Kiếp
luân hồi là ngôi nhà chung của nhân loại, thoạt nghĩ kiếp luân hồi là
chuyện cao siêu trong Phật Pháp, tuy nhiên đây được coi là vòng xoay
trong muôn loài dù được thừa nhận hay không, thuyết luân hồi là sự hiển
nhiên có thực trong cuộc sống.
>>> Chuyện cậu bé “tái sinh”
Ở kỳ trước
tôi có nêu lên vấn đề kiếp luân hồi lại dễ nhận thấy ở người chết trẻ,
tại sao họ lại có trí nhớ về quá khứ không ăn nhập gì với cuộc sống
thực tại. Dưới góc nhìn của nhà tu hành, theo Đại đức Thích Thanh Huân,
trụ trì chùa Pháp Vân, Hoàng Mai, Hà Nội diễn giải: Kiếp luân hồi là
ngôi nhà chung của nhân loại, thoạt nghĩ kiếp luân hồi là chuyện cao
siêu trong Phật Pháp, tuy nhiên đây được coi là vòng xoay trong muôn
loài dù được thừa nhận hay không, thuyết luân hồi là sự hiển nhiên có
thực trong cuộc sống.
Trước hết, ở góc độ khoa học hiện đại đã
có nhiều công trình nghiên cứu đối với người trẻ nhất là trẻ con, họ
cho rằng bộ óc của chúng có khả năng phát triển về trí nhớ mạnh, khả
năng nhớ lại tiền kiếp là rất lớn. Trong vòng vài thập kỷ qua, vấn đề
con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như vấn đề có cơ
sở khoa học chứ không đơn thuần là chuyện mê tín huyễn hoặc nữa. Tuy
nhiên, có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ xa xưa chưa
có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và phổ biến
rộng rãi.
Nhà khoa học Stevenson thuộc Đại học
Virginia (Hoa Kỳ) đã bỏ ra một thời gian dài nghiên cứu về các trường
hợp luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ con trẻ, mà theo ghi nhận qua
hơn 2.500 trường hợp nhớ lại những gì của thời quá vãng, cái thời mà
với lứa tuổi của chúng (có trẻ chỉ 4-5 tuổi) – tương tự như cháu Tiến ở
Hòa Bình, người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa,
có nghĩa rằng phải dùng tới chữ kiếp trước của chúng. Hơn nữa, những gì
mà các em bé này nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với
hoàn cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Chúng thường mở
đầu bằng hai chữ “lúc đó”, “hồi đó” bằng tính cách không đứng đắn với
sự mô tả hoặc có sự liên hệ, chỉ bảo của người lớn, những lời nói mà
trí óc chúng không thể có sẵn và tưởng tượng được. Như lời cậu bé Tiến 3
tuổi đã biết đòi về nhà “nếu không sẽ chết thêm lần nữa”. Khoa học
hiện đại cũng ghi nhận về dấu vết bẩm sinh trên cơ thể các cháu bé
(birthmarks) hoặc ngay cả những trường hợp quái thai (birth defets).
Khi những cháu bé này nhớ lại tiền kiếp của chúng thì thường có sự liên
hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh hay dị tật mà chúng đã
mang trên cơ thể.
Đại đức Thích Thanh Huân, trụ trì chùa Pháp Vân
“Dấu vết” để lại trong vòng xoay kiếp luân hồi
Trước đây, vấn đề luân hồi, tái sinh,
tiền kiếp, hậu kiếp chỉ được xem như là vấn đề của một số thuyết tôn
giáo. Ngày nay, chính các nhà khoa học đã bắt đầu thực sự tiến bước vào
sâu trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề này. Từ thập niên 60 đến nay,
nhiều nhà khoa học trên thế giới và đặc biệt ở Á Đông trong đó có nước
ta – nơi mà Phật giáo ra đời, phát triển – đã dấn thân vào việc tìm
hiểu vấn đề luân hồi đã dài thêm ra. Kết luận trung thực cho vấn đề đầy
tính thâm sâu huyền bí vẫn còn chờ ở phía trước.
Qua hàng ngàn câu chuyện đã được ghi nhận
xảy ra trên khắp thế giới với chứng cứ và tư liệu rõ ràng chứng minh
vấn đề luân hồi đã được thu thập. Nhưng các nhà nghiên cứu, nhất là các
nhà khoa học còn muốn thêm càng nhiều càng tốt những hiện tượng đã xảy
ra có liên hệ đến những gì mà gọi là “những tài liệu chứng minh”.
