Giáo dục trong gia đình chính là bước đầu tiên và rất
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con 
người. Cách giáo dục và nuôi dưỡng sai lạc có thể để hoạ lại cho cả đời 
người, và ngược lại, cách giáo dục và nuôi dưỡng đúng đắn chính là nền 
tảng của hạnh phúc an vui lâu dài.
								
Nhiều bậc cha mẹ        có quan 
niệm sai lầm rằng con cái là sở hữu của họ, và họ là những người        
có toàn quyền quyết định vê số phận con cái mình trong thời gian chúng 
lệ        thuộc vào cha mẹ. Trên một phương diện nào đó quan niệm, lối 
suy nghĩ và        cách cư xử này đúng một phần, con cái là sản phẩm của
cha mẹ. Về mặt vật        chất, con cái thừa hưởng ở cha mẹ gen di 
truyền như là dòng dõi huyết        thống. Cơ thể của con cái là được 
sanh ra từ cha mẹ; chín tháng mười ngày        trong bụng mẹ cũng có 
những ảnh hưởng rất quyết định về mặt thể chất cũng        như tinh thần
của thai nhi. Nếu người mẹ không được ăn uống đầy đủ, khi        đau ốm
bệnh hoạn không được săn sóc thuốc men đúng lúc thì đứa bé sinh ra     
sẽ bị suy dinh dưỡng bẩm sinh và suốt cuộc đời nó sẽ phải chịu đựng 
những        khổ sở do một cơ thể yếu đuối mang lại.
Nếu đời sống tinh        thần của người 
mẹ thường bị khủng bố và bức bách, lo âu phiền muộn thì đứa        trẻ 
sinh ra cũng yếu đuối, kém tự tin hay tinh thần bất định. Suốt quãng    
đời ấu thơ khi đứa trẻ sống gần như hoàn toàn tuỳ thuộc vào cha mẹ 
cũng là        thời kỳ rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển 
thể chất cũng như        nhân cách của đứa trẻ. Nếu hiểu được tầm quan 
trọng này, các bậc làm cha        làm mẹ sẽ phải có trách nhiệm hơn về 
sản phẩm mà họ đã sáng tạo, đó là con        cái họ.
Có những bậc làm        cha làm mẹ vì ít
được học hỏi và thiếu kinh nghiệm nên rất bất cẩn. Họ        thường chỉ
phản ứng theo bản năng, nghĩa là chỉ tuân theo tiếng gọi của tự        
nhiên mà không suy nghĩ hay có sự chuẩn bị nào. Khi đứa trẻ được sinh ra
thì cha mẹ chúng chỉ cố lo cho con đủ ăn, đủ mặc (với ý nghĩ 
rằng như vậy        cũng đã tốt lắm rồi!), gửi chúng đến trường rồi phó 
mặc toàn bộ việc giáo        dục cho nhà trường. Đây là một sai lầm rất 
căn bản vì thời gian ở trường        của bé thường ít hơn thời gian ở 
nhà. Nếu các bậc cha mẹ biết rằng mọi lời        ăn tiếng nói, cử chỉ và
cách cư xử của mình đều để lại những ấn tượng đầu        tiên và sâu 
đậm nhất trong cuộc đời con họ thì có lẽ họ đã không dám bất        cẩn 
đến như vậy.
Đức Phật nói cha        mẹ là những thầy
cô đầu tiên của trẻ. Họ dạy con những tiếng bập bẹ đầu        tiên, 
những bước đi đầu tiên; cũng chính trong giai đoạn này họ cho con       
những ý niệm sơ khởi về những mối quan hệ của trẻ với những thành viên 
khác trong gia đình: ai là cha, ai là mẹ, rồi ông bà, nội, ngoại,
anh chị,        cô dì, thím bác,…Những ý niệm sơ khởi này của bé về các
mối quan hệ của bé        với các thành viên khác trong gia đình đi kèm
với ngôn ngữ và cử chỉ mà bé        nên biểu hiện với từng người; những
gì thì đươc khuyến khích và những gì        thì bị ngăn chặn, đây là 
những ý niệm đầu tiên của trẻ về cách cư xử. Trẻ        cũng được dạy 
rằng ông bà cha mẹ luôn yêu thương và bảo vệ bé, rằng bé        ngoan 
ngoãn và vâng lời.
