là bà lão bộc trong kiếp này và vị tỳ-kheo bị hủy báng kia chính là ta trong quá khứ.
Các vị đệ tử của đức Phật nghe xong, họ 
thấy rõ ràng là không thể tạo khẩu nghiệp, nhất là hủy báng người khác, 
vì quả báo xấu xa của tội này, dẫu có tu hành trì giới cũng không ngăn 
chận được.
(Diệu Hạnh Giao Trinh dịch)