Những hiện tượng có thể xem là những dấu tích của luân hồi theo các nhà
khoa học, nếu luân hồi là có thật thì ít ra trên chặng đường chuyển
hóa từ kiếp này sang kiếp khác phải có dấu vết rơi rớt lại không nhiều
thì ít, cũng giống như trong lịch trình tiến hóa của sinh vật nói chung
và con người nói riêng. Bằng chứng đã có rất nhiều dấu tích còn lại
trên cơ thể sinh vật và sự kiện ấy đã giúp các nhà sinh vật học, nhất
là cổ sinh vật học biết được những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm mà
thời gian diễn ra đến hàng triệu năm.
Trong dân gian vẫn thường truyền tai nhau
về chuyện dấu tích được xem như có liên quan đến đầu thai đó là vết
chàm, vết bớt in hằn trên da đứa trẻ. Lũ trẻ thường trêu nhau là: “cái
đồ vá chó” hay đồ “con lộn” chính từ lý do đó. Những dấu vết ấy được
khẳng định trong y học hình thành từ trong bụng mẹ, với hình dạng, màu
sắc khác nhau. Theo một số nhà y học giải thích, do những tác động bên
ngoài lên cơ thể người mẹ hay tự bản thân cơ thể người mẹ đã ảnh hưởng
lên thai nhi trước khi hài nhi chào đời. Mặc dù vậy, giải thích này cho
đến nay cái dấu tích ấy chẳng ảnh hưởng gì đến đứa bé và người ta có
thể tẩy xóa hoặc cắt đi một cách đơn giản. Sự giải thích vẫn nằm trong
vòng luẩn quẩn như: vết bẩm sinh từ tác động lúc người mẹ mang thai do
uống thuốc, xáo trộn chuyển biến cơ thể, do bệnh lý, hiện tượng di
truyền v.v… Tuy nhiên, vẫn chưa có giải thích nào thuyết phục. Quan
niệm được xem phổ biến nhất trong dân gian cho rằng đó là “đầu thai”.
Bởi vậy, có nhiều gia đình gặp chuyện không may tâm niệm quệt vết mực
lên người đứa trẻ để lại một dấu tích hy vọng sau này nhận biết được
nó. Xin trở lại trường hợp cậu bé Quyết Tiến, ngày Tiến mất, anh Tân
cũng từng có suy nghĩ quệt lên chân nó vết mực như quan niệm dân gian
nhưng anh nghĩ có rất nhiều trường hợp trùng hợp và nhận biết thông qua
vết tích. Lúc đó anh muốn con được siêu thoát, chẳng tin vào mấy
chuyện “đầu thai”. Cuối cùng thì cậu bé “vẫn về” ở một lý do khác được
nhận biết rõ ràng hơn.
Supatra Sasuphan - người Thái Lan - hay còn gọi là "Bé sói", "mặt khỉ", 11 tuổi, cho biết,
em rất vui khi được phong là cô bé nhiều lông nhất thế giới vì nó khiến em nổi tiếng hơn ở trường.
Cha, mẹ và chị ruột "Bé sói"
Luận bàn Nghiệp và Nhân – Quả trong kiếp luân hồi
Một sinh vật sống bao gồm thể xác và linh
hồn, luân hồi là vòng sinh – tử sau khi mất đi sẽ chuyển từ dạng thức
này sang dạng thức khác chứ không phải mất hết. Thể xác có thể “trở lại
với cát bụi” nhưng tinh thần (linh hồn) trong Đạo Phật gọi là Nghiệp
(thói quen, việc làm tốt hay xấu khi sống). Linh hồn vẫn có thể diễn ra
và tồn tại ở một thể xác khác mà người ta quen gọi là chuyện “kiếp
trước” hay “kiếp sau”. Con người từ đâu sinh ra? Chết rồi đi về đâu?
Tại sao giữa đời lại có những kẻ giàu, nghèo, sang, hèn, đẹp, xấu, trí,
ngu sai biệt? Tại sao có người hiền lành mà thường gặp việc khổ sở
không may, kẻ hung ác lại được an vui phát đạt? Đây là mối nghi nan thắc
mắc chung của đa số người. Và theo như tôn giáo nhà Phật, tất cả sự
việc này bao gồm trong vấn đề “Luân hồi nhân quả”. Luân hồi và nhân quả
là hai sự kiện tương quan. Bởi con người còn mang nghiệp trái của nhân
quả thiện – ác nên mới bị luân hồi. Và sự luân hồi khổ vui đều do ảnh
hưởng tốt xấu của nhân quả thiện – ác, mà nơi phát sinh lại từ thân,
ngữ, ý. Nhân nào quả nấy, trạng thái vô cùng! Còn luân hồi là sự xoay
vần của Nghiệp.
Quả báo lành, dữ được cho từ Tâm tạo ra.