Nhưng đứa bé cũng        có một thế giới
riêng của nó, những đòi hỏi leo thang mà chúng ta gọi là        thói hư
tật xấu do được cưng chiều quá đáng hay bị bỏ bê quá. Nếu các bậc      
làm cha làm mẹ không hiểu được thế giới riêng của bé, chỉ đòi hỏi bé 
phải        tuân theo những mực thước mà họ đặt ra thì chỉ làm cho bé 
hoặc là mất đi        sự tự tin, trở nên yếu đuối, thụ động và lệ thuộc,
hoặc trẻ sẽ có những        biểu hiện giận dữ chống đối dưới nhiều hình
thức khác nhau. Cả hai hướng        phản ứng này đều có thể dẫn đến sự 
phát triển không lành mạnh cả về thể        chất` lẫn tinh thần của bé. 
Nếu bé mất đi sự tự tin, trở nên thụ động và        lệ thuộc thì kết quả
học tập của bé thường thua kém, sa sút làm bé cảm        thấy không 
hứng thú trong việc học cũng như đến trường. Nếu trẻ giận dữ        
chống đối thì trẻ dễ bỏ học đi hoang và nói dối, hay gây gỗ với bạn bè, 
chống đối với thầy cô giáo hay với người lớn nói chung.
Để tránh những        biểu hiện tiêu cực
này thứ nhất cha mẹ phải quan tâm hơn đến con cái của        họ, phải 
có trách nhiệm với "những sản phẩm" của họ:
- Đừng bao giờ        dạy con chửi thề, 
nói đối hay giễu cợt người khác;
- Đừng bao giờ        chửi thề, nói đối 
hay giễu cợt người khác trước mặt trẻ;
- Đừng bao giờ tỏ        thái độ bất 
kính hay coi thường cha mẹ mình (là ông bà của bé).
Tâm hồn trẻ thơ        như tờ giấy trắng
mà cha mẹ trẻ là những người viết những dòng đầu tiên        lên đó. Đó
là những dòng chữ nắn nót, trân trọng hay những vết bôi bẩn,        
nghệch ngoạc, đầy bất cẩn và lỗi chính tả làm hoen ố tờ giấy trắng là   
trách nhiệm của cha mẹ. Tâm hồn trẻ như một tấm gương trong sạch và
phản        ảnh những hành động, cử chỉ và lời ăn tiếng nói của cha mẹ 
và người lớn        một cách tự nhiên. Nếu cha mẹ chửi thề, nói tục hay 
cãi lộn thì trẻ cũng        học theo và chứng tỏ là mình không thua kém 
gì! Nếu cha mẹ giận dữ bạt tai        hay phạt đòn trẻ vì những hành vi 
sai trái này thì trẻ cũng học cách biểu        hiện sự bất đồng của mình
bằng thái độ giận dữ và bạo lực đối với đồ chơi        của bé, với đồ 
vật, với vật nuôi, hay với các trẻ khác ở trường.
Nếu trẻ được quan        tâm săn sóc, 
được nghe những lời hiền hoà tử tế thì như một tiếng vang,        trẻ 
cũng biểu hiện thái độ quan tâm giúp đỡ và dịu dàng tử tế với những     
người khác hay với đồ chơi của bé. Đôi khi môi trường xung quanh cũng
có        những ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ con. 
Nhiều khi cha mẹ        trẻ không có những hành vi cử chỉ thiếu văn hoá 
và thiếu giáo dục nhưng        những người hàng xóm xấu hay bất cẩn cũng
có thể để lại những ấn tượng xấu        trên trẻ con. Trẻ có thể học 
biểu hiện sự phẫn nộ, chửi tục và nói dối từ        bên ngoài gia đình.
