Văn nghệ Phật giáo (VNPG ) được  nở rộ vào nữa cuối thập niên
80 thế kỷ trước, và cho đến đầu thập niên chín mươi thì chính thức bước
vào cục diện nghệ thuật chung, góp phần đa dạng hóa  hình thái nghệ 
thuật đang rất được nhiều giới quan tâm.
																
              Là người trong 
cuộc, đóng góp một sức lực khiêm nhường của mình trong hững tháng  ngày 
phôi thai ấy, người viết  có thể khẳng định rằng, công lao đầu tiên mang
tính đột phá mạnh mẽ  của làn sóng VNPG dang được nói tới, đó chính là 
Thượng Tọa Thích Đồng Bổn(TT), đương nhiệm  Trường Ban Phật Giáo 
VN(VNCPHVN) và phó trụ trì chùa Xá Lợi, quận 3  Sàigòn hiện nay.
             Thượng Tọa vốn là một 
người  có rất nhiều thuận duyên với  văn hóa nghệ thuật , nhất là am 
hiểu  khá tường tận các bộ môn nghệ thuật, từ đó TT rất dễ dàng thực thi
nhiệm vụ  chuyên môn trong tư cách  Phó Ban Văn Hóa Thành Hội PGTP.HCM, và tiêp cận các giới chuyên môn bằng những ý tưởng độc đáo  cho riêng  VNPG.
              Khi đó, VNPG chưa có  nền 
tảng nhất định  và việc kêu gọi tài trợ là  một vấn đề mang tính xa hoa 
và “không hiệu quả về kinh tế”(nhìn từ phía  các nhà kinh doanh, hơn nữa
khi ấy kinh tế đang phát triển, luật lệ chưa đẩy đủ , kèm theo rất 
nhiều e dè, do quá mới mẽ). TT đã tự chủ các nguồn tài chánh sẵn có  , 
mạnh dạng thực hiện các đầu band cassete(khi đó CD,VCD chưa phổ biến 
rộng rãi). Đây là những sản phẫm “thông minh” bước đầu khẳng định  thế 
đứng và giá trị của VNPG.
              Có thể, cùng thời điểm đó,
các tỉnh thành khác cũng có những bước khởi động cho VNPG  nởi trú xứ 
của mình, nhưng ở đây, tính chuyên nghiệp đồng thời cũng được TT nâng 
lên hàng quan tâm đặc biệt và cho đến bây giờ chính từ những đầu band 
này đã là nguồn xúc tác quan trọng , góp phần khơi dậy  phong trào VNPG 
khắp nơi.
              Đó là album  đầu tiên Mây Đầu Hạ , bao gồm các bài ca truyền thống của VNPG từ nhiều thập niên trước như Phật Giáo VN; Liên khúc Mừng Khánh Đản.v…v…Tiếp nối thành công đó là album Gió Mùa Thu, Dòng Dông Trăng, cũng thuộc mô típ các bải ca truyền thống của VNPG và  lần này là các bài về Vu Lan như Vọng Vu loan, Vu Lan về, Mục Kiền Liên.v…v…
              Nhân tiện mùa Vu lan đang 
đến, xin mời quý vị  nghe một bài ca tiêu biểu trong chuổi thành công ấy
có sự chăm chút tỉ mỉ  từng khâu một của TT; đó là bài Cơn Gió Bồi Hồi của nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu  do ca sĩ Thanh Lan thể hiện, để kiểm định những gì người viết vừa trình bày.(audio-mp3Cơn Gió Bồi Hồi đính kèm).
              Bên cạnh TT lúc ấy  trong mãng tân nhạc  gồm có 3 êkíp ; thứ nhất êkíp Ngô Mạnh Thu, Tống Thông Thu, Hồ Văn Thành…Thứ hai, êkíp Nguyễn Hiệp và thứ ba êkíp Minh Trí Uy Thi Ca, Giác An…
              Về mãng  cổ nhạc và cải 
lương , những cái tên đầu tiên TT nghĩ đến và đã nhận được sự cộng tác ,
hổ trợ tận tình như Phạm Ngọc Cung, Hoàng Ngọc Ẩn, diễn viên điện ảnh 
Hồ Kiểng.v…v… Bên cạnh đó  còn có sự  đóng góp tận tình  của cố NSND Út 
Trà Ôn, NSUT Út Bạch Lan và nhiều nghệ sĩ  khác. Về mãng này, trước tiên
do  bài ca  nội dung Phật giáo còn quá ít nên tạm thời TT chủ trương sử
dụng lại một vài bài ca  cũ trước thời 1975 như Quả Tm Bất Diệt; Dưới Cội Bồ Đề; Tiếng Chuông Thức Tỉnh.v..v Phần lớn chủ trương này đều nằm trong band ca cổ Phật giáo đầu tiên.