Tâm nóng giận, tà dâm, dửng dưng, độc ác, tham lam là tạo nghiệp
chướng. Vậy muốn hưởng quả lành, phải tu nhân tịnh, dễ hiểu là việc tu
nhân tích đức. Khi chúng ta đã õ biết rõ luật nhân – quả, thì cũng
chẳng thể từ chối không nhận thuyết luân hồi. Luân hồi là nhân quả liên
tục, có ảnh hưởng chi phối lẫn nhau từ kiếp này sang đến kiếp khác,
chỉ có những bậc chứng nhân không mới thoát khỏi vòng luân hồi đó mà
thôi. Vậy Nhân Quả là gì? Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả, nguyên
nhân gây ra thế nào, kết quả ra thế ấy. Nói theo lối khác, Nhân là hạt
giống, Quả luận với tính cách rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt
giống thuộc hoa trái nào, tất sẽ được hoa trái ấy. Người nào tạo nhân
nào, người đó hưởng quả nấy.
Về phương diện nghiệp nhân, trong kiếp
sống, loài người khi gây Nhân có ba điều khái yếu: Nghiệp thiện, Nghiệp
chướng và Bất động nghiệp. Bất động nghiệp là những nhân thiền định,
như thế gian thiền, ngoại đạo thiền, xuất thế gian thiền…
Ba nghiệp nhân trên phát sinh từ thân,
ngữ, ý. Nhân lành của thân là làm việc thiện. Nhân lành của ngữ là nói
những lời hay ý đẹp, lời chân thật. Nhân lành của ý là chỉ nghĩ việc
tốt lành cho người. Nếu thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại
tạo thêm các điều thiện, gọi là ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp
ác. Trong ba nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Đa
ngôn đa quá”, nghĩa là “nhiều lời tất nhiều lỗi”. Vì thế khi thốt ra
lời gì phải dè dặt suy nghĩ kỹ.Nếu trong ba nghiệp, khẩu nghiệp đã dễ
tạo, thì ý nghiệp lại có năng dụng mạnh hơn cả. Nhân được tạo ra ngay
từ những suy nghĩ rồi, nên hãy cẩn thận.
Khái niệm Nghiệp rất quan trọng trong đạo
Phật, đó là quy luật chung nhất về nguyên nhân và kết quả. Theo đạo
Phật mỗi tác động (nghiệp) – dưới một điều kiện nhất định sẽ tạo thành
một quả. Một khi quả đó chín, nó sẽ rơi trở lại người tạo ra nó. Muốn
thành quả, một nghiệp phải tốt (Thiện) hay xấu (Bất thiện) và được xem
hành động cố ý. Vì sự cố ý đó, một nghiệp để lại dấu vết nơi tâm thức
của người tạo ra nghiệp và tâm thức đó sẽ hướng theo những sự tạo tác
của chính mình. Thời gian để một quả chín muồi có thể kéo dài rất lâu
và chính nó tác động lên sự tái sinh và làm loài hữu tình, trong đó có
con người cứ lưu giữ mãi trong luân hồi. Một nghiệp được gây ra hoặc
bằng một hành động thuộc thân, thuộc tâm hay ngôn ngữ. Như thế khi
người ta có ý làm cái gì thì đã tạo nghiệp, không nhất thiết việc làm
đó có xảy ra hay không. Chính tư tưởng đã tạo tác nghiệp. Một hành động
sẽ không gây nghiệp nếu nó được thực hiện mà không xuất phát từ tham,
sân, si. Nghiệp tốt có thể mang lại kết quả tốt trong một sự tái sinh.
Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là chấm dứt tái sinh. Muốn thoát khỏi
luân hồi, con người phải từ bỏ nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu. Việc luân hồi
nhân quả rất vô cùng, như bánh xe quay tròn, vay trả trả vay, không
biết khi nào là kết cục. Trong luân hồi đã bao hàm nhân quả bởi nhân
quả nên mới có luân hồi. Cần nói thêm, trong luân hồi có hai nghiệp ái
dục và sát sinh là nặng nhất. Do sát sinh mới thành cảnh oan hờn, chém
giết lẫn nhau. Ái dục được xem là nghiệp sâu nặng và mạnh mẽ nhất trong
các thứ nhiễm lạc đời, khuyên bảo con người tránh việc sai trái mà làm
hỏng đi quá trình tiến hóa.
Một trường hợp được xem là liên quan đến chuyện đầu thai
Chuyện “đầu thai” không phải mê tín dị đoan
Theo TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên
hiệp KHCN – Tin học ứng dụng (UIA), hiện tượng này cần được nhìn nhận
và nghiên cứu trước khi khẳng định hay phủ định, hiện tượng “đầu thai”,
“tái sinh” hoàn toàn không phải chuyện mê tín mà chỉ nên coi là hiện
tượng khó lý giải mà khoa học chưa với tới được. Thực tế cho thấy,
ngoài trường hợp cậu bé Tiến ở Vụ Bản, có rất nhiều trường hợp khác đã
được ghi nhận bất chấp tin hay không.