Từ những phân        tích trên, nếu thấy
trẻ có những biểu hiện tiêu cực như hay giận hờn, trả        đũa, nói 
dối, nói tục, cứng đầu, ương nghạnh,.. thì việc đầu tiên các bậc        
cha mẹ nên nghiêm khắc nhìn lại cách cư xử của mình, do sự bất cẩn trong
cách ăn nói, cư xử của họ mà bé học theo hay do ảnh hưởng xấu từ
bên ngoài        tác động lên trẻ?
Có một điều đáng        quan tâm nữa là 
có những bậc cha mẹ lại quá sở hữu và ích kỷ hẹp hòi. Họ        cho rằng
họ là những người có toàn quyền duy nhất đối với con cái họ. Xu        
hướng tâm lý này dẫn đến việc là họ cấm đoán con cái mình không được 
tiếp        xúc với những người xung quanh, bảo con rằng họ là người 
xấu, nói dối, kẻ        trộm, vv. Điều này gieo vào lòng trẻ con sự sợ 
sệt, nghi kỵ không cần        thiết. Những đứa trẻ con của những bậc cha
mẹ như vậy thường cách biệt,        lạnh nhạt hoặc sợ sệt nghi kỵ; ở 
những đứa trẻ này không có sự cởi mở hồn        nhiên như những trẻ con 
khác. Đây cũng là một xu hướng phát triển tâm sinh        lý thiếu lành 
mạnh khác.
Nhiều bậc cha mẹ        mong đợi ở con 
cái quá nhiều. Họ mong con mình phải luôn thông minh, nhanh        nhảu 
và học giỏi; mong con mình phải luôn xuất sắc trong mọi lĩnh vực.       
Điều này thật tham lam! Có một sự thật mà ai cũng biết là không phải 
tất        cả trẻ con được sinh ra đều thông minh, khoẻ mạnh và linh 
lợi. Mặc dù các        bậc cha mẹ có xu hướng lý tưởng thường làm hết 
cách để con họ có những        điều kiện tốt nhất để học tập, vui chơi 
và sinh hoạt nhưng nhiều trẻ em đã        không thoả mãn được những tham
vọng của cha mẹ. Khi trẻ tỏ ra không được        thông minh, linh lợi 
như cha mẹ trẻ hằng mong muốn thì họ tỏ ra rất thất        vọng và tìm 
cách này hay cách khác gây sức ép lên trẻ. Những đứa trẻ tội        
nghiệp này thường cảm thấy thiếu tự tin, không xứng đáng với sự quan tâm
và mong mỏi của cha mẹ các em. Cảm giác bị đè nặng bởi sự mong 
đợi của cha        mẹ làm em thiếu tự nhiên và càng kém tự tin hơn. Có 
những em đã đi đến chỗ        lo lắng thái quá thành ra dao động và mệt 
mỏi thường xuyên, hoặc trở nên        trầm cảm vì cảm giác không xứng 
đáng. Cả hai tình trạng này đều có thể dẫn        đến thân bệnh và tâm 
bệnh nơi trẻ em. Đây là một mặt tiêu cực khác của        việc giáo dưỡng
con cái.
Chúng ta cần phải        biết rằng ở một
mức độ nào đó chúng ta không thể khiến mọi việc phải như ý        mình,
ngay cả với những người thông minh và khôn ngoan nhất đi nữa thì       
cũng có nhiều điều trong cuộc sống xẩy ra bất như ý, ngay cả với con 
cái        của chúng ta cũng vậy. Trong thời đại khoa học và kỹ thuật 
phát triển như        hiện nay nhiều người có thể sinh con như ý muốn 
nhưng điều này không xẩy        ra cho tất cả mọi người. Khi trẻ không 
như ý ta, chúng ta phải nhìn nhận        một sự thật là trẻ có những 
duyên nghiệp và một thế giới riêng với những        điều kiện và hạn chế
của nó. Chúng ta không thể áp đặt mọi quan kiến, giá        trị và 
chuẩn mực của chúng ta cho trẻ, và rồi gò ép các em phải tuân theo      
một khuôn mẫu định sẵn của thế hệ chúng ta. Khi bị gò ép thái quá có 
thể        dẫn đến hai loại phản ứng tiêu cực mà tôi đã nêu ra ở trên. 