              Khi người viết được TT triệu tập về  hổ trợ thì vùng trời Cải lương Phật Giáo
được mở ra, cũng như cổ nhạc Phật giáo từ đó được  phát triển và bài vở
cộng tác từ các nơi gởi về được phong phú hơn. Nội dung cũng từ đây  
được TT chăm chút tỉ mỉ. Xin lưu ý thêm, thời gian này ngoài khu vực  cổ
nhạc, cải lương Phật giáo, bên ngoài xã hội  như các đài phát thanh, 
truyền hiònh; nhất là các hãng band đĩa, nếu có một bài ca hay vở nào có
nội dung liên quan ít nhiều đến Phật giáo thì đều phài có ý kiến của  
Ban Văn Hóa Thành Hội. Tôi  được TT tin tưởng giao phó trọng trách này  
bằng cách phê duyệt nội dung và đệ trình lên TT và TT Trưởng Ban Văn Hóa
để gởi phúc đáp. Quy trình  này rất thuận lợi cho Văn hóa Phật giáo,  
kiểm soát được độ sai phạm  hoặc xúc phạm(nếu có) đến Phật giáo. Có thể 
nói đó là một thuận duyên rất lớn và có lẽ cũng là mong ước của chư tôn 
đức từ thời chấn hưng rực rỡ. Rất tiếc diễn trình tốt đẹp này  dần  
nguội tàm theo cơn lốc thị trường thời thực dụng. Nhìn vào vô số những 
sai phạm, xúc phạm Phật giáo ngày trên các  phương tiện giải trí , chúng
ta mới thấy được giá trị cuả thời  mà giá trị của một Ban Văn Hóa Phật 
giáo và nhân tố lãnh đạo có năng lực , kiến thức  văn hóa van nghệ PG 
thời ấy. Đương nhiên qua đó cũng thấy  những tâm huyết , chủ trương đứng
đắn của TT rất hữu dụng và lợi lạc biết chừng nào.
            Nếu không thì  vở cài lương THÁI TỬ A XÀ THẾ và THOÁT VÒNG TỤC LỤY 
không thể ra đời và được mệnh danh là  những vở cài lương Phật giáo đầu
tiên ( Do Phật giáo thực hiện từ khâu kịch bản cho đến toàn bộ  kinh 
phí), dù  rằng  hãy còn có nhiểu cái không hài lòng về cách dàn dựng  và
thu hình  nhưng trên hết là tâm huyết  của TT  về  một môi trường Nghệ 
Thuật Sân Khấu Phật Giáo  đứng đắn đã được thực thi. Điều mà cho đến tận
bây giờ chưa thấy có sự  kế tục mang cùng ý nghĩa đó.
           Phim ảnh “phật giáo”; cải 
lương “Phật giáo” bây giờ  rất  nhiều, thế nhưng để đi tìm một ý nghĩa 
độc lập của riêng bản thể Văn Hóa Phật Giáo thì dường như hơi…bị khó!.
Khi mà ai cũng có thể trở thành nhạc sĩ , ai cũng có thể trở thành soạn
giả viết cổ nhạc và cải lương thì đó là  một hiện tượng đáng mừng, đáng
vui cho văn hóa Phật giáo. Nhưng  ở đây  dường như  có một cái gì đó nó
nghèn ngẹn ở trong tim  khi tất cả  khán thính giả vô hình trung trở 
thành những  vị đi đãi cát tìm vàng, thay vì đem đến cho họ sự thưởng thức nghệ thuật  đúng nghĩa.
