Thật ra, 
trong lịch sử chúng ta đều biết cấu trúc gia đình có những quy mô lớn 
hơn: bầy đàn, thị tộc, bộ lạc, tông tộc, cộng đồng làng xóm… Ở đó nhiều 
thế hệ sống và lao động liên kết nhau, ở đó nhiều tấm gương của tổ tiên 
tiếp tục soi sáng cho bao đời sau, ở đó bảo lưu lâu dài các phong tục, ở
đó những việc thờ cúng mang tính chất tín ngưỡng hay tôn giáo đã bắt rễ
và ăn sâu… Và ở đó, một thiết chế có luật lệ, tôn ti được xác lập, có 
thể làm ngột ngạt cho một số người, nhưng lại mang đến sự ổn định và an 
toàn cho tất cả. Hiếu kính với cha mẹ, nói rộng là hiếu đễ (hiếu kính 
với cha mẹ, kính thuận với anh em) ra đời từ nhu cầu quy phạm hóa, thể 
chế hóa mối quan hệ của thành viên gia đình. Các bộ luật cổ của xứ ta 
đều xác định tội bất hiếu, bất mục là trọng tội, thuộc “thập ác” (mười 
trọng tội hàng đầu). Nói cách khác, hiếu là một chuẩn mực đạo đức đã 
được thể chế hóa, được xác định là nghĩa vụ, là trách nhiệm mà mỗi người
phải tuân thủ và đã trở thành giá trị, quan niệm phổ biến.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong 
nguồn chảy ra.
Theo đó, làm con phải có 
trách nhiệm đền đáp công sinh thành dưỡng dục. Một cách cụ thể, công lao
khó nhọc của cha mẹ đối với con cái được xác định vào 9 việc - gọi là 
“chín chữ cù lao”: 1. sinh (đẻ); 2. cúc 
(nâng đỡ); 3. phủ (vuốt ve/âu yếm); 4. xúc 
(cho bú); 5. trưởng (nuôi nấng cho lớn mạnh); 6. dục
(dạy dỗ); 7. cố (đoái tưởng đến); 8. phục 
(săn sóc); 9. phúc (bảo vệ).
Đã đành lý lẽ là như vậy, 
nhưng điều cần lưu ý là đạo hiếu vốn là tình cảm tự nhiên. Cũng có ý 
kiến rằng tình mẫu tử, phụ tử tương tác là một nhiên tính bản thể (như 
gà mẹ chiu chắt đàn con, hổ dữ không ăn thịt con, v.v…)
- Chiều chiều chim vịt kêu
chiều, 
Bâng khuâng nhớ mẹ chín 
chiều ruột đau.
- Ngó lên Hòn Kẽm, Đá 
Dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá 
chừng bậu ơi!
(Thương cha nhớ mẹ thì về,
Nhược bằng thương cảnh, 
nhớ quê thì đừng).
Lưu ý đến căn nguyên tình 
cảm tự nhiên của đạo hiếu ở đây là muốn nhấn mạnh đến mối ràng buộc 
thiêng liêng của con cái đối với cha mẹ. Nói cách khác, hiếu thảo là một
mặt và cái cách thể hiện đạo lý đó là mặt thiết yếu khác. Trả hiếu cho 
cha mẹ không chỉ thuần là nghĩa vụ phụng dưỡng hoặc tân tiến hơn là cung
cấp đủ các khoản chi phí cho nhà dưỡng lão, để ở đó người ta lo cho cha
mẹ mình.
- Mẹ già như chuối ba 
hương,
Như xôi nếp một, như đường
mía lau.
- Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng mới 
đành dạ con.
- Đêm đêm thắp ngọn đèn 
trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời 
với con.