Trong cả hai        trường hợp đều dẫn đến sự mất mát nơi trẻ, đó là cơ 
hội được phát triển        một cách tự nhiên lành mạnh, và nó ảnh hưởng 
xấu đến tính sáng tạo, tự tin        nơi trẻ em.
Giáo dục trong        gia đình cần nhất 
là tình thương yêu, sự quan tâm đúng mức, và cả sự hiểu        biết và 
tế nhị nữa. Thứ nhất các bậc cha mẹ phải có tinh thần trách nhiệm       
với những ‘sản phẩm của họ’; thứ hai là tình thương yêu quan tâm và sự 
uốn        nắn đúng mức và kịp thời. Trong Phật Giáo những phẩm chất này
được gọi là       Từ và  Nghiêm.  Từ 
là tình thương        yêu vô bờ, vô điều kiện và vô giới hạn, luôn mong 
mỏi cho con trẻ được an        toàn, hạnh phúc. Từ thường được nhận thấy
trong tình mẹ, một sự gần gũi        yêu thương và săn sóc vô điều 
kiện. Có những người mẹ sẵn sang hy sinh cả        mạng sống của mình 
cho con, suốt đời tận tuỵ nuôi con. Nghiêm là phẩm chất        thường 
được nhận thấy nơi người cha, thương nhưng không thái quá, không        
nuông chiều những đòi hỏi thiếu lành mạnh của trẻ. Từ là tình cảm, 
nghiêm        là lý trí biết đâu là giới hạn, những gì cần và không cần,
nên và không        nên. Chỉ có từ mà không nghiêm thì dễ làm cho trẻ 
hư, vòi vĩnh cả những        điều không lành mạnh; trong một số trường 
hợp cũng có thể làm cho trẻ trở        nên yếu đuối, thiếu ý chí tự lập 
và chỉ muốn dựa dẫm vào người khác.        Nghiêm mà không từ thì xa 
cách khó gần, nhiều khi dẫn đến tình trạng khô        khan, không dám 
biểu hiện tình cảm và sự quan tâm nơi trẻ. Có những người        có tình
cảm rất mãnh liệt nhưng không thể biểu hiện ra ngoài được và rất       
khổ sở phải nhờ đến sự giúp đỡ của tâm lý học trị liệu. Những người này
thường có một tuổi thơ ít được quan tâm âu yếm, và chịu ảnh 
hưởng của tâm        lý rằng bày tỏ và thể hiện tình cảm là sự yếu đuối 
hay khuyến khích sự yếu        đuối. Kết quả là những đứa trẻ lớn lên 
theo cách giáo dục này, hay bị ảnh        hưởng của những quan niệm rằng
tình cảm là yếu đuối, không xứng đáng, tội        lỗi, vv thì thường có
vẻ lãnh cảm; mực thước qui củ nhưng khô khan cằn        cỗi. không phải
những người đó không có tình cảm, nhưng tình cảm của họ        thường 
bị dồn nén, hay bị bóp méo thành khắc kỷ; một số người rất muốn        
được bộc lộ tình cảm nhưng lại cảm thấy mất tự nhiên, cực kỳ bối rối và 
vụng về khi phải thể hiện tình cảm.