“Vấn đề này đã từng gây tranh cãi, nếu
phủ định hoàn toàn thì đó là mê tín chủ quan, coi việc mình không biết
là không đúng, không có thật. Tuy nhiên, ở góc độ khoa học cũng không
nên để mình rơi vào trạng thái mê tín cực hữu, nghĩa là tin mê muội,
không cần rõ đúng sai. Cần phải hiểu rõ vấn đề, tránh hoang mang trong
dư luận”.
Chết liệu đã hết?
Thuyết luân hồi trong Phật giáo cho rằng,
từ xưa đến nay, cảnh đời người trải qua biết bao cuộc bể dâu diễn biến
và người đời mãi tranh đua ganh ghét tàn hại nhau vì mối danh, lợi,
sắc, tài. Chính điều này gây ra nhiều nỗi khổ bởi gây nhiều tác nghiệp,
mà sở duyên của nghiệp, lại từ nơi vọng tâm mê hoặc cố chấp lấy cái
tôi. Nếu biết trở lại nguồn chân mà chặt đứt gốc vô minh ngã chấp thì
nghiệp chướng được xóa bỏ.
Luân hồi là một thuyết có chứng nghiệm,
không phải hoang đường.Nhiều người cho rằng, loài người cũng như loài
vật, khi chết rồi thì cả linh hồn và thể xác đều tiêu hoại, không có
đời sau. Thuyết này không đúng. Xin nhắc thêm, không chỉ loài người mà
loài vật cũng có linh hồn, điều này lý giải tại sao nhà Phật rất kiêng
kị chuyện sát sinh. Người có thể “đầu thai” thành kiếp vật hay ngược
lại. Phần linh hồn từ đó mà có chuyện “oán thán”, gây thành nghiệp
chướng cho đời sau.
Xưa nay trong thế giới, Đông cũng như Tây
phương, rất nhiều sự thật chứng minh con người có chuyển kiếp ở đời
sau. Nếu cho rằng không có việc tội, việc phúc liên quan đến đời sau,
thì xã hội sẽ không yên, thế giới này đại loạn, con người tha hồ tạo đủ
những việc thuộc Tham – Sân – Si, không ai tu thiện làm gì, bởi theo
họ: chết rồi là hết. Cho nên lối suy nghĩ này đã sai lầm, lại còn rất
nguy hiểm.
Điều đó lý giải phần nào về trường hợp
cậu bé Quyết Tiến ở Hòa Bình. Theo quan điểm thầy Huân: “Kiếp luân hồi
không có gì huyền bí hay huyễn hoặc, có rất nhiều trường hợp đã được
ghi nhận trên thế giới, điều đó trở nên huyền bí do khoa học hiện đại
của con người vẫn chưa có cách chứng minh thuyết phục được thế giới vô
hình mà thôi”. Cậu bé Tiến “trở về” cùng bố mẹ có thể hiểu theo đúng
nghĩa của kiếp tái sinh do em còn phúc duyên, còn tình cảm nặng lòng
với mẹ cha mà được quay về. Con người ai cũng có kiếp luân hồi, không
phân biệt tuổi tác già hay trẻ, chỉ khác nhau ở chỗ linh hồn và thể xác
họ sẽ chuyển hóa thành thực thể nào, thiện – ác phân minh khi chết vẫn
tái sinh thành người không phải ai cũng hưởng điều đó.
Thầy Huân cũng cho rằng: “Không nên xem
chuyện tái sinh là điều kỳ lạ, hoang đường, hãy nghĩ đến điều con người
muốn hướng đến cuộc sống sao cho ý nghĩa, hiếu nghĩa với mẹ cha, thực
hiện những việc làm nhân văn để sau này hưởng luật nhân quả, không được
tái sinh thì ít nhiều tạo điều phúc cho con cháu, đó mới là điều ý
nghĩa và quan trọng trong thuyết Luân hồi của nhà Phật. Nghiệp làm con
người tái sinh trong một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định, nhưng hành
động con người trong cuộc đời đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn
cảnh, sự phản ứng đối với hoàn cảnh lại nằm trong tay con người. Chuyện
cậu bé “tái sinh” đấy là một minh chứng trong vô vàn trường hợp khác,
tôi tin quan niệm “chết là hết” chưa hẳn đã đúng, phải chăng chỉ là
tiếng thở dài vô thức trong đời người mà thôi…”. Còn theo quan điểm cá
nhân tôi, kiếp luân hồi là có thật trong cuộc sống. Thật ở chỗ loài
người vẫn đang đau đầu đi tìm lời giải đáp, sẽ còn kéo dài từ đời này
sang đời khác…
Theo Mạnh Kiên - PetroTimes