Chúng ta có thể dẫn ra 
nhiều câu ca dao liên quan đến vấn đề hiếu đạo và tuồng như hầu hết đều 
hàm chứa cái tình nhiều hơn cái nghĩa. Đó là điều lý giải tại sao một 
tiếng chim kêu chiều, một bóng núi mờ xa… đã làm chúng ta bâng khuâng, 
da diết nhớ đến song thân ở quê nhà… Hơn cả một nghĩa vụ, hiếu có nguồn 
cội sâu xa trong tâm khảm mỗi chúng ta chứ không chỉ ở lý trí.
2. Một hôm, Tử Du hỏi về hiếu,
Khổng Tử nói: “Kim chi hiếu giả, thị vi năng dưỡng. Chí ư khuyển mã,
giai năng dưỡng. Bất kính hà dĩ biệt hồ?” (Hiếu ngày nay là bảo có 
thể nuôi cha mẹ; đến như giống chó, giống ngựa đều có người nuôi. Nuôi 
mà không kính lấy gì phân biệt?). Hiển nhiên, người có hiếu trước hết 
phải nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, nếu không kính thì không là hiếu. 
Như vậy, việc phụng dưỡng cha mẹ cốt tủy là ở sự thành kính, dầu phải ăn
gạo xấu, uống nước lã mà làm cho cha mẹ được trọn vui, ấy gọi là hiếu (“Xuyết
thúc ẩm thùy, tận kỳ hoan, tư chi vị hiếu”/ Lễ ký. Đàn cung hạ).
Hiếu là phạm trù luân lý 
cơ bản của Nho gia: là gốc của nhân luân, là nguồn của đạo đức. Hiếu 
kinh viết: “Xét ra hiếu là gốc của đức, là nguồn sinh ra giáo 
hóa” (Phù hiếu đức chi bản dã, giáo hóa chi sở do sinh dã). Về nội 
dung của hiếu, Nho gia cho rằng: Hiếu bao gồm từ việc có kế thừa được di
chí và sự nghiệp của tổ tiên hay không, tình cảm hiếu kính đối với cha 
mẹ có xuất phát từ nội tâm hay không và sự phụng dưỡng, ma chay, tế tự 
có giữ nghiêm lễ chế hay không v.v… Hiếu kinh tổng kết về hiếu cụ
thể như sau: 1. Da, tóc, thân thể nhận từ cha mẹ nên chẳng được làm cho
thương tổn hay hủy hoại; 2. Lập thân hành đạo với đời để cho cha mẹ 
được hiển vinh là sự thể hiện trọn vẹn đạo hiếu. Hiếu bắt đầu từ thờ cha
mẹ, kế đó là thờ vua và cuối cùng là lập thân. Nói chung, hiếu của Nho 
gia có những nhân tố hợp lý như tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ, nhưng cũng
có điều phi lý hoặc lỗi thời như chuyện để râu, tóc, móng tay chẳng cắt
gọt; hoặc như coi việc không có con trai nối đời là bất hiếu (Bất 
hiếu hữu tam, vô hậu vi đại), hay việc cha mẹ còn không được đi xa… 
Cái mục đích của hiếu là nhắm đến việc giáo hóa đạo nhân và việc thực 
hành đạo hiếu là đặt cơ sở trên lý trung dung. Tuy nhiên, trong lịch sử,
có những cố chấp vào hình thức, bày ra nhiều cách phiền toái làm mất đi
yêu cầu chủ đạo là cung kính và thành thực; lại không quán triệt tinh 
thần trung dung của chính Nho giáo nên câu chấp điều vụn vặt không hợp 
thời, hợp cảnh.