Do đó, bên cạnh        việc giáo dục tri
thức, khoa học và kỹ thuật, thì sự giáo dục nhân cách và        giáo 
dục tình cảm cũng là những mặt rất quan trọng. Để có được một đời       
sống hạnh phúc và lành mạnh con người cần tất cả những yếu tố: kiến 
thức,        kỹ năng, nhân cách tốt đẹp và tình cảm thăng bằng. Trong 
bốn câu đầu tiên        của bài Kinh Tâm Từ có liệt kê những phẩm chất 
cần thiết để người ta có        thể sống an lạc, đó là: (1) có khả năng 
(thuộc về kiến thức và kỹ năng),        (2) ngay thẳng và chân thật 
(thuộc về nhân cách), (3) nói lời hoà ái, (4)        mềm mỏng và không 
kiêu mạn (Metta sutta, KN) (3 và 4 thuộc về về đạo đức        cư xử). 
Ngoài ra có sự hiểu biết đúng đắn về nhân duyên và vô ngã cũng là       
một điều kiện thiết yếu trong việc giáo dục nhân cách và tình cảm.
Như trên chúng ta        đã phân tích, 
sự ảnh hưởng qua lại giữa cha mẹ và con cái là một sự ảnh        hưởng 
vừa có tính nhân quả, vừa có tính hỗ tương. Chúng ta phải thấy được     
mối quan hệ nhân quả và hỗ tương này không chỉ trong gia đình, mà cả 
trong        xã hội và trong tự nhiên cũng vậy. Chính mối quan hệ tương 
quan và duyên        sinh này nói lên tính vô ngã của vạn vật và mọi tồn
tại. chỉ khi thấy được        tính vô ngã này thì chúng ta mới thôi 
phản ứng một cách chủ quan và cảm        tính theo ý chí của một bản ngã
vị kỷ. Nhân cách và cá tính của một con        người là một tiến trình 
hình thành, phát triển và đổi thay tuỳ theo điều        kiện sống. Chẳng
có một cái ta tự sinh một cách độc lập, cứng ngắc và        trường cửu 
nào cả; không có một cái ta tự hình thành và không chịu sự chi        
phối, tương tác với môi trường xung quanh, nhất là gia đình và xã hội.  
Hiểu như vậy chúng ta sẽ thấy thủ chấp vào một cái ‘tôi’ tưởng 
tượng và        những cái ‘của tôi’ vốn chưa bao giờ có là một sự điên 
rồ ngốc nghếch.        Chúng ta là sản phẩm của những tiến trình và chịu
sự chi phối của những        tiến trình đó, đồng thời phản ứng và cách 
cư xử của chúng ta cũng có ảnh        hưởng lên tiến trình của đời sống.
Con cái của chúng        ta cũng như 
vậy, chúng không phải là ‘của ta’ và phải theo ý ta hay thoả        mãn 
những mong ước của chúng ta. Thấy như vậy chúng ta sẽ cho con những gì  
tốt đẹp nhất nhưng không thủ chấp, bám níu và đòi hỏi chúng phải 
như ý        mình, không được như vậy thì sanh ra buồn khổ, thất vọng. 
Chính những đòi        hỏi mong đợi thiếu thực tế của chúng ta làm chúng
ta đau khổ. Đức Phật nói        tham ái là nguyên nhân của mọi khổ đau.
Chính những ngã chấp, ngã ái và        ngã mạn của chúng ta làm chúng 
ta khổ sở, lo sợ, và tranh đấu để giữ thể        diện cho một cái tôi 
không thật có hay cố công nhọc lòng giữ quyền kiểm        soát sở hữu 
trên những cái ‘của tôi’ vốn không tồn tại. Ý chỉ này được Đức        
Phật thể hiện trong một câu kệ súc tích được gọi là Pháp Cú như sau:
 "Con tôi, tài sản        của tôi!
Sanh ra ưu não cho người cuồng si.
 Ngay "ta" chẳng phải ta là,
 
Sản nghiệp, con cái chỉ là nợ duyên."