           Thượng Tọa Thích Đồng Bổn vì 
thế  nhanh chân hơn người viết , trở về với công tác nghiên cứu của mình
, nơi mà thiên chức luôn ở vị trí “ổn định”, không sợ bị soán ngôi, lật
đổ ! Để rồi  sau đó, người viềt mới mò mẫn về đến nơi đã thấy TT dang 
tay  chờ đón  từ lâu. Đúng vậy, hơn 10 năm qua thầy trò  vẫn luôn có cảm
giác bình an ở môi trường cao cả này.(Ảnh: từ trái qua phải: Nhà  sử học Nguyễn Khắc Thuần, Dương Kinh Thành, TT Thích Đồng Bổn)
          Tuy vậy, vì còn mang vấn vương
nên ít nhiều  trong một góc đời, người viết vẫn còn liên hệ đến lãnh 
vực nghệ thuật Phật giáo, cho nên những hệ lụy  bây giờ không còn là 
điều  lo buồn nữa do đã được trui rèn trong vô vàn  nghịch cảnh
từ trước đó, có chăng là những bước cản của đối cảnh  mà anh em van 
nghệ sĩ Phật giáo gọi là chướng ngại, ù lì, làm hao tồn tiềm năng van hóa-van nghệ PG.
Đây có lẽ là điều bức xúc được đưa ra trong Đại Hội Phật Giáo cuối năm 
nay, để nhiệm kỳ mới (2012 – 2017) văn hóa văn nghệ Phật giáo sẽ được  
khác hơn.
          Với những gì đã kể trên, trong
tái tim người viết, hiện vẫn có một góc trang trọng ghi khắc mãi hình 
ảnh và  ý chí vượt thoát của TT rất đẹp trong giai đoạn đó.
           Vì vậy, với người viết, khi 
nhắc đến Van Hóa van Nghệ  Phật Giáo, không thể không nhắc đến TT . Dưới
mắt các văn nghệ sĩ, TT còn là  một chỗ dựa rất lớn trên tinh thần  
tiên phong ban đầu, mang van hóa văn nghệ vào  hoằng pháp và đời sống. 
Trên đó nữa TT còn là một người làm văn hóa văn nghệ đúng nghĩa; từ 
trình dộ  học vị cho đến nghệ thuật tân nhạc cồ nhạc và phim ảnh. Mỗi 
khi thu  một chương trình nghệ thuật, TT đều yêu cầu  đem về bản mộc để 
nghe thử và góp ý thẩm định. Trong quá trình đó đã không ít lần TT yêu 
cầu thu lại toàn bộ chương trình, khiến  các thành viên rất tâm đắc và  
nễ phục.
            Tính quyết đoán mạnh mẻ 
nhưng không cứng ngắt, Thẳng thán trong cư xử nhưng rất nghĩa tình với 
chung quanh. Cho đến tận ngày nay người viết vẫn còn giữ nguyên tình cảm
đó một cách trân trọng , chứng tỏ  ngày trước đã không nhầm trao gởi 
nhiệt tình cống hiến cho van hóa văn nghệ PG mà TT là người tiên phong  
đứng mủi chịu sào , khuấy vào dòng nước  vốn yên lặng từ lâu  bằng  
chiếc sào trí tuệ và cống hiến, mặt nước trở nên xao động , đánh thức  
vạn vật chung quanh. Nhiệt thành đó hà chãng  đáng để hậu thế khắc ghi ?
             Trước thềm Đại Hội Phật 
Giáo kỳ VI(2012 – 2017) xin kể lại vài hồi ức thưở ban đầu của văn hóa 
văn nghệ Phật giáo để cùng nhau nhận thức rõ giữa thực tế và kết quả lưu
đời , giúp hữu ích cho công cuộc hoằng pháp ngày mai như thế nào. Từ 
đó, thiết nghĩ Giáo Hội nên  đặt trọng tâm hơn cho lãnh vực văn hóa văn 
nghệ Phật giào, trọng dụng nhân tài đúng mực. Cuối cùng, rất mong TT 
Thích Đồng Bổn hoan hỷ cho người viết thực hiện  bài viết này  trước là 
để  tri ân  sau nữa là nhắc lại những kỷ niệm một thời thầy trò  làm văn
nghệ Phật giáo trong thiếu thốn trăm bề mà kết quả lại rất  lớn lao, 
những thành quả đó ngày nay còn hiển hiện khi viễn cảnh kế thừa hãy vẫn 
còn buông xuôi, xa lắc.
                                                                   Mùa Vu Lan 2556(2012)
                                                        Giác Đạo DƯƠNG KINH THÀNH