3. Ở xứ ta, nói đến hiếu đạo 
thường nhắc đến 24 gương hiếu tử trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm 
do Lý Văn Phức (1785-1849), dịch từ sách Nhị thập tứ hiếu của 
Trung Quốc. Lý Văn Phức làm quan trải các triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, 
từng đi công cán nhiều nước Viễn Đông. Ông dịch Nhị thập tứ hiếu 
với ý thức “Muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm”. Tác phẩm này 
có ảnh hưởng lớn qua con đường văn chương lẫn truyền khẩu, theo đó 24 
hiếu tử trở thành mẫu mực trong cuộc sống thế kỷ XIX. Ở đó, chúng ta 
biết đến Ngu Thuấn nhẫn nhục, Văn Đế hầu mẹ ốm ba năm không ngủ, Mẫn Tử 
Khiên cam phận đầy thánh thiện, Diễm Tử vào rừng tìm sữa hươu, Mạnh Tông
mặc giá rét vào núi tìm măng, Ngô Mãnh ngủ trần cho muỗi đốt, Đinh Lan 
tạc tượng cha mẹ để hầu hạ cơm nước suốt mấy chục năm liền, Quách Cự 
giết con để mong trọn chữ hiếu với mẹ… Nói chung, các tấm gương “anh 
hùng đạo lý” trong Nhị thập tứ hiếu không hiếm trường hợp cao cả 
và cũng không ít trường hợp thái quá.
Không phải bây giờ chúng 
ta mới xét lại mà đương thời với Lý Văn Phức, Trương Hảo Hiệp trên đường
đi sứ Trung Quốc qua nơi Quách Cự chôn con đã đề thơ chê trách:
Cận
thính từ đường ái thử nhi,
Quách quân hà sự nhẫn mai 
thì?
Nhược giao (giáo) lão mẫu 
văn tiêu tức,
Khấp tử tuyền đường vị khả
tri!
Cao Tự Thanh dịch:
Nghe nói bà cưng đứa cháu 
này,
Tại sao chàng Cự lại chôn 
đi?
Mẹ già như rủi mà nghe 
được,
Khóc chết tuyền đài cũng 
có khi.
(Đề Quách Cự mai nhi xứ/
trong Mộng Mai đình thi thảo)
Rõ ràng hiếu của Nho gia 
mà được hiểu và làm như Quách Cự là bất nhân. Hiếu là nền tảng giáo hóa 
để đạt đến nhân, chứ không câu chấp điều vụn vặt thái quá như vậy. Trần 
Trọng Kim trong sách Nho giáo nhận xét: “Cũng vì nhiều người không 
hiểu cái thâm ý chữ hiếu là cái mối đầu sự tác dụng của đạo nhân cho nên
cứ câu nệ vào cái hình thức bề ngoài bày ra những phiền toái, làm mất 
cả cái tinh thần giản dị, thành thực (Bản in của NXB Tân Việt, trang
145). Lời nhận xét về đám hủ nho ngày xưa đáng coi là lời phê bình 
những “hủ nho ngày nay” sính việc tang lễ rình rang, giỗ chạp linh đình 
để biểu diễn cái lòng hiếu thảo rỗng tuếch. Người hiếu thảo khác với kẻ 
làm ra vẻ hiếu thảo.
4. Đọc trong truyện thơ Dương
Từ - Hà Mậu của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, sáng tác hồi 
cuối thế kỷ XIX, chúng ta thấy tác giả đứng trên lập trường Nho giáo chỉ
trích khá gay gắt đạo Phật là đạo xúi bẩy người ta bỏ vợ con, gia đình,
“trốn tránh xâu thuế vào chùa tu” và đặc biệt là tội bất hiếu của Tăng 
sĩ Phật giáo:
Tóc, râu là dạng nam nhi,
Của cha mẹ đúc can gì cạo 
đi?
Tổ tiên chút đã đền chi,
Vùa hương, bát nước mấy 
khi phụng
thờ.
Và:
Làm người sao chẳng theo 
loài,
Thảo cha, ngay chúa đoái 
hoài chi
đâu?
Đành lòng cạo hết tóc râu,
Đã âu bất hiếu, lại âu 
phản thần.
Những lý lẽ mà Nguyễn Đình
Chiểu nêu ra trên đây thực ra cũng… phổ biến và trong lịch sử, ở chừng 
mực nào đó rất gần với lý lẽ của sáu phái ngoại đạo chê trách Phật Thích
Ca khi ông bỏ cung điện đi tu. Họ chê rằng Thích Ca là người phước bạc 
(mẹ sinh ra ông 7 ngày đã chết), bạc nghĩa (bỏ vợ con), bất hiếu (bỏ vua
cha đã già)… Điều này ghi rõ trong kinh Đại Phương Tiện Báo Ân. 