 (Pháp cú 62)
Công năng của        giáo dục vô ngã là 
để giảm thiểu thủ chấp, ngã mạn, ích kỷ và sở hữu; vô        ngã không 
có nghĩa là vô trách nhiệm và buông xuôi cho hoàn cảnh đẩy đưa.        
Đạo giác ngộ dạy chúng ta không nên tin tưởng và thực hành mù quáng theo
tín ngưỡng giáo điều. Chúng ta cần phải đặt câu hỏi ngay cả với 
đức tin,        tập tục, cảm tình, quan điểm dễ chấp nhận, và ngay cả 
với những luận cứ có        vẻ logic (Canki sutta, MN.). Nhưng sự tìm 
tòi thực nghiệm và tính sáng tạo        không có nghĩa là tính bồng bột 
nổi loạn, phủ nhận, đả phá và tung hê mọi        giá trị truyền thống có
tính nhân bản. Do đó giáo dục nhân cách và giáo        dục tình cảm 
phải làm cho con em thấy rõ trách nhiệm và bổn phận của mình        
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Nếu không ý thức được điều này 
những        đứa trẻ lớn lên rất dễ trở thành nạn nhân của văn hoá 
"hippie" và mất định        hướng trong cuộc sống.
Hơn hai ngàn năm        trăm năm trước 
Đức Phật dạy về năm bổn phận căn bản của cha mẹ đối với con        cái 
như sau:
- Ngăn ngừa con        khỏi những điều 
bất thiện;
 - Khuyến khích, động viên con làm những điều lành;
 - 
Cho con học nghề nghiệp;
 - Hướng con đến một cuộc hôn nhân thích 
hợp;
 - Trao truyền sản nghiệp (vật chất và những giá trị văn hoá 
truyền thống)        cho con một cách đúng lúc (Sigāla sutta DN).
Những lời dạy này        vẫn có giá trị 
thiết thực ngay trong thời đại của chúng ta. Nếu tất cả các        bậc 
cha mẹ ghi nhớ và thực hành những lời dạy này chắc chẳn rằng gia đình   
sẽ bớt xung đột, xã hội sẽ bớt được rất nhiều tệ nạn, và cuộc sống 
nói        chung sẽ bớt được nhiều rủi ro và khổ đau không cần thiết.
Con cái cần phải        biết ơn cha mẹ, 
tự có trách nhiệm với chính mình và với cha mẹ dưới năm        điểm căn 
bản (suy nghĩ như sau):
- Cha mẹ đã nuôi        dưỡng ta, ta 
phải nâng đỡ cha mẹ;
 - Ta phải thay cha mẹ chu toàn bổn phận;
 - 
Ta phải giữ truyền thống gia đình;
 - Ta phải xứng đáng là người thừa
kế;
 - Ta phải làm phước để hồi hướng công đức đến cha mẹ.
Trong bài Kinh        Hạnh Phúc, việc 
thực hành bổn phận của một người con (trai) chân chính        được nói 
đến như là phúc lạc. "Hỗ trợ cha mẹ (trong tuổi già hay khi đau        
ốm); là trụ cột của vợ và con; hành nghề nghiệp lương thiện; đó là hạnh 
phúc cao thượng" (Mangala sutta, KN.).
Tóm lại giaó dục        trong gia đình 
chính là bước đầu tiên và rất quan trọng trong việc hình        thành và
phát triển nhân cách của mỗi con người. Cách giáo dục và nuôi        
dưỡng sai lạc có thể để hoạ lại cho cả đời người, và ngược lại, cách 
giáo        dục và nuôi dưỡng đúng đắn chính là nền tảng của hạnh phúc 
an vui lâu dài.        Con người làm nên gia đình và xã hội, do đó con 
người có hạnh phúc thì gia        đình mới hạnh phúc yên vui, xã hội mới
hoà bình thịnh vượng.
 Pháp Hỷ -        
Dhammanandā
 Colombo,       Sri Lanka
 26-06-2005