Tất cả những lý lẽ này hoàn toàn không thể tất đối với đạo Phật, có thể 
nói chưa lĩnh hội hết tinh thần hiếu đạo cao cả và rộng lớn của Phật 
giáo. Giáo lý nhà Phật coi công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là 
một trong Tứ trọng ân mà mỗi người phải lo báo đáp: ân cha mẹ; ân đồng 
bào, đồng loại; ân quốc vương; ân Tam bảo. Ở Nam Bộ từ giữa thế kỷ XIX, 
Tứ ân đã được coi là giáo pháp chính yếu của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và kế 
đó là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, coi trọng cả Tứ ân và đặc biệt nhấn mạnh đến
giá trị Hiếu và Nghĩa. Điều này đã chỉ ra ảnh hưởng, tác động to lớn 
của quan điểm Tứ ân Phật giáo với cộng đồng cư dân Nam Bộ.
Đối với đạo Phật, đạo Hiếu
được đề cập trong nhiều kinh điển: kinh Báo Ân, kinh Hiếu Tử,
kinh Vu Lan Bồn, kinh Tâm Địa Quán, kinh Bổn Sự…
…
Đạo Nho chủ vào tính chất 
nội tại hơn là tính siêu việt; do đó, đạo hiếu Nho gia không chịu có một
bước nhảy siêu hình mà quay về với người sinh tạo ra họ và hiếu được xã
hội hóa là trung với vua. Hiếu đạo của Phật giáo bao gồm cả hiếu đạo 
thế gian và hiếu đạo xuất thế gian (tức vừa có những nội dung thực tiễn 
lại vừa có những nội dung siêu việt). Trong kinh Hiếu Tử, Đức 
Phật đã nói với các Sa môn rằng: “Con nuôi cha mẹ bằng cách đem những
thức cam lộ trăm mùi ngon ngọt dâng lên cha mẹ làm cho cha mẹ thỏa 
miệng, đem các thứ nhạc hay như nhạc ở cõi trời làm cho cha mẹ vui tai, 
may các quần áo đẹp cho cha mẹ rực rỡ và suốt đời cõng cha mẹ đi dạo 
chơi khắp bốn bể để trả ơn sinh dưỡng thì vẫn chưa đủ hiếu. Người con 
thực hiếu, thấy cha mẹ mê tối, làm những việc ác phải can ngăn, kiên trì
làm cho cha mẹ giác ngộ Chánh pháp”. Khác Nho giáo, hiếu đạo Phật 
giáo gồm cả lý lẫn sự. Sự là việc phụng dưỡng, kính ái cha mẹ; lý là làm
sao cho cha mẹ thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo, đạt được cứu cánh giải 
thoát của tôn giáo này. Nói cách khác, sống thiện là hiếu hạnh, là phát 
tâm báo ân; và ác là làm ác, không tu dưỡng là bất hiếu. Theo đó, đây 
cũng là ý nghĩa của lời nói của Phật Di Lặc: “Trong nhà có hai Đức 
Phật mà con người không hiểu: cha mẹ hiện tại là Phật Thích Ca và Phật 
Di Lặc vậy”.
5. Những gì trình bày trên 
đây cho chúng ta thấy rằng hiếu thảo là một đạo lý phổ quát trong các 
nền văn hóa và không một tôn giáo nào không lưu tâm thích đáng đến nó. 
Dù có thể có những cách nhìn và những quy phạm khác nhau, tất cả các 
giáo lý đều coi hiếu là một giá trị quan trọng của cuộc sống làm người, 
nền tảng của đạo lý và hạnh phúc. Do vậy, dù thời cuộc đổi dời đến đâu, 
hiếu đạo vẫn là điều luôn được coi trọng và đặc biệt là cơ sở chế định 
các mối quan hệ gia đình. Thay lời kết, tôi xin kể một câu chuyện:
“Một họa sĩ suốt đời 
ước mơ vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để 
biết điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: “Tôi nghĩ điều đẹp 
nhất trần gian là niềm tin vì niềm tin nâng cao giá trị con người”.
“Họa sĩ cũng đặt câu 
hỏi tương tự với một cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều 
đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, 
mang đến nụ cười cho kẻ đang khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao 
trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao khi không có tình yêu”.
“Cuối cùng, họa sĩ gặp 
một người lính vừa trở về từ chiến trường. Được hỏi, người lính trả lời:
“Hòa bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình là ở đó 
có cái đẹp”. Và họa sĩ tự hỏi mình: “Làm sao mình có thể vẽ cùng 
một lúc cả niềm tin, hòa bình và tình yêu…?”.
“Khi trở về nhà, ông 
nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong nụ hôn của người 
vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và sự
bình an. Họa sĩ đã biết như thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Ông cặm
cụi vẽ và khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là “Gia 
đình”.
“Thật vậy, gia đình là 
nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức 
mạnh của người cha. Nơi đó chan hòa hơi ấm của những con tim biết yêu 
thương, là ánh sáng của những đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, 
là lòng chung thủy.
“Gia đình là ngôi thánh
đường đầu tiên học những điều hay lẽ phải, niềm tin và lý tưởng sống”.
Đó là nơi chúng ta tìm về 
để được an ủi, nâng đỡ.
Đó là nơi những món ăn đơn
sơ cũng thành mỹ vị,
Đó là nơi tiền bạc không 
quý bằng tình yêu,
Đó là nơi ngay cả nước sôi
cũng reo lên niềm vui, hạnh phúc”.
Chúng ta có thể kể ra 
nhiều hơn nữa những điều tốt đẹp cho cuộc sống mà gia đình mang lại. 
Song trong thực tế, những mối dây liên hệ truyền thống đó có khuynh 
hướng lỏng lẻo dần và các nơi chốn ấy ngày càng bị xã hội hiện đại xô 
đẩy đến chỗ tan rã. Xã hội hiện đại với tiến trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa đã làm tiêu hao các hệ thống họ hàng mở rộng và đưa tới sự thay
đổi trong bản chất bổn phận gia đình, người ta ngày càng ít dành thời 
gian cho bất cứ cái gì giống như gia đình và đã có nhiều dấu hiệu của sự
căng thẳng và xung đột hơn trước đây… Gia đình hiện nay đang ngả qua xu
hướng coi đó là một lĩnh vực trong đó người ta tìm được sự mãn nguyện 
cá nhân. Một khi gia đình thất bại trong việc cung cấp tình trạng tốt 
đẹp về mặt tình cảm và tâm lý cho các thành viên của nó thì tính hợp lý 
cho sự tồn tại của nó sẽ mất đi. Mâu thuẫn chính trong gia đình hiện đại
là xung đột: một bên, là gia đình, với bất cứ kiểu nào, cũng yêu cầu hy
sinh một số tự do và ngược lại, bên kia, xã hội hiện đại với sự cá nhân
hóa, lại kỳ vọng mọi người là những vai trò tự lập hơn trong các quan 
hệ kinh tế, gia đình, giải trí, thân mật riêng tư. Nói chung, khuynh 
hướng thu hẹp gia đình lại đang bộc phát, song sức sống dồi dào của nhu 
cầu cộng đồng vẫn đang cưỡng lại. Do đó, niềm hy vọng của chúng ta là 
với năng lực sáng tạo không lường trước được, trong bước đường dấn vào 
quá trình ứng đối đau đớn, sẽ tìm ra được phương thức hợp quần mới, dung
hòa được mối liên kết gia đình với tự do cá nhân.
Theo: www.chuyenphapluan.com